HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Educational Sciences, 2022, Volume 67, Issue 1, pp. 74-86
This paper is available online at
DOI: 10.18173/2354-1075.2022-0008
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÓI QUEN ĐỌC SÁCH
CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
Nguyễn Thị Mai Hương
Khoa Công tác xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài báo này nhằm tìm hiểu về các yếu tố thúc đẩy và cản trở sự hình thành thói
quen đọc của trẻ em dân tộc thiểu số tại hai tỉnh Yên Bái và Quảng Nam. Các kết quả của
nghiên cứu này sẽ được sử dụng để thực hiện các thay đổi cần thiết nhằm khuyến khích
việc đọc của trẻ em nhằm đạt được mục tiêu hỗ trợ trẻ ở bậc tiểu học. Nghiên cứu đã thu
thập dữ liệu chi tiết về thói quen đọc, và các yếu tố tác động đến việc hình thành và duy trì
thói quen của học sinh tiểu học. Phương pháp Thảo luận nhóm trọng tâm, Phỏng vấn sâu,
và Phỏng vấn cá nhân (dùng bảng hỏi) đã được sử dụng với nhóm người hưởng lợi của
nghiên cứu (học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh). Bài báo này trình bày những phát hiện từ
cuộc nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc của học sinh tiểu học ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ khóa: thói quen đọc, học sinh tiểu học.
1. Mở đầu
Đọc là một trong những kĩ năng cơ bản nhất mà học sinh cần phải học để thành công. Mỗi
học sinh học và xử lí thơng tin một cách khác nhau. Điều này có nghĩa là một số học sinh có thể
có niềm yêu thích tự nhiên với việc đọc, và một số có thể khơng. Kĩ năng đọc tốt khơng chỉ có
lợi cho học sinh về mặt học tập mà cịn là kĩ năng cần thiết để thành công suốt đời. Đọc sách
làm tăng khả năng chú ý, thúc đẩy tư duy phân tích mạnh mẽ hơn và phát triển vốn từ vựng.
Bằng cách học cách làm cho việc đọc trở nên thú vị, học sinh có nhiều khả năng phát triển niềm
u thích đọc sách, thúc đẩy thói quen đọc tốt nhất và làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn [1].
Tình trạng khó khăn trong việc học đọc được coi là phổ biến và việc tìm ra nguyên nhân,
giải pháp khả thi cho tình trạng khó khăn này là một quá trình liên tục. Nghiên cứu của 2 tác giả
Louise Mostert và Gerd Wikan tập trung vào thái độ và thói quen đọc của học sinh Namibia và
Na Uy, khảo sát trên 155 học sinh lớp 6. Các biến số dường như có tác động lớn nhất đến thói
quen và thái độ đọc là giới tính, sự sẵn có của tài liệu đọc ở nhà, việc cha mẹ kể chuyện và đọc
cũng như ngơn ngữ chính ở nhà. Sự khác biệt rõ ràng cũng được tìm thấy giữa các khu vực
được nghiên cứu [10].
Hội thảo Thực trạng và giải pháp phát triển văn hoá đọc ở Việt Nam Bộ Văn hoá – Thể
thao – Du lịch (16/9/2018) đã có cái nhìn tổng qt và sâu sắc về tình hình đọc sách của người
dân Việt Nam, đặc biệt là bộ phận giới trẻ (học sinh, sinh viên).
Ở Việt Nam, các dân tộc thiểu số chiếm một tỉ lệ nhỏ dân số (13,4 triệu người, 14,6% dân
số cả nước), nhưng số hộ nghèo chiếm tới 52% số hộ nghèo ở Việt Nam [7]. Một trong những
yếu tố góp phần làm tăng số người dân tộc thiểu số ở trong tình trạng nghèo đói là trẻ phải đối
Ngày nhận bài: 11/12/2021. Ngày sửa bài: 29/12/2021. Ngày nhận đăng: 2/1/2022.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Mai Hương. Địa chỉ e-mail:
74
Những yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của học sinh tiểu học
mặt với những thách thức trong việc tiếp cận nền giáo dục có chất lượng và và hoàn thành việc
học. Trong số những trẻ em học hết tiểu học, trẻ em dân tộc thiểu số bất lợi hơn so với trẻ em
đồng lứa người Kinh - đạt kết quả giáo dục thấp hơn, đặc biệt là thành tích thấp hơn trong tiếng
Việt và mơn Tốn [13]. Khảo sát cơ bản IDELA của Save The Children năm 2015 cho thấy mức
độ sẵn sàng đi học của học sinh mẫu giáo dân tộc thiểu số ở huyện Tây Giang và Văn Chấn rất
thấp (điểm trung bình chỉ là 33%), trong đó điểm trung bình về kĩ năng đọc viết mới chỉ đạt
21% và điểm trung bình các kĩ năng tốn học mới đạt 38% [14].
Mơi trường giáo dục có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển thói quen đọc ở học sinh tiểu học. Khi trẻ thấy cha mẹ đọc nhiều, chúng cũng sẽ
hình thành thái độ tích cực đối với sách và có nhiều khả năng thích đọc sách trong suốt cuộc đời
[9]. Song, ở Việt Nam, nhất là ở các vùng có dân tộc thiểu số, thì vấn đề này chưa được nghiên
cứu nhiều và các hoạt động nâng cao thói quen đọc ở học sinh chưa được chú trọng đẩy mạnh.
Bài báo này sẽ phân tích các tác động lên thói quen đọc của học sinh tiểu học ở một số xã
thuộc tỉnh Quảng Nam và Yên Bái của Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp giúp tăng
cường việc hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh các trường tiểu học ở các vùng dân
tộc thiểu số.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố ngăn cản hoặc thúc đẩy thói quen đọc của trẻ em từ 6
đến 11 tuổi ở ba huyện (Mù Cang Chải, Văn Chấn - tỉnh Yên Bái và Tây Giang - tỉnh Quảng
Nam). Mục tiêu của nghiên cứu gồm:
1) Mơ tả và phân tích về thói quen đọc của học sinh tiểu học tại địa bàn nghiênc cứu (bao
gồm các thành tố việc đọc, niềm tin và thái độ đối với việc đọc);
2) Mơ tả và phân tích về các yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc của học sinh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu định tính và định lượng
Thơng tin định tính thu thập với các cơng cụ sau:
- Thảo luận nhóm trọng tâm (FGD) với các nhóm học sinh, giáo viên và phụ huynh, sử
dụng Hướng dẫn FGD.
- Phỏng vấn sâu (IDI) với đại diện các trường học, học sinh có thói quen đọc tốt, giáo
viên và phụ huynh làm tốt việc hình thành/thúc đẩy thói quen đọc của học sinh, sử dụng Bộ câu
hỏi bán cấu trúc.
- Các mẫu biểu thu thập thông tin nhằm giúp đánh giá môi trường đọc và các điều kiện
hỗ trợ việc đọc đã được dùng ghi chép các thơng tin có được qua quan sát và đánh giá tại các
trường dự án.
- Trong các FGD và IDI, những phát biểu/ trò chuyện của người tham gia đã được ghi âm
lại và sau đó được 'gỡ băng' để đảm bảo nắm bắt tốt nhất thông tin các cuộc thảo luận. Việc ghi
âm được thông báo và được những người tham gia cho phép trước khi thực hiện.
Thông tin định tính được xử lí và phân tích bằng NVIVO phiên bản 10, phần mềm hỗ trợ
phân tích dữ liệu trên máy điện tốn, hỗ trợ phân tích định tính chuyên sâu các nguồn dữ liệu
văn bản và âm thanh, do QSR International Pty Ltd phát triển.
Thông tin định lượng được thu thập bằng cách phỏng vấn cá nhân các học sinh được chọn
ngẫu nhiên (Phỏng vấn cá nhân), sử dụng Bảng câu hỏi cho học sinh. Bảng câu hỏi được thiết
kế với thông tin định lượng, với các câu hỏi được cấu trúc theo thứ tự thời gian cho phép cuộc
75
Nguyễn Thị Mai Hương
phỏng vấn được thực hiện theo cách đối thoại tự nhiên để đảm bảo rằng thông tin được thu thập
đáng tin cậy.
2.2.2. Cách thức chọn mẫu
Cỡ mẫu đã thực hiện là 398, bao gồm 251 học sinh ở Yên Bái và 147 học sinh ở Quảng
Nam. Cỡ mẫu này đảm bảo độ tin cậy 96% và biên độ sai số ±5% về mặt thống kê, có nghĩa là
những kết luận từ việc phân tích các số liệu thu được trên mẫu này có thể suy rộng cho tổng thể,
có thể được áp dụng tất cả học sinh các trường được khảo sát với độ chính xác là 96% với sai số
±5% (chính xác hơn hoặc ít chính xác hơn trong phạm vi 5%).
Cỡ mẫu được tính theo tổng số học sinh của trường của cả hai tỉnh, sử dụng các công thức sau:
Cỡ mẫu: n = Nx/((N-1)E2 + x)
Biên độ sai số:
E = Sqrt[(N – n)x/n(N-1)]
C
Trong đó: x = Z( /100)2r(100-r)
Theo đó N là tổng số học sinh các trường dự án (5.563 học sinh tại cả hai tỉnh), r là tỉ lệ các
câu trả lời đã chọn (96%), và Z(c/100) là giá trị biên độ sai số c (5%).
Cơng thức tốn xác suất thống kê này được xây dựng dựa trên phân phối chuẩn (hay phân
phối Gauss) để tính tốn cỡ mẫu cho các cuộc điều tra khoa học xã hội (Chi tiết về công thức
xác suất thống kê tốn có trong Basic Statistics: A Modern Approach do Hamburg, Morris.
Harcourt Brace Jovanovich; 3rd edition (January 1, 1985)).
Việc phân bổ cỡ mẫu cho mỗi trường dựa trên tỉ lệ số học sinh của trường trên tổng số học
sinh các trường. Khi xem xét điều kiện địa bàn các trường, một số điều chỉnh nhỏ đã được thực
hiện đối với cỡ mẫu cho một số trường bằng cách bù trừ số học sinh được phỏng vấn của các
trường với nhau, ví dụ tăng số học sinh phỏng vấn tại Lai Chải lên 2 và giảm số học sinh phỏng
vấn tại Cao Phạ 2 học sinh. Các điều chỉnh này được thực hiện theo thực tế điều tra tại hiện trường.
Bảng 1. Công cụ và người cung cấp thông tin theo tỉnh
Yên Bái (8 trường dự án)
Quảng Nam
(4 trường dự án)
Phỏng vấn cá nhân – học sinh
252
138
FGD – Học sinh
8
4
FGD – Giáo viên
8
4
FGD – Cha mẹ học sinh
8
8
IDI – Học sinh
7
4
IDI – Phó hiệu trưởng/Hiệu trưởng
7
4
IDI – Cha mẹ học sinh
3
Bảng 2. Giới tính và nhóm lớp học sinh
76
Số học sinh
%
Nữ
219
55.0
Nam
179
45.0
Lớp 1
51
12.8
Lớp 2
65
16.3
Lớp 3
81
20.4
Lớp 4
99
24.9
Lớp 5
102
25.6
Những yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của học sinh tiểu học
Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản được áp dụng để lựa chọn ngẫu nhiên số học
sinh theo cỡ mẫu đã xác định để phỏng vấn. Hàm ngẫu nhiên trong Excel f(x) = RAND() được
sử dụng để chọn ngẫu nhiên các học sinh danh sách học sinh của từng trường.
2.3. Kết quả nghiên cứu
Các yếu tố tác động đến thói quen đọc của học sinh: Phát triển khung lí luận về chuyển đổi
hành vi (James O Prochaska), thói quen đọc của học sinh chịu tác động của 3 nhóm yếu tố: a)
năng lực tự thân của học sinh, b) các điều kiện hỗ trợ, và c) môi trường xã hội.
2.3.1. Năng lực tự thân của học sinh
Năng lực tự thân của học sinh có ảnh hưởng đến thói quen đọc mang hình thái của chuỗi
nhận thức – niềm tin – thái độ. Học sinh tại các trường khảo sát đã thu nhận được những kiến
thức nhất định (có nhận thức) thơng qua học tập, và qua chính việc đọc, từ đó có niềm tin vào
vào lợi ích của việc đọc sách báo. Với niềm tin tưởng vào lợi ích của việc đọc, đã giúp học sinh
hình thành thái độ tích cực/ đúng đắn đối với việc đọc.
Từ góc độ tộc người có thể thấy rằng, nhiều học sinh người Cơ Tu có niềm tin vào lợi ích
của việc đọc trong cung cấp kiến thức mới với tỉ lệ 58,2%, đồng thời nhiều học sinh Cơ Tu cũng
nhìn thấy tác dụng giải trí của việc đọc (43,4%) – nếu số học sinh có niềm tin vào lợi ích kiến
thức đồng thời cũng nhìn thấy tác dụng giải trí của việc đọc thì việc duy trì thói quen đọc sẽ tốt
hơn khi kết hợp hài hòa việc học hỏi và giải trí, tương tự như ‘tìm thấy niềm vui trong học tập’.
Đáng lưu ý là tỉ lệ học sinh người Dao tin rằng sách quan trọng cho cuộc sống ở vị trí cao nhất
trong những tỉ lệ của học sinh các dân tộc khác (11,5%). Có tỉ lệ khá cao học sinh người Dao tin
tưởng vào ích lợi phục vụ cho việc học tập ở trường lớp của việc đọc: 54,2%; bên cạnh đó tỉ lệ
học sinh người Dao tin vào lợi ích kiến thức của việc đọc cũng khá cao 39,6%. Điều đó cho thấy
niềm tin của học sinh người Dao tập trung vào lợi ích kiến thức: kiến thức trong và ngồi
chương trình học. Học sinh người Kinh ít về số lượng nhưng có tỉ lệ đồng đều và khá cao tin
tưởng vào lợi ích của việc đọc sách về các khía cạnh: kiến thức mới (44%), giải trí (44%), và
học tập ở trường lớp (32%). Có nhiều học sinh người Mơng tin vào lợi ích về học tập ở trường
lớp của việc đọc, dù với tỉ lệ thấp hơn (40.1%) so với học sinh người Cơ Tu nhưng có số tuyệt
đối cao hơn – xem Biểu đồ 1.
70
60
58.2
54.2
50
44
44
43.4
40.1
39.6
40
34.5
32
30
23.8
20.8
19.8
18.8
20
14.6
11.5
10
2.1
6.6
4 3.6
4.2 4
1
2.5
0
Học thêm nhiều kiến Là một cách giải trí
thức mới
Giúp hiểu bài học ở Sách báo rất cần cho
trường lớp
cuộc sống
Cơ Tu n=120
Dao n=48
Kinh n=25
Sách như những
người bạn
Không biết
Mông n=197
Biểu đồ 1. Niềm tin vào việc đọc, theo tộc người (%)
77
Nguyễn Thị Mai Hương
50
47.5
45
40
40.8
36.3
32.4
35
30
31.1
25.1
25
20
13.411.9
15
10
5 6.4
1.7
5
4.6
1.7 0.9
0
Học được
nhiều kiến
thức mới
Hiểu hơn về Là một cách Sách rất cần Sách như Mất thời gian Khơng biết
bài học ở
giải trí
thiết cho cuộc người bạn
trường
sống
Nam
Nữ
Biểu đồ 2. Niềm tin vào việc đọc của học sinh theo nam-nữ (%)
Có tỉ lệ khá lớn học sinh tin tưởng vào các lợi ích khác nhau của việc đọc: 42,5% tin vào
lợi ích học hỏi kiến thức, 36,2% tin và lợi ích trong củng cố bài học ở trường, 9,1% tin rằng
sách cần thiết cho cuộc sống và như những người bạn (5,8% + 3,3%), và 28,4% nhận thấy lợi
ích của việc đọc như một cách giải trí. Từ nhận thức này, học sinh đã hình thành thái độ đúng
đắn đối với các khía cạnh lợi ích mà việc đọc mang lại. Có thể thấy rằng thái độ tích cực đầy đủ
nhất với việc đọc là ‘sách quan trọng với cuộc sống và như những người bạn’, trong khi quan
niệm việc đọc là ‘cách giải trí’ có thái độ ít tích cực hơn.
Trong các dân tộc, học sinh người Cơ Tu có thái độ tích cực nhất đối với việc đọc và như
vậy yếu tố năng lực tự thân có ảnh hưởng tích cực nhất đến thói quen đọc của học sinh người
Cơ Tu. Mức độ ảnh hưởng tích cực của yếu tố năng lực tự thân đến thói quen đọc của học sinh
người Dao có thể được xếp thứ hai một cách tương đối, với tỉ lệ cao nhất học sinh người Dao
(54,2%) tin rằng đọc giúp hiểu hơn về bài học ở trường. Qua số liệu ở Biểu đồ 1 có thể thấy
rằng yếu tố năng lực tự thân có mức độ tác động tích cực thấp nhất đến thói quen đọc của học
sinh người Mơng, với các tỉ lệ học sinh có niềm tin vào lợi ích của việc đọc ở các khía cạnh
khác nhau thấp hơn tỉ lệ đó ở học sinh thuộc ba dân tộc khác (Cơ Tu, Dao, và Kinh); và chỉ có tỉ
lệ học sinh quan niệm rằng đọc giúp học tốt bài học ở trường hơi vượt trội so với tỉ lệ đó ở học
sinh 2 dân tộc khác.
So sánh giữa học sinh nam và nữ, yếu tố năng lực tự thân có ảnh hưởng tích cực đến thói
quen đọc của nhiều học sinh nữ hơn so với học sinh nam, khi mà với tỉ lệ học sinh nữ có thái độ
tích cực hơn đối với việc đọc cao hơn tỉ lệ đó của học sinh nam, xem biểu đồ 2.
2.3.2. Điều kiện hỗ trợ
Các điều kiện hỗ trợ hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh bao gồm thư viện,
hiệu sách báo, và điều kiện kinh tế gia đình.
Điều kiện hỗ trợ thứ nhất – thư viện: Tại các trường địa bàn dự án, chỉ có 2 trường có thư
viện đạt chuẩn theo tiêu chí của Bộ giáo dục [3]. Trường tiểu học A Tiêng có thư viện ở điểm
trường chính và các thư viện mini đặt ở các điểm trường, tại đó sách được đặt trong tủ trong lớp
do các giáo viên chủ nhiệm theo dõi; thư viện của trường được công nhận đạt chuẩn năm 2017.
Tại trường tiểu học A Vương, thư viện đạt yêu cầu với 6 bàn đọc mỗi bàn 4 học sinh, cùng với
hành lang bên ngoài đảm bảo đủ chỗ cho học sinh ngồi đọc.
Có một số trường chỉ có thư viện ngồi trời, là các nhà chỉ có mái che không vách, ở sách
được bày biện khá thuận tiện cho học sinh đọc. Tại trường tiểu học Mồ Dề, có 2 thư viện ngồi
78
Những yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của học sinh tiểu học
trời cùng 8 cây sách do dự án hỗ trợ và bàn để sách ở các lớp. Trường tiểu học Cao Phạ, thư
viện ngoài trời được trang trí bằng việc tận dụng vật liệu dùng lại như lốp ô tô cũ, các ‘chuồng
chim’ đựng sách, khá cuốn hút
học sinh. Tại trường tiểu học
Nậm Lành, thư viện của trường
được bố trí dưới dạng chịi đọc
sách, tủ truyện. Tại các thư viện
loại này có thể thấy chỗ ngồi
chưa đủ; học sinh thường mượn
sách rồi ngồi đọc chỗ thuận tiện
trong sân trường. Với chỗ ngồi
đọc tại thư viện ngoài trời và ở
sân trường không đảm bảo được
tư thế ngồi đúng cho học sinh.
Vào những ngày mưa, không thể
mang sách ra bày ở thư viện
ngồi trời và học sinh khơng có sách đọc. Ảnh 1. ‘Giá sách’ ở thư viện ngoài trời – Cao Phạ
Tại trường tiểu học Lao Chải và Tà Ghênh (Nậm Có), nhà ăn được sử dụng làm thư viện khi
chưa đến bữa, tại đó học sinh có bàn ghế ngồi đọc khá tiện lợi và đảm bảo tư thế đúng nhưng việc
đọc không ổn định trong thời gian đủ dài, và không đảm bảo không gian yên tĩnh để đọc, việc đọc
bị phân tán khi công năng chính của nhà ăn là phục vụ bữa ăn cho học sinh. Hơn nữa, nhà ăn
khơng thể có được những bài trí kiểu thư viện để cuốn hút học sinh đọc. Tại trường tiểu học
Bhalee, thư viện là một phịng dùng chung, khơng có chỗ cho học sinh ngồi đọc; góc đọc trong
các lớp học chật chội do học sinh đông, nhiều bàn ghế. Tại trường tiểu học xã Dang, chỉ có thư
viện nhỏ, và học sinh mang sách ra đọc tại nhà cộng đồng (nhà Gươn) trong khuôn viên trường.
Nguồn sách tại thư viện các trường hiện nay ‘tạm đủ’ – theo phản ánh của đại diện Ban
giám hiệu các trường. Phần lớn các trường trước đây chỉ có một số lượng nhỏ đầu sách được
Phịng giáo dục cấp, sách từ một số tổ chức từ thiện – nhiều sách khơng phù hợp với lứa tuổi
học sinh vì là sách dịch và nhiều chữ (theo như phản ánh của trường tiểu học Suối Giàng, Nậm
Mười). Nguồn sách thư viện các trường nay được bổ sung thêm nguồn sách từ dự án, phù hợp
và đủ cho học sinh đọc vào thời điểm hiện tại, nhưng sẽ thiếu trong thời gian tới khi học sinh đã
đọc hết lượt. Bên cạnh đó, cũng có trường phản ánh rằng đầu sách ít và học sinh đã đọc hết lượt
nên không hứng thú đọc lại (trường tiểu học Mồ Dề). Các đầu sách ở thư viện được xây dựng phù
hợp với văn hóa địa phương, ví dụ các trường ở n Bái có Chuyện của Mẩy Na phù hợp học sinh
miền núi phía Bắc, trong khi Quảng Nam có Đăng Đoóc phân xử tài tình và Tiếng Cơ Tu.
Điều kiện hỗ trợ thứ hai – hiệu sách báo: Tại địa bàn các trường và vùng lân cận hầu như
khơng có hiệu sách báo. Tại Mù Cang Chải, muốn mua sách báo chỉ có thể tìm đến hiệu sách ở
thị xã Nghĩa Lộ cách hơn 100 km; tương tự tại địa bàn Tây Giang phải đến thành phố Đà Nẵng
cách đó trên dưới 100 km mới có thể có hiệu sách phong phú. Các xã vùng dự án tại địa bàn
huyện Văn Chấn – Yên Bái tuy khoảng cách đến thị xã nghĩa Lộ hay thị trấn để có thể mua sách
tuy gần hơn (từ 20 – 30 km) nhưng đường đi lại khó khăn (đèo dốc và đường xấu). Chỉ có xã
Suối Giàng thuận tiện hơn cả với hiệu sách gần nhất cách trên 15 km nhưng sách không phong
phú và vẫn phải đi xa hơn nếu muốn mua các sách phù hợp và theo ý muốn. Trong điều kiện
như vậy, cha mẹ học sinh hiếm khi mua sách cho con đọc trừ một số gia đình di chuyển ra bên
ngồi thường xun hơn do công việc (Trong các trường khảo sát, trường tiểu học A Tiêng có tỉ
lệ học sinh có sách báo tự mua/được mua cao nhất). Như vậy thiếu hiệu sách báo tại địa bàn dự
án là một trở ngại với việc hình thành và phát triển thói quen đọc của học sinh.
Điều kiện hỗ trợ thứ ba – điều kiện kinh tế gia đình: Phần lớn các hộ gia đình gặp khó khăn
79
Nguyễn Thị Mai Hương
trong đời sống. Các xã được khảo sát là những xã đặc biệt khó khăn thuộc diện hỗ trợ theo
chương trình 135 của Chính phủ (Theo Quyết định 900QĐ-TTg, ngày 20 tháng 6 năm 2017,
Phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an tồn khu vào diện đầu tư của
Chương trình 135 giai đoạn 2017 – 2020). Trong các cuộc thảo luận nhóm, các cha mẹ học sinh
chia sẻ rằng hầu hết hộ gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, khơng có điều kiện lập góc học
tập và mua sách cho con đọc. Cha mẹ học sinh tại Nậm Có cho biết ‘Do điều kiện kinh tế khó
khăn, các nhà chưa thể nghĩ đến việc đọc sách báo ngoài việc lo mưu sinh hàng ngày’. Cha mẹ
học sinh xã A Vương khẳng định ‘Nhiều hộ nghèo, khơng có điều kiện mua sách mua đèn học
cho con’. Chỉ có một số hộ gia đình có góc học tập riêng cho con. Có 6 trong số 10 cha mẹ xã
Dang tham gia thảo luận nói con họ trải chiếu trên sàn nhà ngồi đọc. Cha mẹ học sinh tại Nậm
Mười cho biết có khoảng gần một nửa số hộ gia đình có góc học tập cho con nhưng cũng là chỗ
ngồi tạm. Trong 5 người mẹ xã Nậm Lành chia sẻ về chỗ ngồi học của con mình, chỉ có một
người cho biết con họ đọc/học ở góc học tập, số cịn lại có con ngồi học ở chiếu trải dưới sàn hoặc
học ở bàn nước. Các cha mẹ ở Lao Chải cho biết ‘Có nhà có góc học tập riêng cho con đọc,
nhưng nhiều nhà khơng có – con đọc ở bàn nước, có khách thì con vào bếp đọc; điện yếu nên
khơng đủ ánh sáng’. Phần lớn các gia đình khơng mua sách cho con đọc. ‘Nhà khơng có điều kiện
mua sách. Con đem sách về từ trường về đọc thơi’ – chia sẻ của chị Agc, xã Dang. ‘Con tôi học
lớp 4, con đọc báo Măng non mượn về, nhà khơng có điều kiện mua sách’ – chia sẻ của chị Chớp,
xã Dang. ‘Mình khơng mua được sách truyện cho con. Nhiều gia đình ở đây cũng khơng có điều
kiện để mua sách cho các con đọc’ – chia sẻ của anh Pảy, xã Sùng Đơ. Bên cạnh đó, nhóm cha mẹ
ở A Tiêng và Bha lêê khẳng định có thể mua được sách cho con, chỉ có khơng có nơi mua.
Nguồn thu nhập của các hộ gia đình thấp đã hạn chế điều kiện hỗ trợ về vật chất cho việc
hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh từ góc độ gia đình. Kinh tế gia đình khó khăn
và thiếu các phương tiện phổ biến tri thức, cụ thể là sách báo (do cả nguyên nhân thói quen đọc
chưa hình thành) đã hạn chế nguồn tài liệu đọc. Các điều kiện hỗ trợ cho việc đọc chỉ được một
số ít hộ gia đình tạo dựng: góc học tập riêng cho con em với chỗ ngồi phù hợp và đủ ánh sáng.
Chỗ đọc không đảm bảo ánh sáng và tư thế đúng cho học sinh ở phần lớn các hộ gia đình (đọc
trên sàn, trên giường) một mặt khơng đảm bảo các u cầu chăm sóc sức khỏe học đường, ảnh
hưởng đến chính sức khỏe của học sinh (lệch vẹo cơ thể, ảnh hưởng xấu đến thị lực), mặt khác
hạn chế khuyến khích thói quen đọc của học sinh.
2.2.3. Mơi trường xã hội
Nhóm yếu tố xã hội ảnh hưởng đến thói quen đọc của học sinh bao gồm bạn bè, giáo viên,
phương pháp dạy và học, cha mẹ, và cộng đồng với các vai trò hỗ trợ, khuyến khích, và nêu gương [8].
Bạn bè của học sinh
Lứa tuổi học sinh với nhận thức cảm tính là chủ đạo nên dễ thích thú với các hoạt động làm
cùng bạn bè [12]. Tại các trường khảo sát, phần lớn học sinh hứng thú với việc đọc và đó là
nguồn khích lệ các học sinh đọc sách báo ở trường. Trong khi đọc, học sinh cũng đã có những
hoạt động học hỏi, trao đổi với nhau ở mức độ nhất định về nội dung sách và đổi sách cho nhau
để đọc được nhiều hơn. Ở một số trường, các học sinh cũng đã có những thi đua đọc đúng (lời
và dấu chấm câu) môn tập đọc. Các ‘thi đua’ này một mặt giúp cho việc rèn luyện để học tốt bài
trên lớp, mặt khác tạo nên sự ‘thi đua đọc’ là một cách phát triển thói quen đọc. Theo thuyết học
tập xã hội của Albert Bandura thì trẻ dễ bắt chước theo những gì trẻ quan sát được, và số liệu
thu được cho thấy hơn 75% học sinh cho biết ‘Nhìn thấy bạn đọc sách báo’ (xem biểu đồ 3).
Đây là một dấu hiệu tốt về nguồn khích lệ để học sinh ‘bắt chước’ bạn trong việc đọc. Như vậy,
bạn cùng trường lớp của học sinh các trường được khảo sát, đang là yếu tố tích cực tác động đến
sự hình thành và phát triển thói quen đọc cho học sinh.
Xét theo tỉnh, yếu tố bạn bè với vai trò nêu gương tại Quảng Nam tác động mạnh hơn so
với tại Yên Bái. Biểu đồ cho thấy tại Quảng Nam tỉ lệ học sinh ‘nhìn thấy bạn bè đọc’ cao hơn tỉ
80
Những yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của học sinh tiểu học
lệ đó tại Yên Bái: 88,4% so với 67,3%. Có thể thấy rằng tại Quảng Nam, tỉ lệ học sinh đọc cao
hơn so với tại Yên Bái và qua đó các học sinh càng được khuyến khích đọc bằng việc ‘nêu
gương’ một cách tự nhiên.
75.1
80
70
60
50
40
30
20
10
11.3
12.3
15.1
18.1
5.5
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
88.4
67.3
23.1
16.7
10.2
2.8
2.0
6.0
28.6
7.2
25.9
13.5
Anh chị Không Thầy cô Cha mẹ Anh chị Bạn bè
em họ thấy ai giáo
em ruột
0
Anh chị Không Thầy cô Cha mẹ Anh chị Bạn bè
em họ thấy ai
giáo
em ruột
Yên Bái
Quảng Nam
Biểu đồ 3. Nhìn thấy ai đọc (%)
Biểu đồ 4. Nhìn thấy ai đọc – theo tỉnh (%)
Giáo viên
Giáo viên đã có những hỗ trợ và khuyến khích nhất định để giúp hình thành và duy trì thói
quen đọc cho học sinh, trong đó bao gồm cả việc nhắc nhở đọc và hướng dẫn đọc. Biểu đồ 3
cho thấy có tương ứng 32,9% và 31,2% học sinh cho biết giáo viên có ‘hướng dẫn đọc’ và ‘nhắc
nhở việc đọc’. Tuy nhiên, phần lớn học sinh (73,3%) cho biết giáo viên ‘hướng dẫn đọc sách
giáo khoa’ – là sách dùng trong trong chương trình học chính khóa. Có 16,3% học sinh cho biết
thầy cô giáo ‘hướng dẫn đọc truyện tranh’ so với chỉ có 4% học sinh nói thầy cơ giáo ‘hướng
dẫn đọc truyện nhiều chữ’. Tỉ lệ này thấp có thể do có ít học sinh đọc truyện nhiều chữ nhưng
cần lưu ý là việc hướng dẫn đọc truyện nhiều chữ khó hơn và cần thiết hơn cho học sinh để đọc
hiệu quả. Tỉ lệ 12,3% học sinh phản ánh ‘nhìn thấy thầy cô đọc sách báo ‘ cho thấy vai trị ‘nêu
gương đọc’ của thầy cơ giáo chưa thực sự được thể hiện. Gánh nặng công việc của các giáo viên
ở các trường bán trú (vừa đứng lớp, vừa quản lí học sinh vào giờ tự học buổi tối, và những cơng
việc liên quan đến quản lí học sinh bán trú khác) có thể là nguyên nhân làm cho giáo viên khơng
có thời gian đọc. Nếu các giáo viên cố gắng đọc cùng với học sinh ngay trong buổi tối tự
học/đọc của học sinh thì vai trị ‘nêu gương đọc’ của giáo viên sẽ được thể hiện rõ nét hơn. Có
thể thấy rằng vai trị ‘hỗ trợ, khuyến khích, và nêu gương’ của các giáo viên chưa được thực
hiện một cách hiệu quả trong việc thúc đẩy hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh.
80
80
70
60
50
40
30
20
10
0
73.3
70
60
50
40
32.9
31.2
30
20
16.3
12.3
4
10
0
Hướng
Hướng Nhắc nhở Hướng
“Nhìn
Hướng
dẫn đọc dẫn đọc việc đọc dẫn đọc thấy thầy dẫn đọc
Sách giáo
Truyện
cô đọc
Truyện
khoa
tranh sách báo” nhiều chữ
Biểu đồ 5. Vai trị của giáo viên (%)
73.373.5
32.334
34.3
25.9
23.1
21.1
13.5
6
3.64.8
Hướng Hướng Nhắc nhở Hướng
“Nhìn
Hướng
dẫn đọc dẫn đọc việc đọc dẫn đọc thấy thầy dẫn đọc
Sách giáo
Truyện cô đọc Truyện
khoa
tranh sách báo” nhiều chữ
Yên Bái
Quảng Nam
Biểu đồ 6. Vai trò của giáo viên – theo tỉnh (%)
81
Nguyễn Thị Mai Hương
Phân tích theo tỉnh cho thấy, giáo viên tại Quảng Nam và Yên Bái đều thực hiện vai trò
gần tương đương nhau khi hướng dẫn học sinh học (đọc sách giáo khoa), với tỉ lệ học sinh gần
ngang nhau (73,5% và 73,3%) đề cập vai trò này. Giáo viên tại Yên Bái thể hiện rõ hơn vai trò
‘nhắc nhở đọc’ (34,3% học sinh Yên Bái đề cập đến vai trò này so với tỉ lệ 25,9% học sinh
Quảng Nam); trong khi đó giáo viên tại Quảng Nam thể hiện trội hơn vai trò ‘hướng dẫn đọc’
(34% học sinh Quảng Nam đề cập vai trò này so với 32,3% học sinh Yên Bái). Vai trò hướng
dẫn đọc từng loại sách cụ thể của giáo viên tại Quảng Nam thể hiện rõ hơn so với giáo viên tại
Yên Bái: 21,1% học sinh Quảng Nam cho biết giáo viên ‘hướng dẫn đọc truyện tranh’ so với tỉ
lệ 13,5% học sinh n Bái nói về vai trị này của giáo viên; tương tự có 4,8% học sinh Quảng
Nam khẳng định giáo viên ‘hướng dẫn đọc truyện nhiều chữ’ so với 3,6% học sinh Yên Bái. Vai
trò ‘nêu gương đọc’ của giáo viên tại Quảng Nam tỏ ra vượt trội so với giáo viên tại Yên Bái: có
đến 21,1% học sinh Quảng Nam cho biết ‘nhìn thấy thầy cơ đọc sách báo’ so với 6% học sinh
Yên Bái khẳng định việc này. Như vậy về tổng quan, giáo viên tại các trường dự án ở Quảng
Nam thể hiện tốt hơn vai trò thúc đẩy hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh so với
giáo viên tại Yên Bái (xem Biểu đồ 5).
Phương pháp dạy và học
Ảnh hưởng của phương pháp dạy và học đến hình thành thói quen đọc của học sinh thể
hiện trong tiết đọc sách và môn Tiếng Việt (tập đọc). Trong tiết thư viện/đọc sách, giáo viên đặt
câu hỏi và học sinh trả lời về những nội dung đọc được; hay giáo viên chủ nhiệm kể chuyện, đặt
câu hỏi để học sinh trả lời, muốn trả lời được học sinh phải đọc. Trong môn tiếng Việt, với bài
tập được giao, học sinh phải đọc. Một trong những cách khác, đó là giáo viên dạy tiếng Việt bố
trí đơi bạn cùng tiến: bạn đọc tốt hỗ trợ bạn chưa thạo trong việc đọc, và kiểm tra kết quả.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của phương pháp dạy và học đến thói quen đọc chưa thể hiện rõ
ràng trong việc dạy/học các mơn khác. Việc khuyến khích để học sinh đọc chưa được thực hiện
một cách có phương pháp mà đang ở mức độ ‘giới thiệu, liên hệ’ mà chưa đạt mức khai thác
kiến thức đọc của học sinh phục vụ cho bài học – quá trình phỏng vấn cho thấy giáo viên có sử
dụng việc liên hệ giữa mơn tập đọc, khoa học, và môn đạo đức với việc đọc sách, ví dụ thầy cơ
dạy đến nội dung khoa học thì có giới thiệu sách về nhà khoa học, hoặc tập làm văn, đạo đức thì
liên hệ một số truyện có ở trường.
Như vậy phương pháp dạy và học có tác động đến việc hình thành và duy trì thói quen đọc
ở học sinh ở tiết thư viện, và liên hệ ở mức độ thấp đến các nội dung sách đọc, mà chưa khai
thác được đầy đủ kiến thức từ việc đọc của học sinh phục vụ cho các bài học.
Cha mẹ học sinh
Cha mẹ học sinh đã có vai trị quan trọng trong hình thành thói quen đọc của học sinh,
nhưng mới ở một bộ phận nhỏ học sinh các trường. Về vai trò tạo điều kiện vật chất, như số liệu
phần trên đã trình bày – có một tỉ lệ nhỏ (12,8%) học sinh được cha mẹ tặng/mua cho sách báo.
Về vai trị hỗ trợ, có 38,9% học sinh cho biết cha mẹ nhắc nhở việc đọc, 31,9% học sinh có cha
mẹ hướng dẫn đọc, và 17,5% học sinh có cha mẹ đọc cùng. Mới chỉ có một bộ phận nhỏ cha mẹ
học sinh các trường khảo sát làm được vai trị nêu gương, thơng qua việc chính họ đọc hàng
ngày: 15,1% học sinh cho biết ‘nhìn thấy cha mẹ đọc sách báo’ – xem biểu đồ 7.
Cách thức hỗ trợ con hình thành thói quen đọc của các bậc cha mẹ khá đa dạng. Tại xã
BhaLêê, có sáu trong số mười cha mẹ tham gia thảo luận chia sẻ những cách khác nhau. ‘Khi
con hỏi về chuyện gì đó thì khuyến khích con đọc để tự tìm hiểu’ – chị Phương chia sẻ. Chị
Ngâu khuyến khích và giới thiệu sách cho con đọc – truyện Thánh Gióng, Sọ Dừa – ‘Truyện
hay lắm, con đọc sẽ thích’. Chị Giang nhắc con mượn sách thư viện để đọc. Chị Thị (học hết
lớp 3) khuyến khích con - là học sinh lớp 5, đọc hay đọc đúng. Chị Thôi khuyến khích con đọc
bằng cách đọc cho con nghe – ‘Đọc nhiều thì con thích, con mượn truyện và tự mang về nhà’.
Tại A Tiêng, hai cha mẹ hỏi con mình về nội dung con đọc được như một cách hướng dẫn. Một
82
Những yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của học sinh tiểu học
số cha mẹ ở xã Lao Chải nhắc nhở con đọc, đọc sách cùng con, giải thích các từ khó, và lắng
nghe con đọc. Đã có cha mẹ khuyến khích con đọc theo một cách thuyết phục hơn: ‘Khơng biết
đọc thì khơng biết gì, biết đọc thì ngày nào đó tự mình sẽ hiểu rộng ra nhưng bắt đầu là từ cái
đọc trước’ – là cách anh Sình nói với con để khuyến khích con đọc.
45
40
35
80
38.9
70
50
25
40
15
30
17.5
12.8
15.1
20
34.9
21.9
25.9
0
5
Nhắc nhở Hướng dẫn Đọc cùng Tặng sách “Nhìn thấy
việc đọc
đọc
Cha mẹ đọc
sách báo”
28.6
18.3
4.2
10
10
0
55.1
60
31.9
30
20
68.8
5.2
7.2
Nhắc nhở Hướng dẫn Đọc cùng Tặng sách “Nhìn thấy
việc đọc
đọc
Cha mẹ đọc
sách báo”
Yên Bái
Quảng Nam
Biểu đồ 7. Vai trò của cha mẹ (%)
Biểu đồ 8. Vai trò của cha mẹ, theo tỉnh (%)
Có sự khác biệt khá lớn giữa hai tỉnh dự án về vai trò của cha mẹ trong việc hình thành và
duy trì thói quen đọc của học sinh. Có thể thấy rằng tại Quảng Nam, tỉ lệ cha mẹ làm tốt vai trò
này cao hơn nhiều lần tỉ lệ đó ở Yên Bái. Có 68,8% học sinh tại Quảng Nam cho biết có cha mẹ
nhắc nhở việc đọc so với tỉ lệ đó 21,9% tại Yên Bái; 55,1% học sinh Quảng Nam có cha mẹ
hướng dẫn đọc so với 18,3% tại Yên Bái. Tỉ lệ cha mẹ đọc cùng con, tặng sách cho con tại Quảng
Nam cao vượt trội so với tại Yên Bái như thể hiện trên Biểu đồ 8. Tỉ lệ học sinh ‘nhìn thấy cha mẹ
đọc sách báo’ tại Quảng Nam (28,6%) cũng cao hơn rất nhiều so tại Yên Bái (7,2%).
Nguyên nhân của những khác biệt trên có nhiều khả năng liên quan đến văn hóa học hỏi và
khả năng tự học của cha mẹ ở hai tỉnh địa bàn dự án. Về tổng quan, xây dựng môi trường giáo
dục và việc tổ chức giáo dục ở các tỉnh phía nam trong đó có Quảng Nam được chú trọng và
thực hiện nghiêm túc hơn so với các tỉnh miền bắc. Cha mẹ học sinh ở cả hai tỉnh dự án đều có
điều kiện kinh tế xã hội gần tương đương (kinh tế thấp kém, học vấn thấp, mù chữ…). Trong
các cuộc thảo luận, cha mẹ học sinh tại Yên Bái chia sẻ về những khó khăn gia đình gặp phải về
kinh tế, và có xu hướng giải thích như đó là lí do khơng tạo được điều kiện cho con cái học
hành. Cha mẹ học sinh tại Quảng Nam cũng chia sẻ về những khó khăn về kinh tế gia đình và
điều kiện hạ tầng yếu kém, đồng thời cũng chia sẻ việc ‘tạo điều kiện hết sức cho con học
hành’, chia sẻ những việc mình làm để hỗ trợ con (hướng dẫn học/đọc, đọc cùng…).
Việc hỗ trợ của cha mẹ để giúp hình thành thói quen đọc của học sinh khác nhau giữa các
xã dự án. Một số cha mẹ học sinh các xã Bha lêê, A Tiêng, Lao Chải, Mồ Dề, Cao Phạ thể hiện
vai trị tích cực trong hỗ trợ con đọc qua việc nhắc nhở đọc và học vào buối tối, khuyến khích
con đọc để tìm thơng tin, hướng dẫn con đọc, giải nghĩa từ khó, và lắng nghe con đọc. Ở các
xã dự án khác, ít có cha mẹ học sinh hỗ trợ được con em mình trong hình thành thói quen đọc.
Đặc biệt tại các xã Nậm Có và Sùng Đơ, cha mẹ hầu như khơng biết đến việc con họ đọc/học
sách báo gì; tương tự ở xã Nậm Mười cũng chỉ có một vài cha mẹ học sinh cho biết có nhắc
nhở con học.
Theo kết quả phỏng vấn cho thấy, nguyên nhân của tình trạng trên là do nhiều cha mẹ mù
chữ, hoặc chỉ mới học dở cấp tiểu học - một mặt họ chưa thực sự nhận biết được tầm quan trọng
của việc đọc nên không quan tâm đến việc đọc sách, mặt khác họ không thể hướng dẫn con
đọc/học một cách đầy đủ. ‘Khơng biết chữ nên khơng biết mua gì cho các con đọc – là chia sẻ
83
Nguyễn Thị Mai Hương
của anh Lồng ở Sùng Đô. ‘Dạy con học gặp khó khăn vì khơng biết chữ khơng thể hỗ trợ con
học’ – là chia sẻ của các cha mẹ ở xã Nậm Có. Thêm vào đó, cha mẹ học sinh vùng dự án phần
lớn sống bằng sản xuất nông nghiệp (chủ yếu làm nương rẫy), khi trở về nhà đã mệt mỏi và ít có
thời gian đọc sách cùng con – chia sẻ của các cha mẹ tại xã Dang. ‘Phần lớn đi làm (nghề nông)
về mệt và ít chữ nên khơng giúp được con nhiều’ – chia sẻ của một số cha mẹ tại Suối Giàng. Như
vậy, mặt bằng học vấn thấp cùng với điều kiện kinh tế khó khăn là những cản trở cha mẹ trong
việc phát huy vai trị thúc đẩy sự hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh vùng dự án.
Cộng đồng
Ở các xã thuộc địa bàn khảo sát, người dân chưa có thói quen đọc, và cũng khơng có thư
viện hay cơ sở vật chất phục vụ đọc. Chỉ tại một trong 8 xã của Yên Bái – xã Suối Giàng, tại
nhà văn hóa của 8 thơn có sách báo về phịng chống tảo hơn (từ một dự án trước đó) nhưng ít
mở cửa và hoạt động đọc khơng thường xun; thơn Pàng Cáng có Câu lạc bộ đọc sách hoạt
động vào thứ Bảy và Chủ nhật. Ở thơn Giàng A, nhà văn hóa có sách báo nhưng người dân
chỉ được đọc khi mở cửa vào dịp họp hành hiếm hoi. Ở các thôn khác, sách được cất trong tủ
để bảo quản (‘nếu khơng khóa thì trẻ con lấy mất’) và người dân khơng có cơ hội đọc. Hiệu
ứng lan tỏa từ dự án trước đó tại Suối Giàng (dù hiện khơng hoạt động đầy đủ) giúp hình
thành thói quen đọc của học sinh tại Suối Giàng tốt hơn học sinh ở các trường khác (thể hiện
qua các phát biểu ở nhóm thảo luận với học sinh – các em nêu nhiều đầu sách đã đọc, nêu
nhiều lợi ích của việc đọc).
Có thể thấy rằng, các vai trị hỗ trợ, khuyến khích, và nêu gương đều chưa hình thành trong
cộng đồng vào thời điểm hiện tại, khi mà người dân/cộng đồng trong các xã dự án chưa có thói
quen đọc.
3. Kết luận
Các yếu tố thuộc về điều kiện vật chất hỗ trợ một phần đến hình thành thói quen đọc của
học sinh, nhưng không đồng đều giữa các trường học. Trang bị thư viện của các trường ở những
mức độ khác nhau tạo ra những mức độ hỗ trợ khác nhau. Tại 2 trường đã có thư viện đạt
chuẩn, học sinh có điều kiện đọc tốt; nhưng tại mười trường học khác với thư viện tạm hoặc
dùng chung, hay đơn giản chỉ là kho sách, học sinh phải tận dụng những chỗ ngồi tại trường để
đọc như lớp học, sân trường, nhà ăn – các địa điểm này vừa không đảm bảo để đọc vừa không
sử dụng được thường xuyên khi thời tiết xấu (hay khi nhà ăn được sử dụng); việc đọc của học
sinh tại các điểm trường vẫn là thách thức khi khơng thể bố trí thư viện. Sách báo tại thư viện về
cơ bản có nội dung phù hợp với lứa tuổi và văn hóa địa phương, trừ một số sách từ các nguồn từ
thiện; số lượng sách hiện tạm đủ, nhưng trong dài hạn sẽ thiếu vì học sinh đọc hết lượt.
Điều kiện vật chất của phần lớn các hộ gia đình khơng đảm bảo để cung cấp các điều kiện
hỗ trợ hình thành thói quen đọc cho học sinh. Các hộ gia đình khơng có bàn ghế cho con ngồi
học/đọc ở góc riêng, không đảm bảo ánh sáng cho việc đọc. Sách báo khơng có ở hầu hết các hộ
gia đình, một phần do thói quen đọc chưa được hình thành, một phần do điều kiện kinh tế, phần
khác do xa nơi mua khi mà hiệu sách báo khơng có tại địa bàn huyện.
Các yếu tố thuộc về môi trường xã hội (về bạn bè, thầy cô giáo, cha mẹ, và cộng đồng) đã
có những tác động tích cực nhất định đến thói quen đọc của học sinh nhưng không đồng đều ở
các yếu tố này. Thứ nhất, học sinh có được động lực để đọc khi mà bạn bè cùng trang lứa ở
trường hứng thú với việc đọc sách báo. Việc học hỏi trao đổi lẫn nhau giữa các học sinh (dù ít),
cùng với những thi đua khi đọc, cùng với việc nhìn thấy học sinh trong đọc sách báo, đã góp
phần hình thành và củng cố thói quen đọc. Thứ hai, thầy cơ giáo đã có những hỗ trợ và khuyến
khích nhất định để giúp hình thành và duy trì thói quen đọc cho học sinh, trong đó bao gồm cả
việc nhắc nhở đọc và hướng dẫn đọc, nhưng vai trò của giáo viên chưa thực sự được phát huy,
cũng như vai trò ‘nêu gương đọc’ chưa thể hiện rõ nét. Thứ ba, những tác động của phương
84
Những yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc sách của học sinh tiểu học
pháp dạy và học đến thói quen đọc mới chỉ thể hiện trong tiết đọc sách, mà chưa thể hiện rõ
ràng trong việc dạy/học các môn khác. Thứ tư, vai trò [rất quan trọng và mạnh mẽ] của cha mẹ
trong việc hình thành thói quen đọc của học sinh chưa thể hiện đầy đủ, cả về tạo điều kiện, hỗ
trợ, hướng dẫn, và nêu gương đọc. Thứ năm, cộng đồng vùng dự án khơng có ảnh hưởng đáng
kể đến việc hình thành và duy trì thói quen đọc của học sinh. Các vai trò hỗ trợ, khuyến khích,
và nêu gương đều chưa hình thành trong cộng đồng vào thời điểm hiện tại, khi mà người
dân/cộng đồng trong các xã dự án chưa có thói quen đọc thể hiện hợp lí nên chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn.
Lời cảm ơn: Bài viết này là sản phẩm của dự án “Nâng cao khả năng sẵn sàng đi học và
kết quả học tập của trẻ em dân tộc thiểu số ở Việt Nam giai đoạn 2018 – 2020” do Tổ chức Cứu
trợ Trẻ em (SC) và tài trợ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ajay singh, How To Develop Reading Habits In Students?, July 23, 2020. Nguồn:
/>[2] Aynur Bütün Ayhan, Şükran imek, Aye Mỹge Biỗer. An Analysis of Children's
Attitude Towards Reading Habits. International Association of Social Science Research.
Nguồn: files.eric.ed.gov/fulltext/EJ1188856.pdf.
[3] Bộ Giáo dục & Đào tạo. 2003. Tiêu chuẩn Thư viện Trường phổ thông. Quyết định số QĐ
01.2003.QĐ-BGDĐT ngày 2-1-2003 của Bộ Giáo dục & Đào tạo
[4] Bộ Giáo dục & Đào tạo. 2004. Công văn Hướng dẫn thực hiện Tiêu chuẩn thư viện trường
phổ thông. Công văn số 11185.GDTH ngày 17-12-2004 của Bộ Giáo dục & đào tạo
[5] Celik, Bunyamin, 2019. A Study on the Factors Affecting Reading and Reading Habits of
Preschool Children. International Journal of English Linguistics. 10. 101.
10.5539/ijel.v10n1p101.
[6] Chính phủ. 2017. Quyết định Phê duyệt đề án Phát triển văn hóa đọc cộng đồng. Quyết
định số 329.QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ ngày 15.3.2017
[7] Chính phủ. 2017. Quyết định phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an
toàn khu vào diện đầu tư của chương trình 135 giai đoạn 2017 – 2020. Quyết định số
900/QĐ-TTg ngày 20.6.2017 của Thủ tướng Chính phủ
[8] Disha Roy Choudhury, 2019. Build the reading habit in kids at the primary school level,
July 3. Nguồn: />[9] Jackson, E., 2008. Cuddling up with Child and a Good Book -10 Great Reasons to Read
Together.
In
BookNuts’
Parents
Page.
Retrieved
Feb,
20,
2008
/>[10] Louise Mostert & Gerd Wikan, Reading habits and attitudes of primary school pupils in
Namibia and Norway, Pages 95-107 | Published online: 25 Sep 2009
[11] Thân Trung Dũng. Xây dựng thói quen đọc sách cho trẻ từ gia đình. Nguồn:
/>truy cập ngày 25.5.2019
[12] Trương Thị Khánh Hà, 2015. Tâm lí học phát triển. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
[13] Save the Children, 2018. Tài liệu dự án (Project Proposal).
[14] Save the Children, 2019. Báo cáo tiến độ dự án.
85
Nguyễn Thị Mai Hương
ABSTRACT
The factors affecting reading habits of primary school students in ethnic minority
Nguyen Thi Mai Huong
Faculty of Social Work, Hanoi National University of Education
This article aims to understand the factors that promote and hinder the formation of reading
habits of primary school students in ethnic minority in Yen Bai and Quang Nam provinces. The
results of this study will be used to make the necessary changes to encourage children's reading
in order to achieve the goal of supporting children in primary school. The study collected
detailed data on reading habits, and the factors affecting the formation and maintenance of
habits of primary school students. Methods of Focus Group Discussion, In-depth Interview,
and Personal Interview (using a questionnaire) were used with the study's beneficiaries
(students, teachers, parents). This article presents findings from a study on factors affecting
reading habits of.
Keywords: factors affecting reading habits, primary school students.
86