Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.34 KB, 97 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Hồng Linh

3


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ

5

CẠNH TRANH



1.1.

Khái niệm về cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh

5

1.1.1.

Khái quát chung về cạnh tranh

5

1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh

5

1.1.1.2. Nhận dạng cạnh tranh

6

1.1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

8

1.1.2.

Pháp luật và thực hiện pháp luật về cạnh tranh

9


1.1.3.

Quan điểm, cách nhìn nhận về cạnh tranh và độc quyền ở
Việt Nam

13

1.2.

Thực trạng cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh hiện nay ở
Việt Nam

14

1.2.1.

Thực trạng về cạnh tranh ở Việt Nam

14

1.2.2.

Thực trạng điều chỉnh pháp luật có liên quan đến cạnh tranh

22

1.2.2.1. Các nguyên tắc chung

22


1.2.2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cạnh tranh

23

Chương 2:

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH

37

TRANH TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

2.1.

Nhu cầu điều tiết cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở
Việt Nam

37

2.2.

Thực trạng điều chỉnh pháp luật cạnh tranh chuyên ngành

38

4


viễn thông

2.2.1.

Thực trạng điều chỉnh trong pháp luật chuyên ngành viễn
thơng về kiểm sốt độc quyền (hạn chế cạnh tranh)

40

2.2.2.

Thực trạng điều chỉnh trong pháp luật chuyên ngành viễn
thông về cạnh tranh khơng lành mạnh

42

2.3.

Tình hình thực hiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ viễn thơng ở Việt Nam

43

2.3.1.

Tình hình cạnh tranh nói chung trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ viễn thông ở Việt Nam

43

2.3.1.1. Tình hình cạnh tranh trong khai thác dịch vụ điện thoại cố định


44

2.3.1.2. Tình hình cạnh tranh trong khai thác dịch vụ di động

48

2.3.1.3. Tình hình cạnh tranh trong khai thác dịch vụ Internet

50

2.3.2.

Tình hình thực hiện pháp luật liên quan đến các hành vi
kiểm soát độc quyền (hạn chế cạnh tranh)

51

2.3.3.

Tình hình thực hiện pháp luật liên quan đến các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.

58

2.3.3.1. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá cước

59

2.3.3.2. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực công nghệ


60

2.3.3.3. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo,
khuyến mại

62

2.4.

Ảnh hưởng của kinh tế quốc tế và xu hướng cạnh tranh đối
với hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông ở Việt Nam

65

2.4.1.

Các thỏa thuận quan trọng mà ngành viễn thông đã tham gia

65

2.4.1.1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

65

2.4.1.2. Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)

66

2.4.1.3. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ


67

2.4.1.4. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

67

2.4.2.

Các tác động ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế và xu
hướng cạnh tranh các dịch vụ viễn thông

5

70


2.4.2.1. Đối với các dịch vụ gia tăng giá trị

70

2.4.2.2. Đối với các dịch vụ thông tin cơ bản và dịch vụ thoại cơ bản

70

2.4.2.3. Về vốn đầu tư và con người

71

2.4.2.4. Về công nghệ


72

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẦY VÀ BẢO VỆ

73

CẠNH TRANH LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC VIỄN
THÔNG Ở VIỆT NAM

3.1.

Dự báo về sự thay đổi của thị trường viễn thông Việt Nam

73

3.2.

Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông ở Việt Nam

78

3.2.1.

Nâng cao nhận thức và tư duy về cạnh tranh

78

3.2.2.


Xây dựng chuẩn mực về văn hóa doanh nghiệp

78

3.2.3.

Khuyến khích cạnh tranh và hợp tác giữa các doanh nghiệp
trong lĩnh vực viễn thông

80

3.2.4.

Hướng dẫn và hỗ trợ thành lập hội người tiêu dùng các dịch
vụ viễn thơng

81

3.3.

Kiến nghị nhằm xây dựng và hồn thiện pháp luật về cạnh
tranh ở Việt Nam

81

3.3.1.

Về hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến chính sách cạnh
tranh nói chung


81

3.3.1.1

Về xác định vị trí thống lĩnh thị trường

81

3.3.1.2. Rà sốt, cụ thể hóa một số nội dung của Luật và văn bản
hướng dẫn

83

3.3.1.3. Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh

84

3.3.2.

Về hệ thống văn bản quản lý về lĩnh vực cung cấp dịch vụ
viễn thông

84

KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


88

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, với chủ trương đi thẳng vào công nghệ hiện
đại và với chiến lược tăng tốc hết sức mạnh dạn, ngành viễn thơng Việt
Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Các dịch vụ viễn thông không chỉ
được phổ cập rộng rãi tới khắp mọi miền đất nước, mà còn thực sự tạo điều
kiện cho các ngành khác phát triển hơn. Tuy nhiên, cũng như hầu hết các
doanh nghiệp khác ở nước ta, mức độ sẵn sàng tham gia cạnh tranh và hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới của các doanh nghiệp viễn thơng cịn thấp.
Hiện nay, ngồi Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam
(VNPT), trên thị trường dịch vụ viễn thông đã và đang cạnh tranh rất mạnh
bởi sự tham gia của nhiều nhà khai thác viễn thông khác như SPT, Viettel,
Vishipel, EVN Telecom, Hanoi Telecom... Chính sách tự do hóa thị trường
dịch vụ viễn thông đang đặt ra cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn
thông Việt Nam những thách thức to lớn - đó là cạnh tranh để tồn tại và
phát triển. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của viễn thông và tin học
cho phép các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới vào khai thác nhằm đáp
ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều đó làm cho yếu tố cạnh
tranh trên thị trường dịch vụ viễn thông càng thêm sôi động. Vấn đề cạnh
tranh cần được các doanh nghiệp cùng tham gia cung cấp dịch vụ viễn
thông coi trọng và hiểu rõ trong chiến lược phát triển của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của ngành, các quy định pháp
lý của Nhà nước về vấn đề này còn rất tản mạn, nằm rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, thậm chí đơi khi cịn chồng chéo và mâu thuẫn

với nhau. Điều đó dễ tạo ra một cách nhìn nhận khơng đầy đủ hoặc thiếu
chính xác về cạnh tranh, độc quyền và chống độc quyền trong lĩnh vực viễn
thông.

7


Chính vì vậy, đề tài "Thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh
vực viễn thông ở Việt Nam" được lựa chọn nghiên cứu và làm luận văn tốt
nghiệp bậc học thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông không
phải là vấn đề quá mới mẻ ở Việt Nam. Đã có nhiều bài báo cũng như
những cơng trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng chủ yếu đề cập đến việc
thực hiện pháp luật cạnh tranh nói chung, cũng có bài viết về một số hiện
tượng, hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thơng, nhưng chưa
có một cơng trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về thực hiện pháp luật
cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam. Các giáo trình, sách
chuyên khảo về thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông
hầu như không có, mà chỉ có xuất bản về thực hiện pháp luật cạnh tranh nói
chung...
Cho đến nay, đây là đề tài thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu "Thực hiện
pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam". Để hồn thành
đề tài này, tơi đã sưu tầm nhiều sách, bài báo của nước ngồi cũng như
trong nước, các thơng tin trên mạng Internet...
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định pháp
luật hiện tại và dự báo xu hướng vận động của các quy định pháp luật về
cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông, từ đó đề xuất các kiến nghị và giải
pháp nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn

thơng ở Việt Nam. Việc phân tích, dự báo xu hướng vận động các quy định
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông và các đề xuất kiến nghị
phải đảm bảo yêu cầu trung thực, khách quan và toàn diện và phù hợp với
các quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Với mục đích trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
8


- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến cạnh tranh trong
lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam để làm cơ sở nghiên cứu các phần tiếp theo
của luận văn. Để thực hiện được nhiệm vụ này, luận văn đã xây dựng các
khái niệm khoa học về cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
hành vi hạn chế cạnh tranh (kiểm sốt độc quyền)... Qua đó phân tích
những đặc điểm và tìm ra mối liên hệ giữa chúng.
- Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện pháp luật cạnh tranh trong
lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam và các quy định của pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực viễn thông. Với nhiệm vụ này, luận văn phân tích các
quy định của Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thơng..., phân
tích và đánh giá những ví dụ cụ thể trong thực tiễn, trên cơ sở đó tìm ra
những điểm bất cập, hạn chế đồng thời đưa ra những phương hướng hoàn
thiện những quy định này.
- Dự báo về sự thay đổi của thị trường viễn thông Việt Nam trong
thời gian tới và đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh
tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thơng để phần nào đó giúp ích cho việc
hoàn thiện hơn pháp luật về cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ viễn thơng nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích các quy định
của pháp luật về cạnh tranh và việc thực hiện các quy định đó trong lĩnh

vực cung cấp dịch vụ viễn thơng ở Việt Nam (khơng phân tích việc thực
hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực công nghiệp viễn thông).
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nền tảng của thực tiễn là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mọi vấn đề nghiên cứu luôn phải xem
xét trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng, luôn đặt trong quan hệ
tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng
khác. Các hiện tượng luôn được xem xét trong cả quá trình từ sự hình
9


thành đến sự phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Một số phương pháp
tiếp cận cụ thể được áp dụng như: phương pháp tổng hợp, phương pháp
phân tích và phương pháp so sánh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực viễn thông ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh
lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam.

10


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ CẠNH TRANH


1.1. KHÁI NIỆM CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH

1.1.1. Khái quát chung về cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Nền kinh tế Việt Nam đang trong cơ chế thị trường, là nền kinh tế
có sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu được pháp luật thừa nhận và bảo
hộ, cùng với nó là sự tự do hóa thương mại, quyền tự do khế ước, quyền tự
do định đoạt của các chủ thể và cạnh tranh xuất hiện - đó là quy luật của
kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là lực lượng điều tiết trong hệ thống thị trường (đảm bảo
cả người sản xuất và người tiêu dùng không thể bị lợi dụng ưu thế của nhau
trên thị trường). Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ xuất hiện với tính cách là động
lực phát triển nội tại của nền kinh tế, động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát
triển. Hơn nữa, cạnh tranh cũng chỉ xuất hiện thực sự với tính cách là một
cuộc đua tranh của một ngành, một lĩnh vực kinh tế nào đó khi có sự tham
gia của các chủ thể kinh doanh có lợi ích cơ bản mâu thuẫn nhau.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh và cạnh tranh là một
khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Adam Smith - nhà
kinh tế học theo trường phái cổ điển Anh là người đầu tiên đưa ra lý thuyết
tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh trên cơ sở những tiếp thu và bổ sung
những lý luận về giá trị tự nhiên của trường phái này, ơng địi hỏi sự đảm
bảo tự do hành động cho mọi doanh nghiệp và hộ gia đình, nghĩa là đảm
bảo sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như sự lựa chọn tiêu
dùng của các hộ gia đình. Theo ơng, cạnh tranh là một q trình bao gồm
11


các hành vi và phản ứng tạo ra cho mỗi thành viên tham gia thị trường tự
do có giới hạn.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh được hiểu là "sự tranh

đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau nhằm giành phần
hơn, phần thắng về mình".
Ngày nay, cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua giữa
các thành viên của một thị trường hàng hóa, sản phẩm cụ thể nhằm mục
đích lơi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị
phần của một thị trường. Như vậy, xét về phương diện kinh tế, cạnh tranh
được tồn tại trên cơ sở tiền đề là sự hiện diện của các thành viên trên
thương trường có chạy đua vì mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và
chúng đều diễn ra trên một thương trường hàng hóa cụ thể.
Tuy nhiên, để đơn giản hóa có thể hiểu cạnh tranh là sự ganh đua
giữa một nhóm người mà sự nâng cao vị thế của người này sẽ làm giảm vị
thế của những người còn lại và điều kiện cho sự cạnh tranh trên thị trường
là phải có ít nhất hai chủ thể quan hệ khách hàng và có sự tương ứng giữa
sự cống hiến và phần được hưởng của mỗi thành viên trên thị trường.
Có thể kết luận rằng, cạnh tranh chỉ xuất hiện trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo
và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường [28].
1.1.1.2. Nhận dạng cạnh tranh
Ở mỗi một hình thái khác nhau, cạnh tranh lại có tính chất và mức
độ biểu hiện khác nhau. Để đánh giá tính chất và mức độ biểu hiện cạnh
tranh theo từng hình thái thì việc nhận dạng và xác lập các tiêu chí phân
loại hình thái thị trường là hết sức quan trọng.
- Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào đời
sống kinh tế, người ta phân chia thị trường thành hai hình thái: cạnh tranh
tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước.

12


Cạnh tranh tự do là một hình thái thị trường thoát khỏi mọi sự can

thiệp của nhà nước. Đây là một hiện tượng khơng thể có trong thế giới hiện
đại vì kinh tế thị trường hiện đại ln có nhu cầu được điều tiết và nhà
nước nào cũng phải có chính sách kinh tế riêng, vì thế ln tìm cách hướng
các hoạt động kinh tế vào mục tiêu kinh tế của mình.
Cạnh tranh có sự điều tiết của nhà nước là hình thái thị trường của
các nền kinh tế thị trường hiện đại (tự do cạnh tranh trong hình thái thị
trường này được bảo vệ, nuôi dưỡng và giới hạn bởi thể chế, chính sách và
pháp luật của nhà nước).
- Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một
ngành, một lĩnh vực kinh tế, mối liên hệ giữa bên mua và bên bán, người ta
phân chia thị trường thành các hình thái sau:
Một

Một số

Một

Độc quyền mua
bán song phương

Độc quyền mua
bán hạn chế

Độc quyền bán

Một số

Độc quyền mua
bán hạn chế


Cạnh tranh mua
bán hạn chế

Cạnh tranh bán

Nhiều

Độc quyền mua

Cạnh tranh mua

Cạnh tranh mua và
bán

S.lg bên mua

Nhiều

S.lg bên bán

- Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh,
người ta phân nhóm các hành vi cạnh tranh trên các hình thái thị trường
gồm hai loại: cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh bằng khả năng vốn
có của doanh nghiệp. Đó là những hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà
pháp luật không cấm, phù hợp với tập quán thương mại và đạo đức kinh
doanh truyền thống như đăng ký nhãn hiệu thương phẩm, hạ giá bán hàng hóa
trên cơ sở đổi mới cơng nghệ, giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thơng, nâng

13



cao chất lượng phục vụ khách hàng, liên tục đổi mới phương thức giao tiếp
với khách hàng...
Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể của một chủ
thể kinh doanh, nhằm mục đích cạnh tranh ln thể hiện tính khơng lành
mạnh (chứ khơng phải là trái pháp luật) và vơ tình hay cố ý gây thiệt hại
cho một đối thủ cạnh tranh hay bạn hàng cụ thể.
Tuy nhiên, vì được bảo hộ bởi các nguyên tắc về quyền tự do kinh
doanh, tự do khế ước và tự do lập hội và sự giục giã của lợi nhuận nên thực
trạng của thương trường luôn diễn ra theo hướng không lành mạnh. Đây là
một trong những tiền đề để pháp luật cạnh tranh ra đời.
1.1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường
Như ta đã biết, cạnh tranh là tất yếu của một nền kinh tế thị trường.
Ngay từ khi xuất hiện, cạnh tranh đã có vai trò và ý nghĩa lớn đối với sự
phát triển kinh tế. Ở thế kỷ XVIII, A.Smith (nhà kinh tế học cổ điển Anh)
trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc" (1776) đã thuyết minh vai trò
quan trọng của cạnh tranh tự do trong bối cảnh nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa đang ở giai đoạn hình thành bị rất nhiều ràng buộc bởi
những thiết chế phi tự do của Nhà nước phong kiến. Ông đưa ra thuyết
"bàn tay vơ hình", với ơng trật tự thị trường theo ngun tắc "bàn tay vơ
hình" sẽ điều hịa các hoạt đồng kinh tế một cách hiệu quả.
Hãy thử hình dung một nền kinh tế thị trường sẽ ra sao nếu khơng
có cạnh tranh. Ở trạng thái của cạnh tranh hoàn hảo, nền kinh tế sẽ đạt mức
độ hiệu quả cấp phát lý tưởng, tức là nếu khơng có cạnh tranh thì nền kinh
tế sẽ nằm ở giới hạn đường giới hạn tiềm năng sản xuất. Như vậy, một bộ
phận nguồn lực sẽ không được huy động vào sản xuất và gây ra sự lãng phí
xét trên bình diện tổng thể nền kinh tế xã hội. Một doanh nghiệp rất khó trở
thành doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu không được dung dưỡng

14


lâu năm trong một mơi trường khơng có cạnh tranh. Do đó, trong khn
khổ của nền kinh tế thị trường, ý nghĩa kinh tế của cạnh tranh là:
- Thông qua quy luật cung cầu, cạnh tranh có khả năng nhanh nhạy
trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng. Bên cạnh đó, bằng phương thức cạnh tranh kinh điển là cạnh tranh
qua giá mà nhờ đó giá cả của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được cải thiện
theo hướng có lợi cho khách hàng và người tiêu dùng.
- Cạnh tranh còn là nguồn gốc, động lực để phát triển khoa học kỹ
thuật và cơng nghệ cao do cạnh tranh ln có mục tiêu lâu dài là thu hút về
mình ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất cơng
nghiệp và dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao
với giá thành ngày càng hạ. Vì vậy, cạnh tranh cũng là cơ hội buộc các nhà
doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Trong điều kiện của cơ chế thị trường có sự phát triển của cạnh
tranh, nghĩa là mức độ của cạnh tranh đã trở nên sâu sắc thì các doanh
nghiệp vì sự tồn tại của mình ln phải toan tính để vượt lên trên các đối
thủ của mình. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh có khả năng tạo sức ép để
chống trì trệ, khắc phục suy thối và buộc các doanh nghiệp phải kinh
doanh có hiệu quả.
Mơi trường cạnh tranh là mơi trường mà ở đó các doanh nghiệp
luôn phải vận động, đổi mới, cải tiến không chỉ công nghệ mà cả chủng
loại, kiểu dáng, phương thức kinh doanh. Theo đó, cạnh tranh tạo ra sự đổi
mới liên tục và động lực phát triển liên tục.
Với tất cả những vai trò và ý nghĩa trên đây của cạnh tranh, một nhà
nước văn minh của một nền kinh tế thị trường hiện đại cần phải có nhiệm
vụ, chức năng phát hiện, thừa nhận và bảo vệ, khuyến khích những khả
năng và thuộc tính tốt đẹp đó của cạnh tranh.

1.1.2. Pháp luật và thực hiện pháp luật về cạnh tranh

15


Nền kinh tế thị trường không những chỉ bảo vệ và khuyến khích
những thuộc tính tốt đẹp của cạnh tranh mà còn phải khắc phục những mặt
tiêu cực, những khuyết tật của thị trường qua cạnh tranh và độc quyền. Ở
các quốc gia đều có chính sách về cạnh tranh và từ đó điều tiết mơi trường
cạnh tranh của thị trường. Chính sách của cạnh tranh phải bao gồm việc sử
dụng một số công cụ điều tiết cạnh tranh như:
- Chính sách thuế
- Kiểm sốt giá cả
- Điều chỉnh, kiểm sốt độc quyền
- Quốc hữu hóa
- Ban hành pháp luật về cạnh tranh.
Trong các cơng cụ nói trên, pháp luật có vai trị quan trọng thể hiện
là cơng cụ có hiệu quả nhất vì nó là phương thức để đưa và bảo đảm cho các
công cụ điều tiết cạnh tranh khác được thực thi trên thực tế của thương
trường.
Theo thông lệ, pháp luật cạnh tranh ở các nước được chia thành
hai lĩnh vực khác biệt: đó là pháp luật về chống cạnh tranh không lành
mạnh và pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh. Sự phân biệt này căn cứ
vào tính chất mức độ nguy hại đối với thị trường và theo đó là phương
thức và tính cương quyết trong việc trừng trị của pháp luật đối với hai
nhóm hành vi: cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh (độc
quyền hóa) là rất khác nhau mặc dù chúng đều làm hại đến sự vận động
bình thường và lành mạnh của thị trường.
Theo kinh nghiệm của các nước, thể hiện qua nội dung của pháp
luật cạnh tranh không lành mạnh, những hành vi cạnh tranh không lành

mạnh được chia làm 5 nhóm:
Thâu tóm khách hàng: bao gồm những phương pháp cạnh tranh trái
với tập quán để tác động lên khách hàng và bạn hàng. Tính trái với tập

16


quán ở đây thể hiện ở chỗ nó gây ảnh hưởng đến sự tự do trong quyết định
của bạn hàng hay khách hàng. Nó biểu hiện trong những dạng cụ thể:
- Dối trá, đưa thông tin sai về quan hệ mua bán.
- Bán cưỡng bức như bán kèm.
- Gạ gẫm, quấy rầy.
Ngăn cản: được thực hiện để chống đối thủ cạnh tranh về giá, tẩy
chay nói xấu hay phân biệt đối xử.
Bóc lột: loại hành vi này cũng có mục đích chống lại đối thủ song
chủ yếu lại khơng nhằm vào sản phẩm của đối thủ. Thực ra vấn đề này
được giải quyết chủ yếu trong pháp luật về sở hữu cơng nghiệp. Song tính
khơng lành mạnh ở đây thể hiện sự lợi dụng trái với tập quán những sản
phẩm của người khác. Chẳng hạn như bắt chước kiểu dáng công nghiệp,
man trá về nguồn gốc của sản phẩm hay dựa dẫm vào uy tín của sản phẩm
khác (đặt tên giống với sản phẩm của người khác) hoặc lôi kéo khách hàng
hoặc người làm công của đối thủ.
Vi phạm pháp luật: những vi phạm loại này thường diễn ra trong
lĩnh vực luật kinh tế hay luật thuế song chỉ bị coi là khơng lành mạnh khi
hành vi vi phạm có chủ ý can thiệp trái phép đến đối thủ cạnh tranh. Ngồi
ra vi phạm pháp luật khác cũng có thể đồng thời bị coi là cạnh tranh không
lành mạnh. Những vi phạm hợp đồng cũng có thể đồng thời vi phạm pháp
luật cạnh tranh nếu nó gắn liền với việc phá vỡ niềm tin cạnh tranh hoặc
lạm dụng lòng tin của bạn hàng.
Gây rối thị trường: loại hành vi này khơng nhằm vào một đối thủ

cạnh tranh nào, song nó có tác động chung gây rối thị trường. Chẳng hạn,
doanh nghiệp lớn hạ giá sản phẩm làm ảnh hưởng đến những doanh nghiệp
nhỏ, hay một doanh nghiệp quảng cáo giật gân gây tâm lý hoảng sợ.
Trong khi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nhằm vào
từng hành vi, từng quan hệ thì pháp luật chống hạn chế cạnh tranh nhằm
vào hiện tượng có tính chất độc quyền (độc quyền hành chính, độc quyền
17


tự nhiên, độc quyền hay độc quyền nhóm), là pháp luật bảo vệ cơ cấu và
tương quan thị trường. Bao gồm ba nội dung:
- Cấm Cartel (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh)
- Kiểm soát sáp nhập
- Xác định và xử lý các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Như vậy, khi áp dụng pháp luật chống hạn chế cạnh tranh, điều cần
thiết phải xác định thị trường theo ba dấu hiệu về thị trường liên quan:
- Đối tượng của thị trường (loại hàng hóa)
- Giới hạn khơng gian của thị trường (khu vực, quốc gia, quốc tế)
- Giới hạn về thời gian của thị trường.
Cùng với sự phân biệt hai lĩnh vực pháp luật đó pháp luật của các
nước có những quy định về xem xét, kiểm tra, xử lý các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh hay hạn chế cạnh tranh. Bên cạnh đó, quản lý Nhà nước
về cạnh tranh cũng là một vấn đề lớn thuộc pháp luật cạnh tranh mà theo đó
pháp luật thiệt lập cơ quan cạnh tranh và xác lập địa vị pháp lý của chúng.
Pháp luật cạnh tranh là công cụ điều tiết thị trường tiến bộ, văn
minh và mạnh mẽ hơn cả. Là lĩnh vực trụ cột của luật kinh tế truyền thống,
nó có khả năng:
- Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, trung thực, công bằng.
- Điều tiết cạnh tranh theo mức độ của thị trường nội địa và quốc tế.

- Bảo vệ lợi ích của người sản xuất, tiêu dùng, Nhà nước và xã hội.
- Tạo thế cạnh tranh trên trường quốc tế.
- Tạo động lực phát triển kinh tế.
- Chống cạnh tranh khơng lành mạnh và kiểm sốt độc quyền, góp
phần điều tiết nền kinh tế theo chính sách kinh tế của Nhà nước.

18


- Định hướng chuẩn mực. Giữ gìn đạo đức và tập quán trong kinh
doanh đã được thừa nhận.
Với tất cả các đặc điểm của pháp luật cạnh tranh đó, việc xây dựng
pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam cần phải ln xem xét trên cơ sở chính
sách cạnh tranh trong cơ chế thị trường nước ta hiện nay. Khác với pháp
luật cạnh tranh của nhiều quốc gia khác, pháp luật cạnh tranh ở nước ta
chắc là phải đối mặt với dạng độc quyền Nhà nước và bên cạnh đó cần bảo
vệ lợi ích của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Pháp luật cạnh tranh của Việt
Nam cần đề cập đến hai khía cạnh của hành vi cạnh tranh: chống cạnh
tranh khơng lành mạnh và hạn chế cạnh tranh (kiểm sốt độc quyền), tuy
nhiên cần ưu tiên sự quan tâm của mình cho việc kiểm sốt độc quyền.
1.1.3. Quan điểm, cách nhìn nhận về cạnh tranh và độc quyền ở
Việt Nam
Cạnh tranh và độc quyền là hai vấn đề ngày càng được nhắc đến
nhiều hơn khi xem xét nền kinh tế của Việt Nam. Với mỗi vấn đề được đề
cập bao giờ ta cũng có những cách nhìn nhận, quan điểm khác nhau. Tuy
nhiên ta luôn cần phải xem xét từ bản chất vấn đề.
Theo quy luật chung, cạnh tranh luôn có xu hướng dẫn đến độc
quyền. Xu hướng này một mặt do sự tác động của quy luật hiệu quả kinh tế
theo quy mô, mặt khác độc quyền là trạng thái đem lại cho cá nhân các nhà
cung cấp lợi nhuận siêu ngạch. Do đó cạnh tranh kinh tế ln có sự ganh

đua quyết liệt để giành lấy vị thế độc quyền. Có thể coi đây là một khía
cạnh khơng hồn hảo mang tính đạo đức mà cạnh tranh đáng bị lên án. Tuy
vậy, trong thực tế, người ta cố gắng hạn chế những nhân tố gây ra mức độ
không hoàn hảo của thị trường càng nhiều càng tốt.
Xét về phương diện kinh tế, độc quyền (cạnh tranh bằng phương
thức độc quyền) có những tác hại:

19


- Nền kinh tế nằm ở dưới tiềm năng sản xuất, một bộ phận nguồn
lực phát triển kinh tế bị bỏ phí.
- Tạo ra sự khan hiếm giả tạo để nâng giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Do đó, người tiêu dùng đã phải trả thêm một khoản tiền không đáng mà
chất lượng chưa chắc đã tăng, thậm chí có phần giảm sút.
- Khơng có cạnh tranh, người sản xuất khơng có nhu cầu sáng tạo,
đổi mới cơng nghệ, hạn chế áp dụng khoa học kỹ thuật vì vậy mà chất
lượng hàng hóa, năng suất khơng được cải thiện.
Từ đó cho thấy, độc quyền là vật cản sự tiến bộ kinh tế. Độc quyền
kiểu kinh tế kế hoạch hóa tập trung dẫn đến những kết cục là khủng hoảng
kinh tế mang tính hệ thống buộc phải được thay thế bằng cơ chế thị trường
có sự cạnh tranh. Ở Việt Nam do chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập sựung sang kinh tế thị trường, nên khác với nền kinh tế thị trường
truyền thống, xu hướng độc quyền xuất phát từ bản thân các lực lượng thị
trường trong quá trình cạnh tranh, độc quyền ở Việt Nam nằm ngay trong
cơ chế quản lý Nhà nước. Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam hiện nay có mức
độ cạnh tranh thấp. Những yếu tố độc quyền (từ cơ chế) vẫn còn cản trở
tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Với quan điểm và cách nhìn nhận đó, nhiệm vụ tạo lập một mơi
trường kinh tế có tính cạnh tranh, kiểm sốt độc quyền là chức năng riêng

có của Nhà nước. Đối với nền kinh tế thị trường phát triển, vấn đề kiểm
soát độc quyền (đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế) phải được đặc
biệt chú ý.
1.2. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ
CẠNH TRANH HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
1.2.1. Thực trạng về cạnh tranh ở Việt Nam
Cạnh tranh được xem như là yếu tố tất yếu, là thuộc tính vốn có của
nền kinh tế thị trường. Nhất là từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công
20


cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, cạnh tranh đã từng bước được tiếp
cận như một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, quản lý và điều hành nền
kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam nhập cuộc cạnh tranh từ một nền
tảng công nghệ, kỹ thuật thấp kém, thiếu vốn và kinh nghiệp quản lý trong
cơ chế thị trường, kinh tế cịn dựa chủ yếu vào nơng nghiệp và các yếu tố tự
nhiên nên sức cạnh tranh thấp. Nhất là dấu ấn của nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp vẫn cịn tồn tại, đó là tình trạng độc quyền doanh nghiệp nhà
nước. Hầu hết các doanh nghiệp này được hình thành khơng phải do kết quả
của q trình tích tụ, tập trung vốn và yếu tố sản xuất như ở các nước tư bản
mà là sản phẩm của cơ chế kinh tế tập trung của nhà nước. Trước đây, các
doanh nghiệp kinh doanh độc quyền nhằm vào các rào cản hành chính
khơng cho phép bất kỳ doanh nghiệp nào khác được cùng kinh doanh, hạn
chế thương quyền thông qua giấy phép kinh doanh hay các chế định giá
(như giá điện, giá cước viễn thông, giá vé máy bay…) và các hành vi của
các quan chức nhà nước cao cấp (trong xét chọn thầu, cấp hạn ngạch…).
Chính những điều đó đã làm giảm tính cạnh tranh ở thị trường Việt Nam.
Nguy hiểm hơn, sự kéo dài của cơ chế độc quyền đã không đi cùng nhịp

với xu thế tự do hóa đang phát triển trên khắp thế giới. Do đó, thực chất
của đổi mới kinh tế là q trình "giải độc quyền" của cơ chế hóa tập trung,
mà những gì làm được cho tới nay tuy khơng ít nhưng cũng chỉ mới bắt
đầu, và phần nhiều là theo lối "dị đá qua sơng". Bởi thế việc tiếp theo của
q trình "giải độc quyền" sắp tới là hết sức khó khăn.
Bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước ta chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã khởi đầu cho
hoạt động cạnh tranh được công khai và mở rộng trong nền kinh tế nước ta.
Nhưng cạnh tranh thực sự diễn ra gay gắt khi Nhà nước cho thi hành hàng
loạt các chính sách về chống lạm phát, xóa bỏ bao cấp qua giá và một phần
qua vốn chủ yếu đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Sự cạnh tranh diễn ra
21


ngay giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, trong cùng một Bộ hay
trong một địa phương, trong cùng một hình thức sở hữu; cạnh tranh giữa
hàng nội và hàng ngoại… Cùng với việc ban hành các chính sách đổi mới
quản lý kinh tế đã giảm dần những ưu đãi về đầu tư, về tín dụng và thực
hiện bình đẳng nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp nhà nước và các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tạo ra động lực mạnh mẽ
cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh trên thị trường thực
sự đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Nền kinh tế Việt Nam đã có những
khởi sắc đáng mừng, hàng hóa trên thị trường dồi dào và phong phú, người
bán, người mua được tự do lựa chọn hàng hóa và thỏa thuận giá cả trong
trao đổi hàng hóa. Các doanh nghiệp đã tự vươn lên đổi mới công nghệ,
nâng cao trình độ quản lý, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng hàng hóa
cho phù hợp với nhu cầu để đứng vững trong cạnh tranh. Hơn nữa, cơ cấu
kinh tế ở nước ta cho phép các doanh nghiệp thành lập nhiều trong một số
ngành cơng nghiệp nhẹ, giải trí, dịch vụ khiến cho sự cạnh tranh giữa các
đối thủ ngày càng trở nên gay go và quyết liệt. Cạnh tranh bắt đầu đem lại

một sức sống mới cho nền kinh tế xã hội. "Sức nóng" của thị trường cạnh
tranh Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế nước ta sôi động hẳn lên, mức
sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Song, những khuyết tật vốn có của thị trường không thể không bộc
lộ trong thực tiễn. Bên cạnh những kết quả tích cực của thị trường hàng hóa
đang diễn ra một cuộc cạnh tranh sơi động khơng cân sức và khơng bình
đẳng. Cùng với thời gian và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, những
thủ đoạn cạnh tranh ngày càng trở nên tinh vi và nguy hiểm gây ra hậu quả
nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu sắc tới sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam
cũng như sự sống còn của một số ngành nội địa.
Có thể nhận thấy các thủ pháp kiểm sốt độc quyền và cạnh tranh
không lành mạnh sau đã trở nên phổ biến:
* Hạn chế cạnh tranh (kiểm soát chống độc quyền):

22


Hiện nay, một số doanh nghiệp lạm dụng vị thế độc quyền hay vị
thế thống lĩnh thị trường của mình để chèn ép các doanh nghiệp khác, hạn
chế các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường, mặt khác có những
trường hợp các doanh nghiệp này cùng nhau thỏa thuận với nhau để cùng
tăng giá. Trường hợp 11 doanh nghiệp đầu mối xăng dầu trong nước (đều
là doanh nghiệp quốc doanh), trong đó có Petrolimex chiếm 65% thị phần
đột ngột và đồng loạt tăng giá xăng dầu gần đây đã gây ra những phản ứng
bức xúc trong xã hội. Không phải vì con số lẻ 800 đồng/lít mà xã hội phản
ứng mà chính là cung cách kinh doanh theo kiểu "bắt tay nhau cùng độc
quyền" đã khiến xã hội cảm thấy mình bị một sức ép: sức ép từ độc quyền
xăng dầu.
Đây là mặt hàng từ lâu nay nhà nước quản lý và trực tiếp
điều chỉnh giá, tùy theo biên độ giá của thị trường thế giới.

Nhưng sau khi nhà nước tuyên bố trao quyền tự quyết giá cả cho
các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, thì bức xúc mới thực sự
xảy ra. Bởi trước đó, khi Nhà nước quản lý giá xăng dầu, xã hội
vẫn còn chỗ để tin cậy, vì Nhà nước bao giờ cũng phải nghĩ đến
lợi ích của xã hội, lợi ích vĩ mô của nền kinh tế trong tương quan
với giá xăng dầu, trước khi nghĩ đến lợi ích các doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu. Vì, nói cho cùng, những doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu, dù là doanh nghiệp nhà nước, thì cũng khơng
thể quan trọng hơn biết bao doanh nghiệp nhà nước khác cộng
với toàn xã hội sử dụng xăng dầu. Nếu trao quyền định giá cho
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu để giá cả trở nên cạnh tranh
hơn, có lợi hơn cho người tiêu dùng (trong đó "người tiêu dùng"
là nhà nước chiếm phần rất lớn) và để cho các doanh nghiệp (nhà
nước) kinh doanh xăng dầu trở nên năng động hơn, biết tiết giảm
chi phí nội bộ để có lợi ích kinh doanh nhiều hơn thì hỏi ai mà
khơng đồng tình? Nhưng, trao quyền tự định giá xăng dầu trong
lúc các doanh nghiệp nhà nước này vẫn kinh doanh xăng dầu
23


theo kiểu cũ, vẫn một cung cách của kẻ độc quyền, vẫn dựa hẳn
vào sự bảo hộ của Nhà nước mà khơng hề có một kế hoạch hay lộ
trình kinh doanh thực sự thị trường, nghĩa là chấp nhận cạnh
tranh, vươn lên trong cạnh tranh, thì đúng là trao "đằng chi"
cho họ, cịn để "đằng lưỡi" cho người tiêu dùng nắm. Cứ qua
cách 11 doanh nghiệp này "phôn" cho nhau và chọn "giờ G" để
đồng loạt tăng giá, lại tăng cùng một giá (dưới 1.000 đồng, theo
quy định nhà nước cho mỗi một lần tăng giá) là đủ biết, lộ trình
tăng giá này sẽ đi về đâu! Và, cứ theo lộ trình tăng giá này, thì
việc tăng hay giảm giá chưa chắc phụ thuộc vào giá xăng dầu của

thị trường thế giới, mà phụ thuộc trực tiếp vào doanh số, doanh
thu, lời lãi của các doanh nghiệp (nhà nước) kinh doanh xăng dầu
hiện nay. Nghĩa là, một mặt họ sẽ ca cùng một điệp khúc: "Lỗ
quá anh ơi!", mặt khác, họ sẽ tính xem vào thời điểm nào thích
hợp nhất cho họ để tăng 2, cịn thời điểm nào thích hợp để giảm 1
nhằm "giảm sốc" và "hạ nhiệt" dư luận xã hội. Xem ra, chuyện
kinh doanh xăng dầu theo kiểu đó mang tính "tâm lý xã hội"
nhiều hơn là kinh doanh thực chất theo đúng quy luật thị trường.
Nếu bây giờ, mặt hàng kinh doanh xăng dầu không nằm trong
danh mục "mặt hàng cấm kinh doanh tự do" thì lẽ ra, để có một
mặt bằng kinh doanh kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, một "sân
chơi thị trường xăng dầu" đúng nghĩa, Nhà nước phải cho phép
các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân, được quyền nhập khẩu và
kinh doanh xăng dầu. Chỉ khi đó, mới có thể nói đến chuyện
doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh mà tự điều chỉnh giá theo quy
luật cung cầu của thị trường. Một khi "giá thành xăng dầu hiện
nay là giá thành doanh nghiệp, tức cộng ln chi phí của doanh
nghiệp vốn khơng được kiểm sốt, chứ khơng phải giá thành xã
hội (giá thấp nhất để doanh nghiệp cạnh tranh)" thì người tiêu
dùng chỉ cịn nước bó tay [37, ngày 10/5].

24


* Cạnh tranh bằng giá cả:
Bán phá giá là việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ dưới giá trị
bình thường của hàng hóa/ dịch vụ đó nhằm chiếm lĩnh thị phần và dần đẩy
đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, nơi
mà quyền tự do kinh doanh được xác lập và bảo vệ thì nguyên tắc về việc
tự do hình thành và xác định giá hàng hóa, sản phẩm là điều đương nhiên

và đó cũng là nguồn sống của cơ chế thị trường. Trong giai đoạn đầu mới
mở cửa thị trường, phương thức cạnh tranh không lành mạnh bằng cách
bán phá giá trở thành một công cụ hữu hiệu của các hãng nước ngồi sử
dụng để thâu tóm thị phần của các đối thủ cạnh tranh Việt Nam. Các doanh
nghiệp nước ngoài nhờ ưu thế về tài chính, kinh nghiệm nên họ có thể tiến
hành được những cuộc phá giá ngoạn mục và giành thắng lợi vang dội
trước sự bất lực của các doanh nghiệp trong nước mà Cocacola là một ví dụ
điển hình.
* Cạnh tranh bằng khuyến mại quá lố:
Lạm dụng thế mạnh tài chính, bên cạnh việc bán phá giá, các doanh
nghiệp nhiều vốn đang thi nhau tiến hành các chiến dịch khuyến mãi với
quy mô và giá trị ngày càng lớn, bỏ lại phía sau đường đua là các doanh
nghiệp có vốn ít đang lắc đầu chịu thua và mệt nhồi vì trượt dốc.
* Cạnh tranh khơng lành mạnh qua hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:
Cạnh tranh không lành mạnh thông qua phương thức này chủ yếu là
việc làm nhái tên sản phẩm chính hãng đang có trên thị trường. Từ khi Việt
Nam tiến hành chính sách mở cửa, hàng giả danh bắt đầu phát triển rầm rộ
trên thị trường. Đầu tiên là các loại mỹ phẩm với sản phẩm nhái Camay,
Palmolive, Zest… Sau đó là các sản phẩm bắt chước kiểu dáng của
Cocacola, Pepsi… Có nhiều cách giả danh: nhái tên cơ sở sản xuất, nhái
tên sản phẩm, nhái mẫu mã bao bì. Trên thị trường trong nước đã xuất hiện
gần 30 dạng sản phẩm "nhái" theo kiểu dáng công nghiệp của công ty
Lavie. Một số cơ sở làm đề can giả đã phá vỡ hình tượng của lavie bằng
25


cách đặt tên cho hàng giả nhưng tên lai quen tai như Covie, La Lavie, Bavi,
Lavierge. Việc này không chỉ là mối hiểm họa đến nguồn doanh thu của
công ty Lavie mà còn là mối đe dọa đến sức khỏe của khách hàng. Việc
nhái các nhãn hiệu nổi tiếng là một hành vi ngày càng phổ biến trên thị

trường. Nhãn hiệu nổi tiếng là một lợi thế cạnh tranh vô cùng to lớn của các
hãng sản xuất bởi khi nói đến tên nhãn hiệu này, người tiêu dùng sẽ cảm
nhận được ngay, phân biệt được tiềm lực, chất lượng, phương thức phục vụ
của sản phẩm này so với sản phẩm cùng loại mang nhãn hiệu khác.
* Cạnh tranh không lành mạnh qua các hình thức khác:
Có thể nói rằng, trong điều kiện hiện nay, khi mà sự cạnh tranh trên
tất cả các lĩnh vực ngày càng mạnh mẽ và gay gắt hơn thì hình thức cạnh
tranh qua giá hay qua khuyến mại khơng cịn là phương thức cạnh tranh
chiếm ưu thế nữa mà các công ty, doanh nghiệp thường sử dụng các thủ
pháp cạnh tranh không lành mạnh qua nhiều hình thức khác tinh vi hơn.
Trong thời gian gần đây, dư luận khá ồn ào về chuyện nước tương
có chứa chất 3-MCPD có thể gây ưng thư cho người tiêu dùng. Việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra một loạt các doanh nghiệp sản xuất
nước tương và công bố rộng rãi trên thông tin đại chúng tên các sản phẩm
nước tương không đủ chất lượng là nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu
dùng. Tuy nhiên, trường hợp cơng ty Masan (chủ sản phẩm nước tương
Chinsu) copy, trình bày lại và phân phát các bài báo về 17 doanh nghiệp có
sản phẩm chứa độc tố 3-MCPD gửi đi các nơi được xem là một hành vi
"cạnh tranh không lành mạnh". Trong mỗi phong bì của Cơng ty Masan có
một bức thư ngỏ gửi khách hàng của Masan giới thiệu về chất lượng của
nước tương hiệu Tam Thái Tử do Vitecfood (đơn vị thành viên của Masan)
sản xuất, 2 phiếu kiểm định chất lượng 3-MCPD trong nước tương, hai bài
báo lấy từ báo Người Lao động (bài "Vụ nước tương gây chất ung thư - Vì
sao q chậm cơng bố thông tin?" ngày 25/5/2007) và báo Tuổi trẻ điện tử

26


(bài "Thành phố Hồ Chí Minh: Cơng bố thêm 7 cơ sở sản xuất nước tương
vi phạm" ngày 29/5/2007).

Có thể thấy rõ rằng, về nội dung, những bài báo này hoàn toàn bất
lợi cho các cơ sở sản xuất nước tương. Về cách trình bày, cũng gây bất lợi
(những cái tên doanh nghiệp và sản phẩm được phóng to, in đậm gây ấn
tượng, người đọc không thể bỏ qua; theo cách trình bày thì hình thức văn
bản khơng cịn giống hình dáng của bài báo nữa). Các chủ cơ sở sản xuất
nước tương phản ứng rất mạnh về hành động này của công ty Masan. Họ
cho rằng, việc làm của công ty Masan là một hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Hiện nay, các doanh nghiệp có sản phẩm vi phạm khơng hề né
tránh. Họ đang tích cực thu hồi lại các sản phẩm vi phạm và đang tìm dây
chuyền cho cơng nghệ mới.
Về phía cơng ty Masan cho rằng họ chỉ phát các bài báo đó cho hệ
thống đại lý, chứ không phân phát, phát tán lung tung. Nhưng lời lý giải
này có vẻ khó thuyết phục vì bằng cách nào thì cũng khơng nằm ngồi mục
tiêu là chuyển đến người sử dụng nước tương. Công ty Masan cho rằng họ
không vi phạm vào Luật Cạnh tranh. Nhưng, khoản 4 điều 3 Luật Cạnh
tranh có quy định "hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh
tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác
hoặc người tiêu dùng". Có thể nói rằng, đây là một thủ pháp cạnh tranh
không lành mạnh trong kinh doanh vì vi phạm vào đạo đức kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động cạnh tranh ở Việt Nam càng
ngày càng phát triển. Với hoạt động kinh tế ngày càng phát triển thì những
thủ pháp cạnh tranh khơng lành mạnh cũng ngày càng được đa dạng hơn
dưới nhiều hình thức và phương thức khác nhau. Để phân biệt được rõ đâu
là hành vi cạnh tranh lành mạnh, đâu là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là một việc ngày càng khó khăn hơn. Chính vì vậy, các cơ quan quản
27



×