Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Môn lãnh đạo quản lý báo chí báo CHÍ TRUYỀN THÔNG là một THIẾT CHẾ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.16 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ BÁO CHÍ
Đề tài
BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG LÀ MỘT THIẾT CHẾ XÃ HỘI


LỜI MỞ ĐẦU
Truyền thông là một hiện tượng xã hội phổ biến, ra đời phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội lồi người, có tác động và liên quan đến mọi cá
thể xã hội. Hiểu theo nghĩa rộng truyền thơng là một q trình liên tục trao
đổi, tương tác thơng tin, tư tưởng tình cảm, kiến thức và kinh nghiệm với
nhau về các vấn đề của đời sống cá nhân, xã hội, từ đó làm tăng sự hiểu biết,
hình thành hoặc thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi theo hướng có lợi cho sự
phát triển bền vững của cộng đồng xã hội. Xã hội càng phát triển, bùng nổ về
mặt công nghệ, nhu cầu thông tin của con người càng cao. Các sự kiện đăng
tải trên phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại sẽ đáp ứng được tính thời
sự, hấp dẫn, đa chiều và phong phú của thông tin cũng như nhu cầu mong đợi
của công chúng. Ngồi chức năng thơng tin, truyền thơng đại chúng còn mở
ra một thế giới tri thức rộng lớn để mọi người có thể học hỏi và tiếp thu một
cách chủ động nhất. Đồng thời những thông điệp đề cao giá trị đạo đức, văn
hóa cũng sẽ được các phương tiện truyền thơng đại chúng chuyển tải nhằm
góp phần xây dựng tri thức và hoàn thiện nhân cách con người.
Dưới quan điểm xã hội học, truyền thông đại chúng là một định chế xã
hội chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, hiểu theo nghĩa là đối lập với xã hội cổ
truyền, phong kiến.

1


NỘI DUNG
1. Thiết chế xã hội


Theo Robertsons : thiết chế là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn
mực, vị thế, vai trị và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã
hội. Ông cho rằng, một xã hội muốn tồn tại và phát triển bình thường, phải
được hình thành trên những mơ hình hành vi, những khn mẫu, khn phép
chung để từ đó mỗi thành viên trong xã hội có thể soi vào đó mà hành động
cho phù hợp. Khơng thể nói sự tồn tại và phát triển của một xã hội mà lại
khơng có thiết chế, tức là một xã hội khơng có kỷ cương, quy tắc hành động,
khơng có hệ thống chuẩn mực, giá trị và sự duy trì, kiểm sốt việc thực hiện
các kỷ cương , quy tắc đó. Ơng cịn cho rằng, thiết chế xã hội, hay những mơ
hình hành vi của con người được “ thiết chế hóa” do những nhu cầu khách
quan của các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau quy định.
Theo G.V. Oxipop : Thiết chế xã hội là tổ chức nhất định của hoạt
động xã hội và các quan hệ xã hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp
của những quy chuẩn về hành vi, chuẩn mực và giá trị, được định hướng
một cách hợp lý.
Theo quan niệm của V.A. Cruglicop : Thiết chế xã hội là sự biểu hiện
vật chất của các chuẩn mực xã hội và là cơ quan điều hòa việc tuân theo các
chuẩn mực đó. Thiết chế xã hội là sự tổ chức các hoạt động xã hội và các
quan hệ xã hội nhất định, làm cho các quan hệ xã hội có thể có được tính ổn
định và tính kế thừa. Thiết chế xã hội biểu hiện ra dưới hình thức các cơ quan
khác nhau 2 thực hiện chức năng điều hịa những lĩnh vực nào đó của các
quan hệ xã hội
Theo xã hội học : Thiết chế xã hội khơng phải một nhóm người cụ thể,
cũng khơng phải một tổ chức hay hội đoàn cụ thể. Thiết chế xã hội là một hệ
thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định trong xã hội, được định
hình theo thời gian. Trong các mối quan hệ tương tác giữa các vai trò, một số
2


ứng xử nào đó của con người được lặp đi lặp lại, rồi dần dần thành tập quán,

và cuối cùng trở thành những chuẩn mực mà mọi thành viên đều thừa nhận và
tuân thủ.
Hay hiểu theo một cách khác “ Thiết chế xã hội là kết cấu các vị trí xã
hội ít nhiều có tính cách ổn định, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của
con người trong xã hội
Để hiểu được khái niệm thiết chế xã hội cần phải hiểu khái niệm giá trị
xã hội và chuẩn mực xã hội :
- Theo Bách khoa toàn thư quốc tế về xã hội học “ giá trị là những tiêu
chuẩn đánh giá thế nào là tốt hay xấu, phải hay trái, đẹp đẽ hay xấu xa”.
Còn theo V.A.Crug licop, giá trị xã hội là những hiện tượng của đời
sống xã hội được xét trên góc độ ý nghĩa mà xã hội nói chung, một giai cấp
hay một tập đồn xã hội gán cho nó. Những giá trị xã hội là những yếu tố điều
hịa hành vi, lợi ích và quan hệ của cá nhân. Đó là những tố chất quan trọng
trong cơ cấu của tập đoàn xã hội, tạo ra ở cá nhân và tập đoàn những tố chất
cho các hành vi nhất định và những cơ sở để đánh giá những hành vi đó. Giá
trị ln gắn với những tiêu chuẩn chung cảu hành vi như : tính trung thực,
lịng tự trọng, tình u chung thủy, tính kỷ luật.
- Chuẩn mực là những khuôn mẫu chung của hành vi, được mọi người
trong xã hội cho là đúng, là cần thiết để điều hòa hành vi của con người.
TheoCruglicop, chuẩn mực là những “vật” điều hòa hoạt động của xã hội nói
chung, của tập đồn xã hội và cá nhân. Chuẩn mực xã hội do xã hội thiết lập
và thay đổi, xã hội cũng tạo ra những phương tiện kiểm soát xã hội khác nhau
để bảo đảm việc thực hiện những chuẩn mực
Thiết chế xã hội có thể được xem xét theo cơ cấu bên ngồi ( hình thức
vật chất của thiết chế), cũng như cơ cấu bên trong ( nội dung hành động của
thiết chế).
+, Về cơ cấu bên ngoài : biểu hiện nhu một tổng thể những người,
những cơ quan chức năng được trang bị những phương tiện vật chất nhất định
và thực hiện những chức năng xã hội nhất định.
3



+, Về cơ cấu bên trong : bao gồm tập hợp nhất định những tiêu chuẩn
được định hướng theo mục tiêu về hành vi của những người nhất định, trong
hoàn cảnh nhất định.
VD : trong ngành tư pháp : nếu xét nó với tính cách là một thiết chế xã
hội, về mặt bên ngồi thì đó là một tổng thể những người, những cơ quan và
những phương tiện vật chất để thực hiện cơng tác xét xử.
Cịn theo quan điểm cơ cấu bên trong thì đó là nội dung hoạt động của
những khn mẫu tiêu chuẩn hóa của 2 hành vi ở những người có thẩm quyền
nhất định. Những tiêu chuẩn đó của hành vi được thể hiện thơng qua các vai
trò xã hội đặc trưng cho hệ thống tư pháp ( vai trò của chánh án, thẩm phán,
ủy viên công tố, luật sư).
Từ những định nghĩa và sự phân tích trên, có thể rút ra một số khía
cạnh sau:
- Thiết chế xã hội là tổ chức của hoạt động xã hội và các quan hệ xã
hội, là mơ hình hành vi chung cho mọi thành viên trong những lĩnh vực khác
nhau của một xã hội nhất định.
- Các thiết chế là những nhân tố đặc thù đảm bảo tính kế thừa và tính
ổn định nhất định của những mối liên hệ và những mối quan hệ trong khuôn
khổ của một tổ chức xã hội nhất định, là biểu hiện vật chất của các giá trị và
chuẩn mực xã hội, là cơ quan điều hòa việc tuân theo các chuẩn mực xã hội
của các thành viên.
- Thiết chế là một cấu trúc và một chức năng. Thiết chế xã hội được
hình thành và thiết lập là do những nhu cầu khách quan của xã hội. Thiết chế
xã hội không chỉ là những mơ hình của hành vi, mà cịn là cơng cụ để kiểm
sốt và quản lý xã hội. Chính những mâu thuẫn hành động cùng với những
quy tắc, “điều luật” hệ thống giá trị, chuẩn mực mà thiết chế dựa vào và thiết
lập, là những “vật chuẩn” để điều chỉnh mọi hành vi của con người, khuyến
khích cá đáng có, cái nên làm, đồng thời điều chỉnh những hành vi sai lệch

với thiết chế. Nhờ đó mà con người có thể soi vào để thường xuyên điều
4


chỉnh hành vi của mình, làm cho hành vi đó luôn luôn phù hợp với những yêu
cầu mà thiết chế địi hỏi, đồng thời tìm mọi cách để tránh khỏi những lệch lạc,
gây phương hại đến trật tự xã hội mà thiết chế phải duy trì.
Như vậy khơng thể đồng nhất thiết chế xã hội với cơ chế, quy chế, thể
chế xã hội. Theo từ đển Tiếng Việt xuất bản năm 1996 thì cơ chế là cách thức,
theo đó một q trình nào đó được thực hiện ( cơ chế tập trung quan liêu, cơ
chế thị trường.... Quy chế là tổng thể nói chung những quy định thành chế độ
để mọi người thực hiện trong những hoạt động nhất định. Thể chế là là những
quy định luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo. Theo
một ý nghĩa nào đó thể chế có nội dung gần trùng với thiết chế. Tuy nhiên,
theo góc độ tiếp cận xã hội học, thiết chế là một khái niệm rộng hơn. Ngồi
những thiết chế hình thức ( như thiết chế chính trị, thiết chế kinh tế, thiết chế
pháp luật...) cịn có sự hiện diện của cả những thiết chế phi hình thức (như
thiết chế đạo đức, thiết chế dư luận xã hội). Ở những thiết chế này, cơ sở nội
dung của nó khơng phải là những điều luật chính thức mà lại là những chuẩn
mực, giá trị có sẵn lưu truyền trong văn hóa, truyền thống. Lịch sử đã từng
biết đến sức mạnh to lớn của những phong tục tập quán, những thiết chế xã
hội phi hình thức trong việc điều chỉnh và kiểm soát hành vi của con người
trong các xã hội tiền đề pháp luật cũng như trong xã hội có sự đan xen giữa xã
hội truyền thống và xã hội hiện đại.
VD: Vai trò của thiết chế truyền thông trong việc bảo vệ quyền lợi con
người
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, các loại hình truyền thơng đã trở thành
một “địn bẩy” thiết yếu trong hàng loạt các hoạt động hướng tới mục đích
bảo về nhân quyền, quyền công dân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nếu như
các thiết chế khác tác động gián tiếp đến việc bảo vệ quyền con người, thì

thiết chế truyền thơng với nhiều loại hình truyền thơng đa dạng đã tác động
trực tiếp đến hoạt động bảo vệ quyền con người bằng những vai trị tích cực

5


nhất. Những vai trị của thiết chế truyền thơng trong việc bảo vệ quyền con
người, đó là:
Một là, thiết chế truyền thơng thể hiện vai trị tích cực tun truyền,
giới thiệu, phổ biến các nội dung quan trọng về vấn đề nhân quyền trong các
văn kiện pháp lý quốc tế tới các quốc gia trên toàn thế giới, tới từng dân tộc,
không giới hạn phạm vi lãnh thổ, biên giới. Nhờ có hoạt động truyền thơng,
báo chí và chức năng đưa tin của các phương tiện truyền thông đại chúng mà
các nội dung quan trọng về nhân quyền được phổ quát tới nhiều nơi, ở nhiều
khu vực khác nhau trên toàn thế giới, giúp cho các quốc gia, các vùng lãnh
thổ tiếp cận thơng tin nhanh chóng và thuận tiện để hiểu được các quy định
của pháp luật quốc tế và thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về nhân
quyền tại quốc gia sở tại.
Hai là, báo chí, truyền thông là phương tiện quan trọng công khai các
thành tựu trong quá trình bảo vệ quyền con người của các quốc gia trên thế
giới. Vai trò này đã giúp cho quá trình bảo vệ quyền con người ở nhiều quốc
gia được phổ biến, giới thiệu, truyền bá và trở thành những bài học kinh
nghiệm nâng cao công tác quản lý, tổ chức hoạt động bảo về quyền con người
cho quốc tế và cho những quốc gia khác.
Ba là, truyền thông đại chúng là diễn đàn để nhân dân, công dân của
mỗi quốc gia bày tỏ ý kiến, quan điểm về hoạt động giáo dục, bảo vệ quyền
con người. Cũng nhờ truyền thông mà nhiều quan điểm, ý kiến, đề xuất, giải
pháp khả thi được cơ quan nhà nước tiếp nhận và hiện thực hóa để nâng cao
hiệu qua trong hoạt động bảo vệ quyền con người nói chung và quyền cơng
dân nói riêng.

Bốn là, thiết chế truyền thơng đã truyền tải được nhanh chóng các vụ
việc, các vấn đề, các hành vi vi phạm và xâm hại nghiêm trọng quyền con
người, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch, đấu
tranh chống các hành vi tiêu cực, phê phán và cảnh báo những hành vi vi
phạm Hiến pháp, pháp luật. Vai trò này của thiết chế truyền thơng đã có tác
6


dụng trong việc ngăn chặn kịp thời những hành vi sai trái và bảo đảm tối đa
những lợi ích hợp pháp, chính đáng của mỗi cá nhân đối với việc hưởng
quyền con người và quyền cơng dân. Ngồi ra, trên cơ sở tham khảo những
thông tin mà truyền thông, báo chí truyền tải, các cơ quan chức năng, các nhà
chức trách cũng có căn cứ, cơ sở để giải quyết, làm rõ, xử lý kịp thời các hành
vi vi phạm về nhân quyền.
Năm là, thiết chế truyền thơng có vai trị quan trọng trong việc cung
cấp thơng tin, bảo đảm quyền được tiếp nhận thông tin về quyền con người
của mỗi cá nhân và đây cũng là cơ sở hình thành các chức năng khác của thiết
chế truyền thông đối với hoạt động bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người như chức năng giáo dục, vai trò giám sát, quản lý, điều tiết các vấn đề
khác liên quan đến quyền con người.
Tại Việt Nam, vai trò chủ yếu và quan trọng nhất của các thiết chế
truyền thông trong việc bảo vệ quyền con người đó là bảo đảm được tính chất
cung cấp thơng tin nhân quyền, tun truyền, phổ biến và giáo dục về nhân
quyền cho nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Với điều kiện kinh tế - xã
hội và điều kiện về nhận thức ở Việt Nam như hiện tại, vai trò này càng phát
huy được những hiệu quả nhất định trong quá trình tương tác với các thiết chế
khác nhằm mục đích đưa pháp luật quyền con người vào đời sống cụ thể và
bảo vệ con người, bảo vệ các chủ thể khác nhau khỏi những hành vi xâm
phạm quyền con người.
Truyền thông ngày càng phát triển và trở thành một “món ăn” khơng

thể thiếu trong mỗi gia đình và tồn xã hội thì việc tác động của truyền thông
đối với vấn đề bảo vệ quyền con người là hoàn toàn dễ dàng và tiện lợi. Tuy
nhiên, việc quản lý hoạt động của thiết chế truyền thông từ cơ quan nhà nước
cũng là một vấn đề cần thiết để hoạt động truyền thông đi vào khn khổ và
phát huy được những vai trị bản năng của mình trong đời sống xã hội nói
chung và việc bảo vệ nhân quyền nói riêng.

7


2. Báo chí- Truyền thơng là một thiết chế xã hội
2. 1. Bản chất xã hội của truyền thông
Khái niệm về truyền thơng
Truyền thơng có gốc từ tiếng Latinh là “communicare”, nghĩa là biến
nó thành thơng thường, chia sẻ, truyền tải. Truyền thông thường được mô tả
như việc truyền ý nghĩ, thông tin, ý tưởng, ý kiến hoặc kiến thức từ một
người/một nhóm người sang một người/hoặc một nhóm người khác bằng lời
nói, hình ảnh, văn bản hoặc tín hiệu. Về thực chất, đó chính là q trình trao
đổi, tương tác thông tin với nhau về các vấn đề của đời sống cá nhân/nhóm/xã
hội, từ đó tăng vốn hiểu biết chung, hình thành hoặc thay đổi nhận thức, thái
độ, chuyển đổi hành vi cá nhân/nhóm/xã hội.
Những quan niệm trên đây có những khác biệt đáng kể do hồn cảnh và
điều kiện ứng dụng cho giao tiếp, nhưng có thể thấy hiểu một cách chung nhất
truyền thơng là q trình liên tục trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình cảm…, chia
sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng cường hiểu
biết lẫn nhau, tiến tới thay đổi nhận thức, điều chỉnh hành vi và thái độ phù
hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội.
Trong các loại hình và dạng thức truyền thơng, cần chú ý truyền thông
đại chúng. Truyền thông đại chúng là những kênh truyền thông hướng tác
động vào đông đảo công chúng; nó có vai trị quyết định sức mạnh, tính chất

và khuynh hướng của nền truyền thông. Trong truyền thông đại chúng, báo
chí với các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử là
những kênh truyền thơng có vai trị nền tảng, vị trí trung tâm và ý nghĩa quyết
định đối với truyền thơng nói chung. Bởi vì, truyền thơng đại chúng có thể
được hiểu là hệ thống (hoặc mạng lưới) các phương tiện truyền thông hướng
tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả nước,
khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo và tập
hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo cơng chúng xã hội và nhân
dân nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội đã và
đang đặt ra, bảo đảm phát triển bền vững.
8


Báo chí có vai trị chi phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh
hướng của truyền thơng đại chúng. Cho nên, trong nhiều trường hợp, người ta
dùng thuật ngữ báo chí để chỉ các phương tiện truyền thơng đại chúng; mặt
khác, nói đến truyền thơng đại chúng, trước hết là nói đến báo chí (hay giới
truyền thơng nói chung). Thơng tin báo chí và thơng tin trên các phương tiện
truyền thơng khác có sự khác biệt căn bản, nhưng giữa chúng có sự chia sẻ,
phối hợp, kết nối để gia tăng sức tác động và sự lan tỏa trên diện rộng cũng
như len lỏi vào công chúng xã hội theo nhóm nhỏ. Tuy nhiên trong mơi
trường truyền thơng số và thực tế hiện nay, vai trò này của báo chí đang bị
giảm dần, bởi cơng chúng xã hội có xu hướng ngày càng rời xa báo chí và gắn
kết với mạng xã hội.
Truyền thơng đại chúng có những đặc trưng nổi trội như: Đối tượng tác
động của truyền thông đại chúng là đông đảo công chúng xã hội - những quần
thể dân cư khơng phân biệt trình độ, dân tộc, tơn giáo, đảng phái, tuổi tác, giới
tính, nghề nghiệp... Do đó, các sự kiện và vấn đề đăng tải trên truyền thông
đại chúng luôn hướng tới việc ưu tiên thỏa mãn, phục vụ nhu cầu, mong đợi
của công chúng xã hội và nhân dân; Truyền thơng đại chúng có tính mục đích

rõ rệt; Truyền thơng đại chúng phong phú đa dạng và nhiều chiều, dễ nhớ, dễ
hiểu và dễ làm theo; Truyền thơng đại chúng có tính gián tiếp bởi hầu hết các
kênh truyền thông đại chúng, trong quá trình chuyển tải thơng điệp, khơng có
sự tiếp xúc trực tiếp giữa chủ thể và khách thể mà dùng các phương tiện kỹ
thuật làm vật trung gian truyền dẫn; Một trong những ngun lý của truyền
thơng là trong q trình truyền thông, tần suất tương tác giữa chủ thể và khách
thể càng nhiều, càng bình đẳng, càng nhiều người tham gia, thì năng lực và
hiệu quả truyền thơng càng cao.
2.2. Một số nguyên lý cơ bản trong truyền thông
- Quá trình truyền thơng, mục tiêu chung hay các mục tiêu cụ thể của
chiến lược, chiến dịch (hay kế hoạch) truyền thông, sau khi đã được thiết lập,
cần phải được kiên trì và bảo đảm được thực hiện. Tuy nhiên, mục tiêu ấy
phải được xây dựng bảo đảm tính thực tế.
9


- Q trình truyền thơng, tần suất tương tác càng dày và càng bình
đẳng, cơng chúng càng tham gia tích cực, thì năng lực và hiệu quả truyền
thơng càng cao.
- Trong q trình truyền thơng, mục đích truyền thơng, thơng điệp
đích và mong đợi của chủ thể càng gần gũi, có thể chia sẻ và phù hợp với
cơng chúng - nhóm đối tượng tiếp nhận, thì năng lực và hiệu quả truyền
thông càng cao.
2.3. Bản chất xã hội của truyền thông
Thứ nhất, truyền thông là phương tiện và phương thức thông tin, giao
tiếp xã hội. Thông tin trong truyền thông chủ yếu là cung cấp sự kiện và vấn
đề cụ thể, có ý nghĩa xã hội, thơng qua đó chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm mà
chủ thể và khách thể quan tâm hoặc liên quan đến mục đích truyền thơng;
thơng qua đó làm cơ sở cho việc mở mang hiểu biết, thay đổi nhận thức, thái
độ và hành vi cho công chúng tiếp nhận và cho chủ thể truyền thông theo chủ

định của nhà truyền thông và đáp ứng nhu cầu người tiếp nhận, cơng chúng.
Do đó, truyền thơng chú ý từ hai phía, cả chủ thể và khách thể truyền thông.
Giao tiếp trong truyền thông thể hiện ở các cấp độ khác nhau. Trước hết
là giao tiếp liên cá nhân, giao tiếp gia đình, giao tiếp nhóm và giao tiếp đại
chúng. Dù ở cấp độ nào, giao tiếp truyền thông cũng cần các điều kiện cần và
đủ. Điều kiện cần là năng lực, trình độ, mục đích và phương tiện giao tiếp.
Vấn đề này phụ thuộc vào trình độ phát triển xã hội về con người, văn hóa, kỹ
thuật và công nghệ truyền thông, tạo cho cá nhân điều kiện phát triển và sự
nhận thức về vai trò, vị thế xã hội cũng như nhu cầu truyền thông, giao tiếp xã
hội. Điều kiện đủ là mơi trường chính trị, văn hóa, xã hội của giao tiếp. Thực
tiễn phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, xã hội nào có chế độ
chính trị ưu việt, đề cao con người và sức sáng tạo cá nhân, thiết lập được môi
trường tự do dân chủ, bảo đảm tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tạo dựng được
môi trường truyền thơng để có thể phát huy nguồn lực con người, thì xã hội
ấy phát triển nhanh và bền vững; ngược lại, sẽ là sự kìm hãm phát triển. Đáp
10


ứng và tạo điều kiện phát triển nhu cầu thông tin, giao tiếp trong môi trường
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do truyền thông là tạo môi trường và động
lực cho sự phát triển.
Thứ hai, truyền thông là phương tiện và phương thức liên kết (kết nối)
xã hội. Thơng qua các sự kiện và vấn đề có ý nghĩa xã hội đã và đang diễn ra
thường xuyên liên tục nhất, rộng khắp nhất, truyền thông thông tin, giao tiếp
xã hội với các nhóm xã hội; từ đó kết nối họ thành cộng đồng trên cơ sở mục
đích vì sự phát triển và lợi ích chung. Do đó, có thể khẳng định rằng, truyền
thơng là phương tiện và phương thức liên kết xã hội hiệu quả nhất. Tùy theo
dạng thức và cấp độ của loại hình truyền thơng, mà mức độ liên kết xã hội
khác nhau. Chẳng hạn, đơn thuần là truyền thơng nội cá nhân cũng có thể biểu
hiện tính liên kết của truyền thơng. Ở đây, mỗi cá nhân thực hiện truyền thông

nội cá nhân phụ thuộc vào điều kiện giao tiếp, trình độ, tư chất và năng lực tư
duy. Tính chất liên kết ở truyền thơng liên cá nhân, truyền thơng nhóm và
truyền thơng đại chúng được thể hiện rõ rệt hơn.
Liên kết (kết nối) xã hội là phương thức thông qua các sự kiện, vấn đề
thời sự để xã hội hóa nó; thơng qua xã hội hóa sự kiện, vấn đề thời sự mà khơi
nguồn nhận thức, kết nối, khai thác và phát huy nguồn lực sức mạnh mềm của
cộng đồng và quốc gia hay khu vực, quốc tế nói chung. Do đó, phương tiện và
phương thức kết nối xã hội của truyền thông là thường xuyên liên tục nhất, có
khả năng kết nối xã hội to lớn trên phạm vi rộng lớn nhất; bao qt nhiều
nhóm cơng chúng, đối tượng nhất; đa dạng, phong phú nhất, thiết thực và cụ
thể nhất. Như vậy, khơng một phương tiện, phương thức nào có khả năng kết
nối xã hội to lớn và hiệu quả như truyền thông.
Thứ ba, truyền thông là phương tiện và phương thức can thiệp xã hội.
Mọi vấn đề xã hội đều do con người tạo ra và giải quyết, từ chính trị, kinh tế,
văn hóa... Thơng qua các phương tiện và dạng thức truyền thông, thông điệp
truyền thông tác động vào nhận thức, thái độ và hành vi xã hội của đông đảo
cơng chúng xã hội, giúp cơng chúng có thêm thơng tin, hiểu biết, nhận thức
11


để có thể giải quyết vấn đề hiệu quả hơn. Mặt khác, báo chí, truyền thơng có
khả năng dự báo, cảnh báo những rủi ro, khủng hoảng giúp hoạch định chính
sách và tiên liệu phương cách giải quyết vấn đề bảo đảm phát triển bền vững.
Truyền thông, đặc biệt là truyền thông đại chúng là phương tiện hữu hiệu
trong giám sát và phản biện xã hội, phản ánh tâm tư, nguyện vọng và thể hiện
sức mạnh xã hội của cộng đồng, thậm chí tạo nên áp lực xã hội bằng dư luận
xã hội trong quá trình tìm kiếm các giải pháp tối ưu cho việc giải quyết, can
thiệp các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội một cách hiệu quả.
3. Một số dạng thức truyền thơng
Dạng thức, loại hình truyền thông là những khái niệm được dùng để

khu biệt các mơ hình, mơ thức, cách thức tổ chức liên kết các yếu tố hoạt
động truyền thơng; nhờ đó, kế hoạch, hoạt động truyền thông được lập ra theo
những tiêu chí nhất định và những tiêu chí này làm cơ sở cho hoạt động kiểm
tra, giám sát và đánh giá kế hoạch hay chiến dịch truyền thông.
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, sẽ có các cách phân loại khác nhau
cho dạng thức hay loại hình truyền thơng.
- Căn cứ vào kênh chuyển tải thơng điệp có truyền thơng trực tiếp và
truyền thông gián tiếp và các dạng thức truyền thông khác nhau;
- Căn cứ vào mức độ phạm vi tác động, ảnh hưởng của truyền thơng, có
thể phân chia thành truyền thông nội cá nhân, truyền thông liên cá nhân,
truyền thơng nhóm và truyền thơng đại chúng;
- Căn cứ vào mục đích và phương thức tổ chức hoạt động truyền thơng,
sẽ có các loại hình truyền thơng: Thơng tin - giáo dục - truyền thông; tuyên
truyền; truyền thông thay đổi hành vi; truyền thông - vận động xã hội…
4. Vai trị của báo chí, truyền thơng đại chúng
4.1. Chức năng thơng tin - giao tiếp
Có thể nói rằng, thông tin - giao tiếp là chức năng khởi nguồn, chức
năng cơ bản nhất của truyền thông đại chúng. Truyền thông đại chúng ra đời
và phát triển, trước hết là nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của
12


con người và xã hội. Thông tin là nhu cầu sống còn, nhu cầu phát triển của
con người và xã hội; đồng thời là động lực kích thích sự phát triển. Xã hội
càng phát triển thì nhu cầu thơng tin càng cao. Trong quá trình đáp ứng nhu
cầu ấy, bản thân truyền thông đại chúng cũng phát triển không ngừng. Điều
đó giải thích tại sao trong q trình đổi mới ở nước ta, báo chí, truyền thơng
phát triển từng ngày. Đồng thời có thể khẳng định, cuộc đấu tranh tư tưởng,
chính trị, xã hội càng phức tạp, kinh tế thị trường càng phát triển thì tính chất
thơng tin cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Số lượng, chất lượng và tính

chất các sản phẩm truyền thơng phản ánh trình độ, diện mạo và tính chất thiết
chế chính trị - xã hội.
Để việc thực hiện chức năng thông tin trên các kênh truyền thơng đại
chúng đạt hiệu quả cao, thì thơng tin phải nhanh chóng, hợp thời, phong phú,
đa dạng, trung thực; thông tin phải phù hợp với các quy tắc xã hội, các giá trị
văn hoá và đạo lý của dân tộc; phù hợp với phát triển và phục vụ sự phát
triển; thông tin cần phải phục vụ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
4.2. Chức năng cung cấp kiến thức, mở rộng hiểu biết và giáo dục tư
tưởng, cổ vũ hành động
Quá trình thực hiện chức năng thơng tin cũng đồng thời là q trình
cung cấp kiến thức, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm trong cộng đồng xã hội,
khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Đó là q trình cung cấp kiến thức, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ dân trí và góp phần cải thiện diện mạo văn
hóa cộng đồng. Kiến thức, hiểu biết tạo tiền đề cho hoạt động giáo dục tư
tưởng và cổ vũ hành động. Chỉ có trên cơ sở hệ kiến thức đa dạng, phong phú,
nhiều chiều trên cả bề rộng lẫn chiều sâu, con người mới có thể có được nhận
thức tư tưởng đúng đắn, khoa học, phù hợp với nhu cầu phát triển.
Tuyên truyền, thực chất là truyền bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng
của giai cấp thông trị chiếm lĩnh trong đời sống tinh thần của tuyệt đại đa số
nhân dân. Ở Việt Nam, tuyên truyền có thể được hiểu là truyền bá đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho nó thâm nhập và
13


chiếm lĩnh trong nhận thức, thái độ và hành vi của các tầng lớp nhân dân. Tư
tưởng là lĩnh vực rất khó nắm bắt, dễ biến động và liên hệ mật thiết với thực
tiễn kinh tế - xã hội. Muốn tuyên truyền tư tưởng và gây dựng niềm tin cho
đông đảo nhân dân, trước hết phải giải quyết tốt những vấn đề kinh tế - xã
hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững và chống tiêu cực, tham nhũng, làm trong
sạch bộ máy cơng quyền, thơng qua đó gây dựng niềm tin của nhân dân vào

chế độ xã hội.
4.3. Chức năng khai sáng, giải trí
Các sản phẩm báo chí, truyền thơng góp phần to lớn vào việc nâng cao
dân trí, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố của dân tộc cũng như giao lưu,
tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới phục vụ sự nghiệp
phát triền đất nước, chấn hưng dân tộc. Số lượng và chất lượng các sản phẩm
truyền thông cũng là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của
một cộng đồng, một đất nước. Đồng thời, mức độ và khuynh hướng tiếp nhận
sản phẩm truyền thơng cịn là tiêu chí đánh giá trình độ, diện mạo văn hóa của
mỗi con người.
Báo chí và truyền thơng đại chúng có thể và cần phải tác động, can
thiệp vào các cấp độ của giáo dục, khai sáng theo những nội dung, cách thức
phù hợp nhằm góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn lực cho sự nghiệp
phát triển đất nước. Mặt khác, truyền thông đại chúng cũng là kênh có nhiều
ưu thế trong việc phổ biến các thành tựu khoa học - công nghệ, hướng dẫn
cách thức áp dụng, triển khai và chuyển giao công nghệ. Truyền thơng đại
chúng cịn là cơng cụ giám sát hữu hiệu trong việc bảo đảm mục tiêu, định
hướng và hiệu quả công tác giáo dục đào tạo cũng như tập hợp nguồn lực xã
hội tham gia giải quyết các vấn đề đặt ra trong q trình phát triển.
Truyền thơng đại chúng cịn là kênh tạo cơ hội cho đơng đảo nhân dân
tham gia giải trí, tức là tạo điều kiện, tổ chức và hướng dẫn công chúng sử
dụng thời gian rỗi một cách hữu ích để cân bằng trạng thái tâm lý và tái sản
xuất sức lao động.
14


4.4. Chức năng giám sát và phản biện xã hội
Giám sát là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của truyền
thông đại chúng. Ở các nước phương Tây, chức năng này được đề cao với đầy
đủ hành lang pháp lý, cho nên báo chí và truyền thơng đại chúng được coi là

quyền lực thứ tư, kiểm soát cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Phản biện xã hội có thể được hiểu là cách thức (hay phương thức) thể
hiện, huy động nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của đơng đảo nhân dân vào việc
góp ý kiến hoàn thiện các chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước,
trong quá trình giải quyết các vấn đề lớn, liên quan đến sự phát triển của cộng
đồng.
Ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 6 (lần hai) khóa VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí và truyền thơng đại
chúng là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan
trọng về lý luận, nhận thức của Đảng về vai trị xã hội của báo chí và truyền
thơng đại chúng.
Giám sát xã hội của báo chí, truyền thơng đại chúng là giám sát chủ
yếu bằng tai mắt của nhân dân, giám sát bằng dư luận xã hội. Đó là quá trình
giám sát mọi nơi, mọi lúc. Chức năng giám sát xã hội của báo chí, truyền
thơng đại chúng trong q trình thực hiện chủ trương chính sách, luật pháp là
để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương khích lệ và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; đồng thời cũng để sớm phát hiện những “trục
trặc”, những nơi làm dở, làm sai, những nơi vi phạm chủ trương, chính sách
và luật pháp để đấu tranh. Vai trò và sức mạnh giám sát xã hội của truyền
thơng đại chúng trước hết là xã hội hóa những việc tốt và những sai phạm của
tổ các chức hoặc cá nhân nào đó để khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội
theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và buộc các cơ quan
công quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân, trước công luận.

15


LỜI KẾT
Trong môi trường truyền thông số và hội nhập quốc tế, cùng với q
trình tồn cầu hóa, báo chí và truyền thơng nói chung có vai trị ngày càng to

lớn; sức mạnh chi phối và can thiệp của nó vào các quá trình xã hội ngày càng
gia tăng. Báo chí và truyền thơng là một thiết chế xã hội đặc thù, có tính độc
lập nhưng gắn chặt với hệ thống chính trị và quyền lực chính trị. Nó có vai trò
đa dạng, phong phú, với bản chất là phương tiện và phương thức thông tin,
giao tiếp, kết nối và can thiệp xã hội. Vấn đề phát huy, huy động sức mạnh và
nguồn tài ngun của thơng tin báo chí, truyền thông như thế nào tùy thuộc
vào quan niệm, quan điểm và chính sách cụ thể. Nhưng cần thống nhất nhận
thức rằng, báo chí, truyền thơng khơng chỉ là cơng cụ tun truyền chính trị,
nó cịn là thiết chế xã hội và có vai trị xã hội rộng lớn, đa dạng, phù hợp với
nhu cầu công chúng và phát triển khách quan của xã hội.
Như vậy truyền thông đại chúng ngày càng chi phối sâu sắc và toàn
diện đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên bình diện vĩ mơ cũng như
trong việc hình thành nhân cách của cá nhân con người. Trong xã hội hiện đại
các thế lực chính trị, các nhà kinh doanh, các nhà hoạt động văn hóa-xã hội
đều quan tâm khai thác và sử dụng truyền thông đại chúng như một công cụ
không thế thiếu. Mặt khác công chúng cũng dựa vào truyền thông đại chúng
để bày tỏ ý kiến, để tham gia ý kiến về các vấn đề xã hội và thực hiện quyền
được thơng tin, quyền tự do ngơn luận của mình.

16


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................0
NỘI DUNG.......................................................................................................2
1. Thiết chế xã hội...........................................................................................2
2. Báo chí- Truyền thơng là một thiết chế xã hội..............................................8
2. 1. Bản chất xã hội của truyền thông..............................................................8
2.2. Một số nguyên lý cơ bản trong truyền thông.............................................9
2.3. Bản chất xã hội của truyền thông.............................................................10

3. Một số dạng thức truyền thông....................................................................12
4. Vai trị của báo chí, truyền thơng đại chúng................................................12
4.1. Chức năng thông tin - giao tiếp................................................................12
4.2. Chức năng cung cấp kiến thức, mở rộng hiểu biết và giáo dục tư tưởng,
cổ vũ hành động..............................................................................................13
4.4. Chức năng giám sát và phản biện xã hội..................................................15
LỜI KẾT........................................................................................................16

17



×