TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
BÁO CÁO THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Đề tài: Nghiên cứu các tác động của khủng hoảng kinh tế (năm 2008)
đối với thị trường chứng khoán Việt Nam.
Liên hệ với tình hình dịch bệnh Covid-19 hiện tại.
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Đặng Thị Lan Phương
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2020
1
MỤC LỤC
1. Các tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đối với thị trường chứng
khoán Việt Nam.....................................................................................................10
1.1 Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008............................................................10
1.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam...............................................................12
1.3 Các tác động của cuộc khủng hoảng đến thị trường chứng khoán................17
1.4 Giải pháp.......................................................................................................18
2. Liên hệ với tình hình dịch bệnh- ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến thị trường
chứng khốn Việt Nam..........................................................................................21
2.1. Sơ lược về tình hình dịch COVID-19...........................................................21
2.2. Tình hình thị trường chứng khốn Việt Nam trước dịch..............................23
2.3. Tác động của dịch Covid-19 đến thị trường chứng khoán Việt Nam...........26
2.4. Giải pháp, định hướng..................................................................................29
KẾT LUẬN:.......................................................................................................31
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2008 đã khép lại nhưng diễn biến của cuộc khủng hoảng thị trường tài chính thế
giới mới chỉ được coi là đang ở giai đoạn “kết thúc của sự khởi đầu”. Kể từ cuộc khủng
hoảng thị trường chứng khoán làm chấn động nước Mỹ và thế giới những năm 30, sau hơn
70 năm mới lại xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính khiến các cơ quan quản lý, định chế
tài chính, các thị trường, các nhà nghiên cứu và lập chính sách tồn cầu phải hồi nghi về
những gì mà vài thập kỷ gần đây được người ta coi là tính ưu việt của những lý thuyết,
phương thức quản lý, giám sát mới, sự phát triển của thị trường tài chính, sự giao thoa của
các khu vực thị trường, sự hội nhập của các nền kinh tế và thị trường chứng khốn khu vực
và thế giới.
Nếu như trước đây các cơng cụ phái sinh chứng khoán được ngợi ca như là những sản
phẩm của sự sáng tạo, công cụ đa dạng hóa rủi ro và tăng tính thanh khoản cho thị trường
chứng khốn thì nay Warrant Buffet đã phải cay đắng thốt lên rằng chúng là ‘những quả
bom hẹn giờ” và là “những vũ khí tài chính hủy diệt hàng loạt”. Những chính sách tơn vinh
“tự do thị trường” và “bàn tay vơ hình của thị trường” q mức, chạy theo lợi ích nhóm
(group interest) của những tập đồn tài chính khổng lồ, quá kỳ thị những “thất bại của
chính phủ” (government failures) và lãng quên việc thực thi những biện pháp giám sát hữu
hiệu đã khiến cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra kéo theo sự sụp đổ của những người
khổng lồ trên thị trường tài chính và phơi bày những vụ gian lận, lừa đảo với quy mô và
mức độ khó tin ở cả ba khu vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.
Trong cuộc khủng hoảng này, thị trường chứng khốn khơng chỉ được nhìn nhận như là
một nạn nhân của khủng hoảng, gánh chịu những biến động thê thảm về giá chứng khốn
tồn cầu mà ở một góc độ khác, thị trường chứng khốn cịn được coi là một tác nhân sản
sinh ra những công cụ và phương thức “tiếp tay” cho những rủi ro đạo đức, hành vi gian
lận và lừa đảo trên thị trường tài chính, đồng thời khiến cuộc khủng hoảng đó lan xa hơn,
rộng hơn và trở nên trầm trọng hơn.
Ngoài ra, hiện nay tình hình kinh tế trong đó có cả thị trường chứng khốn đối với cả thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều bị ảnh hưởng, chi phối, tác động xấu bởi dịch
bệnh Covid-19. Dịch bệnh đã làm trì trệ, gây ra những tổn thất to lớn cả về vật chất lẫn tinh
thần đối với con người. Có thể nói, dịch bệnh Covid-19 có những nét tương đồng với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 trong việc để lại cho nền kinh tế những hậu quả
nặng nề, trầm trọng.
3
Nhận thấy tính cấp thiết của đề tài, nhóm 8 chúng em đã quyết định chọn đề tài để đi sâu
nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề: “Nghiên cứu các tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
(năm 2008) đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Liên hệ với tình hình dịch bệnh
Covid-19 hiện tại tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Khảo sát, đánh giá, phân tích nguyên nhân, tác động, giải pháp của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 đối với thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Liên hệ với những tác động, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đối với thị trường
chứng khoán Việt Nam và đề xuất những giải pháp, định hướng để hạn chế, giảm thiểu
hậu quả của dịch bệnh Covid-19.
Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra và thu thập tài liệu để tổng hợp và phân tích theo phương pháp luận logic.
- Khảo sát thực tế nhằm đưa ra các đánh giá, đối chiếu và so sánh.
4
1. Các tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đối với thị trường chứng
khoán Việt Nam
1.1 Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008:
1.1.1. Sơ lược về cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008:
- Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 là khủng hoảng lịch sử, là đợt suy thoái
kinh tế kéo dài nhất và nghiêm trọng nhất kể từ Đại Khủng hoảng thập niên 1930.
Sau hơn 10 năm, người ta vẫn băn khoăn về sự thay đổi cuộc chơi và quan trọng
hơn là làm sao để tránh được điều đó trong tương lai.
- Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers vào 15/09/2008 là vụ phá sản
lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ngày hôm sau vụ giải cứu lớn nhất một công ty tư
nhân được thơng qua, khi chính phủ Mỹ nắm đến 80% cổ phần trong cơng ty bảo
hiểm khổng lồ tồn cầu AIG.
- Tại Mỹ, hơn 8 triệu người mất việc làm, xấp xỉ 2.5 triệu doanh nghiệp phá sản và
có tới gần 4 triệu ngơi nhà bị thu hồi trong vịng 2 năm. Bất ổn về an ninh, lương
thực cùng với sự mất cân bằng thu nhập làm cho nhiều người cảm thấy mất niềm
tin vào cơ chế.
- Cuộc khủng hoảng nêu lên một số vấn đề cơ bản trong kinh tế vĩ mơ bao gồm vai
trị của tình trạng bất cân đối kinh tế toàn cầu, bản chất của thị trường tài chính,
hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc tránh “bong bóng” tài sản, tác động của
việc nới lỏng quy đinh tài chính và vấn đề của những thể chế tài chính “q lớn
khơng thể đổ”.
1.1.2. Ngun nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008:
- Nguyên nhân trực tiếp:
Nguyên nhân cuộc khủng hoảng được xác định là bắt đầu từ cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ lại được xác định
có nguyên nhân từ việc các ngân hàng thương mại (NHTM) cho vay mua
nhà “dưới chuẩn” với một quy mô lớn. Việc một số lượng lớn người dân
đổ xô vào vay tiền ngân hàng (trả lãi và vốn trong một thời gian dài) là do
tình trạng lãi suất và dễ vay mượn ở Mỹ mà Cục dự trữ liên bang Mỹ
(FED) thực hiện để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, cứu nền kinh tế
Mỹ khỏi suy thoái sau cuộc khủng hoảng năm 2000-2001 (chỉ từ tháng
5
5/2001 đến tháng 12/2002, FED đã 11 lần giảm lãi suất cho vay từ 6,5%
xuống còn 1,75%/năm). Còn các NHTM có thể cho người dân vay mua
nhà “dưới chuẩn” đầy rủi ro với một quy mô lớn là do được các cơng ty tài
chính và ngân hàng đầu tư, trong đó đặc biệt là hai cơng ty Fanie Mae và
Freddie Mac được Chính phủ Mỹ bảo trợ, “cấp vốn” bằng cách mua lại các
khoản cho vay của các NHTM, biến chúng thành loại chứng từ được bảo
đảm bằng các khoản vay thế chấp để bán lại cho các công ty, các ngân
hàng đầu tư lớn khác như: Bear Stearms, Merrill Lynch…
Các cơng ty tài chính, ngân hàng đầu tư này lại phát hành trái phiếu trên cơ
sở các chứng từ cho vay thế chấp đó để bán cho các ngân hàng Mỹ khác và
ngân hàng nhiều nước trên thế giới làm tài sản tích trữ do uy tín của các
ngân hàng phát hành. Việc “chứng khoán hoá” các khoản vay thế chấp đã
vượt khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Chuỗi hoạt động kinh doanh mang
tính chất đầu cơ đã làm thị trường nhà đất nóng lên, giá nhà đất bị đẩy lên
cao, trở thành “bong bóng”. “Bong bóng” nổ là không thể tránh khỏi.
- Nguyên nhân sâu xa:
Cuộc khủng hoảng tài chính có ngun nhân từ cơ cấu và cơ chế vận hành
nền kinh tế Mỹ. Trong bối cảnh thực hiện các chính sách tự do hố kinh tế,
Chính phủ Mỹ cịn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong một thời
gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc suy thoái kinh tế năm 2001,
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tiếp giảm lãi suất liên ngân hàng
(từ 6,5% xuống còn 1,75%), theo đó, lãi suất cho vay của tín dụng thứ cấp
cũng giảm xuống thấp. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng đơ la
rẻ) đã kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì
sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm.
Tóm lại, sự buông lỏng quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính
sách kinh tế của nhà nước là nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ vừa qua. Kinh tế thị trường Mỹ dựa chủ yếu trên
sở hữu tư nhân, lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy các doanh
nghiệp năng động, nhưng cũng là nguyên nhân thúc đẩy các doanh
nghiệp đầu cơ, thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật, vi phạm các chuẩn
mực đạo đức xã hội, phá vỡ những cân đối duy trì sự phát triển ổn định
của nền kinh tế, dẫn tới khủng hoảng.
Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 còn bắt nguồn từ vai trò của kinh tế Mỹ trong nền kinh tế thế giới. Từ
6
sau Đại chiến Thế giới lần thứ II đến nay, Mỹ là cường quốc kinh tế, cường
quốc khoa học công nghệ đứng đầu thế giới. Giá trị tổng sản phẩm (GNP)
của nước Mỹ chiếm gần một phần tư giá trị tổng sản phẩm của thế giới,
nên suy giảm kinh tế Mỹ đã ảnh hưởng lớn đến quan hệ tài chính, thương
mại và đầu tư quốc tế, do đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của nhiều
nước. Cũng do sức mạnh to lớn của nền kinh tế Mỹ mà đồng đơ la Mỹ
được sử dụng làm đồng tiền thanh tốn và dự trữ quốc tế. Chính phủ, các
ngân hàng, cơng ty của các nước trên thế giới đều sẵn sàng mua trái phiếu
của Chính phủ Mỹ, của các cơng ty và ngân hàng Mỹ làm tài sản dự trữ
của mình. Điều này tạo cho Chính phủ, các cơng ty và ngân hàng Mỹ
những lợi thế to lớn. Chính phủ Mỹ có thể phát hành trái phiếu ra thị
trường quốc tế để huy động tiền bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách của
mình. Ngân hàng và các cơng ty Mỹ có thể phát hành trái phiếu để huy
động vốn, mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình, kể cả các hoạt
động mạng tính chất đầu cơ. Nhưng khi đồng đơ la Mỹ mất giá, thì giá cả,
thương mại, tài chính quốc tế, giá trị tài sản dự trữ bằng đồng đơ la Mỹ và
trái phiếu Mỹ của Chính phủ, các ngân hàng, công ty các nước đều bị ảnh
hưởng. Sự sụp đổ của ngân hàng Mỹ kéo theo sự phá sản của hàng loạt
ngân hàng các nước trên thế giới; khủng hoảng của kinh tế Mỹ gây ra
khủng hoảng, suy thoái kinh tế thế giới.
1.2. Thị trường chứng khoán Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, phân loại TTCK
Khái niệm : TTCK là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch chứng khoán,
TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính.
Phân loại:
- Theo đối tượng giao dịch
Thị trường cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu, còn gọi là thị trường vốn (vốn cổ phần)
là thị trường mà đối tượng giao dịch là các loại cổ phiếu của các công ty cổ phần.
Thị trường cổ phiếu được coi là bộ phận cơ bản và giữ vị trí quan trọng nhất của
hệ thống TTCK. Nói đến TTCK người ta thường đồng nghĩa với thị trường cổ
phiếu.
7
Thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu, còn gọi là thị trường nợ, là nơi giao
dịch, các loại trái phiếu.
Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư: Thị trường chứng chỉ quỹ là nơi giao dịch các
loại chứng chỉ quỹ.
Thị trường chứng khoán phái sinh: Là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái
sinh như quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp
đồng tương lai.
- Theo các giai đoạn vận động (quá trình lưu thơng) của chứng khốn
Thị trường sơ cấp: Là thị trường diễn ra các giao dịch phát hành các chứng khốn
mới. TTCK sơ cấp có vai trị tạo vốn cho các tổ chức phát hành và chuyển hoá các
nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng vào đầu tư.
Thị trường thứ cấp: Là thị trường diễn ra các giao dịch mua bán các chứng khoán
đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.
- Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động
Thị trường chứng khốn chính thức: TTCK chính thức (cịn gọi là thị trường có tổ
chức) là thị trường mà sự ra đời và hoạt động được thừa nhận, bảo hộ về mặt pháp
lý. Các hoạt động giao dịch của thị trường này nằm dưới sự kiểm soát và chịu sự
ảnh hưởng bởi cơ chế điều tiết gián tiếp của Nhà nước. Theo hình thức tổ chức và
cơ chế hoạt động, thị trường có tổ chức bao gồm:
o Thị trường tập trung - Sở giao dịch TTCK tập trung là thị trường ở đó việc
giao dịch mua bán chứng khoản được thực hiện tại một địa điểm tập trung
gọi là sàn giao dịch.
o Thị trường phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC: Quay the Counter )
Thị trường OTC là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khốn
khơng diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống máy vi tính
và điện thoại kết nối giữa các thành viên của thị trường.
Thị trường chứng khốn khơng chính thức (TTCK tự do): TTCK tự do (The free
markets): còn gọi là thị trường ngầm, hay thị trường chợ đen, là thị trường ở đó
các hoạt động giao dịch mua bán chứng khốn khơng được thực hiện qua hệ thống
giao dịch của thị trường tập trung và thị trường OTC, nó ra đời và hoạt động một
cách tự phát theo nhu cầu của thị trường.
- Theo hình thức giao dịch
8
Thị trường giao ngay: Thị trường giao ngay là thị trường mà việc giao nhận chứng
khoản và thanh toán được diễn ra ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời gian
thanh toán bù trừ theo quy định.
Thị trường kỳ hạn: Thị trường kì hạn là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán
và thanh toán được diễn ra sau ngày giao dịch một khoảng thời gian nhất định.
1.2.2. Sự hình thành, hồn cảnh ra đời TTCK VN
Sự hình thành TTCK
Lịch sử đã chứng minh rằng: Sự ra đời, tồn tại và phát triển TTCK là sản phẩm tất
yếu khách quan của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Nhìn chung, sự ra
đời của TTCK ở các quốc gia đều bắt nguồn từ hai nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tiền tệ. Đây là nguyên
nhân mang tính tiền đề cho sự xuất hiện TTCK. Thực tế cho thấy, các chủ thể
trong nền kinh tế - xã hội, trước hết là Nhà nước và các doanh nghiệp, vì
những lý do khác nhau mà thường có nhu cầu huy động vốn để bổ sung thiếu
hụt ngân sách của mình. Cầu vốn là lượng vốn cần thiết để tiến hành quá trình
đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho một mục đích tiêu
dùng nào đó của các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời trong nền kinh tế xã hội, cũng luôn có cung vốn. Cung vốn là lượng vốn hiện đang nhàn rỗi
trong xã hội và có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau, hoặc cho tiêu
dùng, hoặc cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh. Với mỗi
quốc gia nguồn cung vốn bao gồm: nguồn cung trong nước và nguồn cung từ
bên ngoài.
o Nguồn cung trong nước: có thể chia thành nguồn cung từ tích luỹ và nguồn
cân đối tạm thời.
Nguồn cung từ tích luỹ: Nguồn cung này bao gồm tiết kiệm của dân
chúng, lợi nhuận của các doanh nghiệp, các quỹ chuyên dụng. Tuỳ
theo tình hình phát triển kinh tế của mỗi nước mà nguồn cung từ tích
luỹ cao thấp khác nhau. Đây là nguồn cung có tính chất dài hạn và
tương đối ổn định.
Nguồn cân đối tạm thời: Đây là nguồn cung vốn từ việc cân đối tạm
thời các nguồn tiền hoặc quỹ chưa sử dụng đến của ngân sách hay
của các doanh nghiệp . . . Nguồn vốn này mang tính chất tạm thời vì
9
vậy nó khơng ổn định. Tuy nhiên quy mơ của nó cũng khơng phải
nhỏ.
o Nguồn vốn từ bên ngồi: Đây là nguồn vốn từ các tổ chức tại chính - tiền tệ
quốc tế hay các quốc gia khác chuyển đến, thường là từ các nước phát triển
sang các nước chậm phát triển. Nguồn vốn này bao gồm: kiều hối, đầu tư
trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp (đầu tư chứng khoán, các khoản cho
vay, viện trợ . . .). Nguồn cung vốn từ bên ngồi có quy mơ lớn nhưng là
nguồn cung không liên tục và cũng không ổn định vì nó phụ thuộc chủ yếu
vào các yếu tố khách quan bên ngoài hơn là các yếu tố chủ quan trong
phạm vi quốc gia. Tất cả các nguồn vốn dù ở bên trong hay ngoài một quốc
gia, hợp lại thành nguồn cung về vốn , đáp ứng nhu cầu vốn trong nền kinh
tế. Tuy nhiên đây chỉ là những nguồn vốn tiềm năng. Bởi vì, các nguồn
cung vốn trên không phải luôn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của gười cần
vốn tại bất cứ thời điểm nào, cho bất cứ đối tượng nào với bất cứ quy mô
nào.
Như vậy, cung - cầu vốn tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một thực tế khách
quan, cần được giải quyết hợp lý và hiệu quả để tạo điều kiện cho nền
kinh tế - xã hội tổn tại và phát triển. Trong xã hội hiện đại, việc giải
quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ tương quan giữa cung và cầu vốn
tiền tệ có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau: hoặc thông
qua việc sử dụng các tổ chức tài chính trung gian (ngân hàng, cơng ty
tài chính . . .) hoặc thông qua việc việc sử dụng mơ hình chun giao tài
chính trực tiếp - đó chính là TTCK. Đây là một trong những lý do mà
thị trường này còn được gọi là thị trường vốn. Với cơ chế hoạt động của
thị trường vốn, lực lượng cung và cầu vốn tiền tệ có thể gặp gỡ nhau
trực tiếp để đáp ứng nhu cầu của nhau. Nhờ vậy, mâu thuẫn trước mắt
tạm thời được giải quyết, để rồi lại xuất hiện những mẫu thuần mới đòi
hỏi tiếp tục giải quyết. Và đây chính là nguồn năng lượng, là xung lực
để duy trì và phát triển hoạt động của TTCK.
Thứ hai, sự xuất hiện các loại chứng khoán. Đây là nguyên nhân trực tiếp
quyết định sự ra đời của TTCK.
+ Về phía Nhà nước: Khi ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, cũng có nghĩa là
cầu về vốn tiền tệ xuất hiện, Chính phủ có thể sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau để tạo ra nguồn bù đắp cho sự thâm hụt đó như: phát hành tiền, vay các
ngân hàng, tìm nguồn tài trợ từ các đối tác nước ngoài . . . Tuy nhiên, các biện
10
pháp này đều có những hạn chế và có thể gây nên những hậu quả nhất định
đối với nền kinh tế xã hội quốc gia. Vì vậy, một biện pháp được coi là tối ưu
hơn cả, đó là Nhà nước trực tiếp vay nợ của mọi tầng lớp dân cư cũng như các
chủ thể khác trong nền kinh tế, dưới hình thức tín dụng Nhà nước, bằng cách
phát hành trái phiếu chính phủ . . .
+ Về phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là chủ
thể thứ hai (sau Nhà nước) cũng có nhu cầu rất lớn và thường xuyên về vốn
tiền tệ. Được chủ động tạo vốn, doanh nghiệp sẽ lựa chọn phương án tài trợ
hiệu quả nhất, nghĩa là với chi phí sử dụng vốn thấp nhất, ít rủi ro nhất. Nói
chung, doanh nghiệp có hai giải pháp cơ bản đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư.
Trước hết là khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khả năng này là
hạn chế và thường chỉ đáp ứng một phần nào đó nhu cầu vốn đầu tư. Biện
pháp thứ hai là huy động vốn từ bên ngồi. Chủ yếu có hai phương án, hoặc là
vay vốn từ các tổ chức tín dụng, hoặc là phát hành trái phiếu hay cổ phiếu.
Biện pháp truyền thống là vay ngân hàng, bên cạnh những ưu điểm cũng bộc
lộ những khó khăn và hạn chế nhất định về thủ tục, điều kiện, tài sản đảm bảo,
số lượng tiền vay. Việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu mở ra khả năng tài
trợ to lớn với những ưu điểm nổi trội so với các phương pháp truyền thống.
Các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty phát hành, chính là chứng khốn.
Như vậy, sự ra đời của các loại chứng khốn cũng như q trình thương
mại hố chúng vừa thoả mãn u cầu của người có vốn và người cần
vốn, vừa là cơ sở để hình thành TTCK.
Hoàn cảnh ra đời TTCK Việt Nam
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, năm 1992 các tổ nghiên cứu thuộc bộ tài chính và
NHNN Việt Nam đã triển khai nghiên cứu đề án hình thành và phát triển thị trường
vốn ở Việt Nam. Ngày 28/11/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/CP thành
lập UBCKNN, là cơ quan thuộc Chính phủ quản lý các hoạt động về chứng khốn
và TTCK ở Việt Nam; chính thức đi vào hoạt động vào tháng 4/1997. Ngày
11/7/1998, Nghị định số 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khốn và TTCK
và quyết định số 127/1998/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ về việc thành lập hai
TTGDCK ở Hà Nội và TPHCM được ban hành. Vào ngày 20/7/2000 TTGDCK
TPHCM được đưa vào vận hành đánh dấu sự ra đời của TTCKVN và phiên giao
dịch đầu tiên được thực hiện vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có
11
hai doanh nghiệp niêm yết hai loại cổ phiếu REE và SAM với số vốn 270 tỷ đồng và
một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
1.2.3. Tình hình TTCKVN trước khủng hoảng
Nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO ( ngày 7/11/2006 ) đã có sự phát triển đáng
kể. Trong sự phát triển đó phải kể đến thị trường tài chính mà đặc biệt là thị trường chứng
khốn (TTCK), đã đóng góp khơng nhỏ trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Với quy
mô thị trường tăng mạnh qua các năm. Trong năm 2006, vốn hóa của thị trường chứng
khốn chỉ chiếm khoảng 22% GDP thì năm 2007 đã lên tới hơn 40% GDP. Về chỉ số
Vn-Index đã lập kỷ lục. Lần đầu tiên trong lịch sử 7 năm hình thành TTCK, hàn thử biểu
đạt đỉnh 1.170,67 điểm vào ngày 12/3/2007. Nhưng từ cuối năm 2007, tình hình kinh tế thế
giới và trong nước có nhiều sự biến động mạnh mẽ về tỷ giá, nhiên liệu, thiên tai, dịch
bệnh, đặc biệt là những biến động của thị trường tài chính do ảnh hưởng bởi cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ (bắt đầu xảy ra
năm 2007 và chính thức bùng nổ năm 2008 sau đó lan rộng sang các nước khác trên thế
giới cũng trong 2008) đã dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín
dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế
giới, điều này thể hiện rõ nét ở thị trường tài chính thế giới nói chung và cả châu Á nói
riêng trong đó có Việt Nam. Thị trường tài chính Việt Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng đặc
biệt là TTCK. Trong giai đoạn này TTCK Việt Nam diễn biến rất phức tạp.
1.3 Các tác động của cuộc khủng hoảng đến thị trường chứng khoán
Sự suy giảm của nền kinh tế thế giới tác động trực tiếp tới nền kinh tế trong nước, qua
đó ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam.
Khủng hoảng tài chính làm sức mua của các thị trường giảm sút nghiêm trọng ảnh
hưởng đến kế hoạch doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ
phiếu của các doanh nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi. Các
doanh phiệp đang phải chịu ứ đọng vốn đầu tư rất nhiều mà chưa kể hoạt động sinh lời.
Không chỉ thiệt hại cho doanh nghiệp mà cơ hội việc làm cho người lao động cũng bị giảm
bớt. Giá cổ phiếu trong thị trường Việt Nam chỉ trong vòng 1 tháng (từ 18/07/2008 –
17/8/2008) đã giảm khoảng 11,2%.
Khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngồi bán rịng cổ phiếu, trái
phiếu. Huy động vốn gián tiếp và thị trường cổ phiếu Việt Nam rất khó khăn do các nhà
đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn. Việc bán tháo chứng khốn khỏi thị trường
Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất khơng cao do tính thanh khoản và quy mô của thị
trường.
12
Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khốn và q trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thơng qua thị trường
vốn khó khăn trong khi thị trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dịng vốn và đầy chỉ phí tài
chính của các doanh nghiệp lên cao. Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao
dịch này thường mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất tồn cầu sụt giảm và chính
sách tỷ giá VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể
dịng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh
lệch. Trong những trường hợp thối vốn, dịng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND.
Tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đến thị trường chứng
khoán Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên thị trường chứng khoán thì ở
quốc gia nào chúng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường này mới hình thành. Yếu tố
tâm lý đã làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam lâm vào tình trạng mất cân đối cung
cầu, khi giá chứng khốn lên thì khơng mua được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ tồn lệnh
bán mà khơng có lệnh mua. Sở dĩ có hiện tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt
Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua
bán chứng khốn, mặt khác mơi trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến
với tất cả các nhà dầu tư cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó
khăn trong việc hoạch định chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở
thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi làm giả, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt
… để trục lợi. Tâm lý múa bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị
lạm phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá xăng, dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản
hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ thị trường
chứng khoán. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố dẫn dắt
thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá chứng khoán tăng
hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 rất nhiều thông tin tốt về nền kinh tế được
phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số giá tiêu dùng giảm đáng kể đã
khơng nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị trường và chỉ số chứng khoán cả 2
sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm. Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam
đã khơng cịn quan tâm đến các thông tin tốt từ nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ
quan tâm đến là diễn biến tình hình giao dịch ở các thị trường chứng khoán Mỹ, Anh, Nhật
Bản … thế nào và sẽ có hành vi đầu tư. Tâm lý này trở thành một rào cản khơng nhỏ cho
các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy thị trường chứng khoán. Nhiều chuyên gia đã chỉ
ra rằng, khi thị trường chứng khốn có biến động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển,
các thị trường chứng khốn tồn cầu có độ liên thơng lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn
định và Việt Nam cũng khơng năm ngồi luật đó.
Mặc dù khơng phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu nhưng
thị trường chứng khốn Việt Nam vẫn còn tổn tại rất nhiều những vấn đề khác như các vấn
đề về khung pháp lý, vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh bạch của thị
trường. Vẫn còn những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường khiến
13
cho các nhà đầu tư bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị mà dần dần chuyển sang lướt
sóng nhiều hơn.
1.4 Giải pháp
Biện pháp tổng thể
- Thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục chính sách tiền tệ
chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không đưa các giải pháp
sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn
biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt hạ lãi suất
xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các ngân hàng
thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an tồn. Rà sốt và kiểm sốt chặt chẽ
các khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi mới và cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm lành mạnh hoá
hệ thống này tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
- Tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân hàng và thị
trường chứng khốn. Rà sốt lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân hàng. Rà
soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án có tính
rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là
tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Xây
dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp dự
phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
- Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nơng nghiệp khắc phục hậu quả
bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân nghèo vùng
sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Có
chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia
tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập trung
tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các
tháng cuối năm.
- Đề ra các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực cơng nhằm
tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và
chuyển các khoản đầu tư cơng sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm
thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có
thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu
tư cho các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời
14
điểm trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát
triển.
- Cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng,
phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương trình được triển
khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh bất động sản
thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ cho người
nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh tế, khu
công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế cao
vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.
- Đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm nhập khẩu
của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng
thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng thị trường
trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất
hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực hiện
chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất
hàng xuất khẩu.Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, nhất là
trong các khâu thu mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát
triển vùng sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ
thống phân phối các vật tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch
vụ và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngồi vào nước ta, tiếp tục cải thiện
mơi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngồi, trong đó theo dõi
việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu Âu để
có thể hỗ trợ khi cần thiết.
- Tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ sở bán lẻ
trong nước, không gây đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hố. Đồng thời khuyến
khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà nước
và công nhân ở các doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường xun, cập
nhật thơng tin trong và ngồi nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình; qua đó
có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.
Chính sách cụ thể:
15
- Tăng cường một cơ sở các nhà đầu tư rộng hơn và đa dạng hơn. Khuyến khích sự đa
dạng các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư tổ chức, chẳng hạn như các quỹ lương hưu
và công ty bảo hiểm, là những nhà đầu tư có xu hướng đầu tư dài hạn.
- Hỗ trợ việc định giá. Loại bỏ những cản trở đối với việc định giá theo cung cầu thị
trường bằng cách tránh những trì hỗn giả tạo trong việc tiết lộ giá hoặc hạn chế
những thay đổi về giá.
- Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng. Thông qua các quy tắc pháp lý, các quy định điều
tiết và an tồn nhất qn với thơng lệ quốc tế tốt nhất.
- Đảm bảo sự vận hành tốt của các sàn giao dịch chứng khốn. Một mơi trường giao
dịch mạnh mẽ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho việc mua bán cổ phiếu và các công cụ tài
chính mới có thể giúp phát triển các thị trường vốn, cho dù cần có lịch trình phù hợp
cho việc kiện toàn và đổi mới.
16
2. Liên hệ với tình hình dịch bệnh- ảnh hưởng của dịch Covid-19 đến thị trường
chứng khoán Việt Nam
2.1.
Sơ lược về tình hình dịch COVID-19
2.1.1. Sơ lược về tình hình dịch COVID-19 trên thế giới
Đại dịch COVID-19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2
hiện đang ảnh hưởng và gây thiệt hại trên phạm vi toàn cầu. Dịch bệnh này bắt đầu xuất
hiện từ tháng 12 năm 2019, với tâm dịch đầu tiên được ghi nhận là thành phố Vũ
Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc ở miền Trung Trung Quốc, bắt nguồn từ một nhóm người bị mắc
bệnh viêm phổi không rõ nguyên nhân. Ngày 9 tháng 1 năm 2020, ca tử vong do SARSCoV-2 đầu tiên xảy ra ở Vũ Hán.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus (ICTV) đã đặt tên chính
thức cho chủng virus corona mới này là SARS-CoV-2. Vào đêm ngày 11 tháng 3 năm 2020
theo giờ Việt Nam, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã ra tuyên bố chính thức, gọi "COVID19" là "Đại dịch tồn cầu".
Phản ứng đáp trả của chính phủ các quốc gia trên thế giới nhằm bảo vệ sức khỏe người
dân cũng như các nhóm cộng đồng trên tồn cầu đã được nhanh chóng tiến hành, bao
gồm: hạn chế đi lại, phong tỏa kiểm dịch ... Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến như:
phong tỏa để kiểm dịch toàn bộ tại Ý và tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc; các biện pháp giới
nghiêm khác nhau ở Trung Quốc và Hàn Quốc; phương pháp sàng lọc tại các sân bay và
nhà ga; hạn chế hoặc hủy bỏ các hoạt động du lịch tới những khu vực, vùng, quốc gia có
nguy cơ nhiễm dịch cao ... Những ảnh hưởng trên toàn thế giới của đại dịch COVID-19
hiện nay bao gồm: thiệt hại sinh mạng con người, sự bất ổn về kinh tế và xã hội, tình
trạng bài ngoại và phân biệt chủng tộc đối với người gốc Trung Quốc và Đông Á, việc
truyền bá thông tin sai lệch trực tuyến và thuyết âm mưu về virus.
2.1.2. Sơ lược tình hình dịch COVID-19 tại Việt Nam
Đại dịch COVID-19 do virus SARS-CoV-2 gây ra được xác nhận lần đầu tiên tại Việt
Nam vào ngày 23 tháng 1 năm 2020.
Việt Nam đã thực hiện các biện pháp cách ly, theo dõi và hạn chế người đến từ vùng có
dịch, đóng cửa biên giới và triển khai việc thực hiện khai báo y tế. Nhiều hoạt động tập
trung đông người tại các địa phương bị hạn chế, đồng thời nhiều nơi thực hiện các biện
pháp như đo thân nhiệt, trang bị chất sát khuẩn, phát khẩu trang miễn phí ở các nơi cơng
17
cộng, siết chặt kiểm sốt. Việc đi lại, bn bán trong nước cũng bị hạn chế. Trước tình hình
dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ người dân,
giảm thiểu chi phí khám chữa bệnh và xét nghiệm virus. Cũng như hầu hết các quốc gia bị
ảnh hưởng bởi dịch bệnh trên thế giới, Việt Nam đã phải chịu tác động đáng kể lên kinh tế,
xã hội.
Nhiều hoạt động tập trung đông người tại các địa phương bị hạn chế, đồng thời nhiều nơi
thực hiện các biện pháp như đo thân nhiệt, trang bị chất sát khuẩn, phát khẩu trang miễn
phí ở các nơi cơng cộng, siết chặt kiểm sốt nhằm giảm thiểu rủi ro lây nhiễm trong cộng
đồng như lập các chốt chặn giao thơng ở cửa ngõ của mỗi tỉnh; đóng cửa các hàng quán;
thiết lập buồng khử khuẩn; lập tổ chống dịch.
Trước tình hình dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm
hỗ trợ người dân, giảm thiểu chi phí khám chữa bệnh và xét nghiệm virus. Hơn nữa, đối
với các trường hợp bị cách ly, dù là cách ly tập trung hay tại nhà, có nhu cầu khám chữa
bệnh, ngồi chi phí đặc trị cho COVID-19 ra thì tất cả các chi phí cịn lại của người có thẻ
bảo hiểm y tế (BHYT) sẽ được BHXH chi trả 100%. Với khối doanh nghiệp, Chính phủ
cũng có hỗ trợ tài chính đáng kể. Theo đó, điều kiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho doanh
nghiệp là khi số dư nợ gốc và/hoặc lãi phát sinh từ hoạt động cho vay, cho thuê tài chính
hoặc phát sinh từ nghĩa vụ trả nợ gốc trong khoảng thời gian từ 23/01/2020.
Ngày 7 tháng 2 năm 2020, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương công bố đã nuôi cấy và phân
lập thành công virus corona mới SARS-CoV-2 Việt Nam cũng được cho là 1 trong 4 quốc
gia đầu tiên trên thế giới phân lập và nuôi cấy thành cơng chủng virus này. Đầu tháng 4,
nhóm các nhà khoa học tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đã phân lập thành công thêm
một nhánh virus SARS-CoV-2 khác từ những bệnh nhân trở về từ châu Âu.
Phản ứng của người Việt Nam đối với dịch COVID-19 được khen ngợi. Đã có những số
liệu so sánh sự việc với hồi năm 2003 khi dịch SARS xảy ra. Đại sứ Hoa Kì tại Việt
Nam, Daniel Kritenbrink, trong buổi gặp gỡ các cử tri và giới báo chí người Việt hải ngoại
tại Little Saigon ngày 19 tháng 2 đã bày tỏ sự "ấn tượng với mức độ hợp tác của chính phủ
Việt Nam và mức độ minh bạch của chính phủ Việt Nam”, đồng thời ca ngợi Việt Nam vì
các biện pháp nhanh chóng chống lại dịch bệnh.
Giống như hầu hết nền kinh tế trên thế giới, Việt Nam bị ảnh hưởng do sự bùng phát của
dịch bệnh, các ngành công nghiệp tư nhân bị thiếu hụt nguồn nguyên liệu cung ứng và đối
mặt với nguy cơ dừng sản xuất. Dịch COVID-19 còn ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế
bao gồm hàng hải, hậu cần hay các lĩnh vực phân phối, bán lẻ trong nước. Ngành hàng
18
không bị ảnh hưởng nặng nề, nhiều chuyến bay bị hủy bỏ, lượng khách du lịch đến Việt
Nam sụt giảm. Nhiều doanh nghiệp, các hộ kinh doanh gặp khó khăn.. Trước tình hình đó,
lực lượng quản lý thị trường, thanh tra tài chính tăng cường kiểm tra, xử lí nghiêm các
trường hợp tăng giá gây ảnh hưởng tới lợi ích người tiêu dùng.
2.2 Tình hình thị trường chứng khốn Việt Nam trước dịch
Ngày 28/7/2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM chính thức đi vào hoạt động,
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên với 2 mã cổ phiếu REE và SAM.
Năm 2001, TTCK Việt Nam ghi nhận nhà đầu tư nước ngoài đầu tiên được khớp lệnh mua
cổ phiếu.
Năm 2002, TTGDCK chính thức tăng số phiên giao dịch trong một tuần từ 3 phiên lên 5
phiên từ ngày 01/3, đồng thời cho phép các cá nhân và tổ chức được tham gia giao dịch
thỏa thuận nhằm tăng tính thanh khoản, kích cầu và bình ổn thị trường.
Năm 2003, cơng ty quản lý quỹ đầu tiên ra đời tại Việt Nam, Cơng ty Quản lý quỹ đầu tư
chứng khốn VFM - liên doanh giữa Công ty Dragon Capital (chiếm 30% vốn) và Ngân
hàng Sacombank (chiếm 70% vốn).
Năm 2004, Quỹ Đầu tư chứng khốn Việt Nam (VF1) chính thức lên sàn ngày 8/11 với
khối lượng niêm yết 30 triệu đơn vị, tương đương 300 tỷ đồng, trở thành chứng chỉ quỹ
đầu tiên được niêm yết, góp phần đa dạng hóa danh mục cho các nhà đầu tư.
Năm 2005, TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động từ ngày 8/3, bắt đầu bằng
nghiệp vụ đấu giá cổ phần. Cùng thời điểm này, TTGDCK TP.HCM vận hành hệ thống đấu
giá cổ phần. Đến ngày 14/7/2005, TTGDCK Hà Nội mở thêm sàn giao dịch thứ cấp.
Cũng trong năm này, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại doanh nghiệp được nâng từ
30% lên 49% ở nhiều lĩnh vực.
Năm 2006, Luật Chứng khốn được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực từ ngày
01/01/2007.
Vào phiên giao dịch sáng 15/12/2006, lần đầu tiên trong hơn 6 năm hoạt động của TTCK,
toàn bộ hệ thống giao dịch của TTGDCK TP.HCM và CTCK bị tê liệt hoàn toàn chỉ sau
19
vài phút mở cửa. Đây là một dấu hiệu cho thấy, hệ thống giao dịch tại TTGDCK TP.HCM
đã quá tải, đòi hỏi nâng cấp để đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng mở rộng.
Năm 2007, TTGDCK TP. HCM chuyển thành Sở GDCK TP.HCM (HoSE) và chính thức
áp dụng khớp lệnh liên tục từ ngày 30/7 để tạo tính thanh khoản cho thị trường và tăng cơ
hội cho nhà đầu tư.2007 cũng là năm bắt đầu làn sóng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
bao gồm các doanh nghiệp lớn như Tổng công ty Bảo Việt và Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam (Vietcombank).
Năm 2008, UBCKNN đã phải 4 lần điều chỉnh biên độ giá chứng khoán nhằm ổn định
những biến động trên thị trường, mà một trong những ảnh hưởng mạnh mẽ là cuộc khủng
hoảng tài chính tồn cầu nổ ra.Hiện, biên độ giá trên HoSE là +/-7%, trên HNX là +/-10%
và trên UpCOM là +/-15%.
Năm 2009, TTGDCK Hà Nội chính thức hoạt động theo mơ hình Sở GDCK, đồng thời
khai trương vận hành thị trường giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết
(UpCOM) từ ngày 24/6.Cũng trong năm này, HoSE chính thức triển khai giao dịch trực
tuyến từ ngày 12/01 giúp lệnh giao dịch của nhà đầu tư được CTCK truyền thẳng vào hệ
thống của Sở mà không cần qua đại diện sàn.
Năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán đã được Quốc hội
thông qua ngày 24/11.Cùng năm, Sở GDCK Hà Nội (HNX) chính thức thực hiện giao dịch
trực tuyến, cho phép NĐT nhập lệnh trực tiếp vào hệ thống từ ngày 8/02. Sàn UpCOM
cũng kéo dài thời gian giao dịch và thay đổi phương thức giao dịch từ thỏa thuận điện tử và
thỏa thuận thông thường sang khớp lệnh liên tục từ ngày 19/7.
Năm 2011, một loạt tổng công ty nhà nước thực hiện đấu giá cổ phần lần đầu ra công
chúng như Tổng công ty Thép (VNSteel), Tổng công ty Xăng dầu (Petrolimex), Tổng công
ty Miền Trung (Cosevco) và 2 ngân hàng BIDV và MHB, dù bối cảnh thị trường không
thuận lợi.
Năm 2012, ghi nhận nhiều cải tiến trong cơ chế giao dịch được áp dụng, trong đó đáng chú
ý có việc rút thời gian thanh tốn (T+). Từ ngày 04/9, quy trình thanh tốn chứng khốn
được rút ngắn từ 15h chiều ngày T+3 xuống 9h sáng ngày T+3.
Năm 2013, đánh dấu năm tăng trưởng kỷ lục của thị trường trái phiếu với mức tăng 90% so
với năm liền trước, bình qn giao dịch trái phiếu Chính phủ đạt 1.600 tỷ đồng/phiên. Thị
trường trái phiếu đã trở thành kênh huy động và phân bổ vốn cho nền kinh tế. Ngoài ra, sản
20
phẩm quỹ mở cũng bùng nổ trong năm này với hàng loạt quỹ chính thức được thành lập.
Ban đầu là các quỹ đóng thực hiện chuyển đổi sang quỹ mở, tiếp đó là việc ra đời các quỹ
mở chuyên đầu tư vào trái phiếu và các quỹ đầu tư cổ phiếu.
Năm 2014, TTCKVN đón nhận hình thức quỹ hốn đổi danh mục (ETF) nội đầu tiên với
sự ra đời của Quỹ E1VFMVN30 ngày 04/7, mô phỏng chỉ số VN30. Quỹ đã chính thức
giao dịch chứng chỉ tại sàn HoSE từ ngày 06/10 với quy mô ban đầu 202 tỷ đồng. Ngày
14/10, quỹ ETF thứ hai mô phỏng chỉ số HNX30 cũng đã được cấp phép chào bán chứng
chỉ ra công chúng. Thị trường đã có thêm sự lựa chọn cho dịng vốn đầu tư dài hạn ưa thích
chiến lược đầu tư thụ động. Nhà đầu tư nước ngồi cũng có cơ hội gián tiếp đầu tư vào các
cổ phiếu đã hết room thơng qua hình thức quỹ này.
Năm 2015, Chính phủ chính thức cho phép nhà đầu tư nước ngồi được đầu tư không hạn
chế vào các danh nghiệp đại chúng khơng thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Năm 2016, Chỉ số VNX-Allshare chính thức vận hành từ ngày ngày 24/10 và là chỉ số cơ
sở đầu tiên kết nối 2 sàn niêm yết hiện nay (HoSE và HNX), đánh dấu cột mốc quan trọng
trên con đường hướng tới hợp nhất 2 Sở GDCK tại Việt Nam.
Năm 2017, Chính phủ chính thức mở cửa thị trường chứng khốn phái sinh ở Việt Nam từ
ngày 10/8, đánh dấu bước phát triển mới trong q trình hồn thiện cấu trúc thị trường
chứng khoán. 2017 cũng là năm của những thương vụ đấu giá lớn trong đó đáng chú ý Nhà
nước đã thối vốn thành cơng 3,33% cổ phần Vinamilk trị giá gần 9.000 tỷ đồng và
53,59% cổ phần Sabeco trị giá gần 110.000 tỷ đồng …
Năm 2018, đánh dấu sự bùng nổ các thương vụ IPO lớn, nổi bật có Vinhomes (1,35 tỷ
USD), Techcombank (922 triệu USD) và bộ 3 doanh nghiệp dầu khí BSR (5.500 tỷ đồng),
PVOil (4.100 tỷ đồng), PV Power (7.000 tỷ đồng). Chỉ số VN-Index lần đầu tiên tái lập
mốc 1.000 điểm và đạt đỉnh lịch sử 1.200 điểm vào đầu tháng 4. Cũng trong năm,
TTCKVN được Tổ chức tính tốn chỉ số chứng khốn tồn cầu (FTSE) đã đưa vào danh
sách theo dõi nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi.
Năm 2019, đánh dấu lần đầu tiên vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt 100%
GDP. Sản phẩm mới Chứng quyền có đảm bảo (Cover Warrant - CW) được ra đời từ ngày
28/6.Ngày 18/11, HoSE cho ra mắt bộ chỉ số mới Vietnam Diamond Index (VN Diamond),
Vietnam Financial Select Sector Index (VNFin Select) làm tiền đề cho sự ra đời của các
quỹ ETF, qua đó giải quyết bài tốn tại các doanh nghiệp. Cũng trong năm, Luật chứng
khoán (sửa đổi) được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021.
21
2.3 Tác động của dịch Covid-19 đến thị trường chứng khoán Việt Nam
Dịch Covid-19 vẫn từng ngày len lỏi và tác động mạnh mẽ vào cuộc sống của mỗi người
và cả trên thị trường chứng khoán.
Thị trường đỏ lửa
Với tâm lý lo ngại trước diễn biến phức tạp của dịch, nhà đầu tư xả mạnh hàng khiến chỉ số
chính của chứng khoán Việt Nam đồng thời giảm mạnh, nhất là các phiên sau ngày thông
tin diễn biến của dịch ngày càng phức tạp hơn được công bố.
Trong giai đoạn này, các phiên giảm điểm mạnh đã trở thành điều quen thuộc với nhà đầu
tư. Có những phiên VN-Index đánh mất tới gần 56 điểm (6.28%). Tính từ đầu năm tới kết
phiên 20/03, VN-Index mất hơn 26% về mốc 709.73. HNX-Index giảm 0.36% về mức
101.79 điểm. Mức giảm nhẹ này chủ yếu là nhờ SHB tăng mạnh vào cuối tháng 2.
Diễn biến chỉ số và thanh khoản 2 sàn HOSE và HNX
từ đầu năm tới 20/03
(nguồn: VietstockFinance)
22
Vốn hóa thị trường
Từ đầu năm 2020 tới ngày 20/03 bốc hơi 23%, giảm về còn hơn 3.36 triệu tỷ đồng
(tương đương gần 145 tỷ USD).Đà giảm điểm của thị trường thể hiện rõ nhất ở nhóm cổ
phiếu vốn hóa lớn.Kể từ sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán (30/01-20/03), 21 cổ phiếu trong
nhóm VN30 đã giảm hơn 20%. Trong đó, tụt sâu nhất là ROS, với mức giảm gần
72%.Khơng chỉ nhóm VN30 gặp hạn, các cổ phiếu đầu ngành từ hàng không, du lịch,
bán lẻ cho đến bất động sản, xây dựng và thậm chí là nhóm ngành viễn thông công nghệ
hay dược phẩm, tất cả đều đồng loạt giảm.
Thay đổi hành vi khối ngoại
Chuỗi bán ròng của khối ngoại kéo dài kể từ đầu tháng 2. Tính từ phiên 11/02 đến phiên
20/03, khối ngoại đã bán ròng 29 liên tiếp trên HOSE. Tính tổng cộng, khối này bán
ròng hơn 8,443 tỷ đồng trong khoảng thời gian này (bình qn bán rịng 291
tỷđồng/phiên). Diễn biến này tiêu cực hơn hẳn so với cùng kỳ năm 2019. Năm trước,
khối ngoại mua ròng gần 3,800 tỷ đồng với động thái mua bán rịng xen kẽ.
Tác động khơng chỉ là giá cổ phiếu
Bên cạnh những biến động mạnh do yếu tố tâm lý, thị trường chứng khoán, hàn thử
biểu của nền kinh tế, dường như đang thể hiện trước những tác động của dịch Covid -19
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo chia sẻ của ơng Dương Trí Thành - Tổng Giám đốc Vietnam Airlines (HVN)
trong cuộc họp của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp: “Dịch bệnh “kéo
lùi” hàng khơng chậm lại 3-4 năm, tình hình dịch bệnh khiến cho tích lũy của 4-5 năm
trước coi như về 0. Hàng khơng khơng có khách nên phải dừng bay, riêng Vietnam
Airlines có 100 chiếc máy bay và bây giờ 40 máy bay nằm chờ”. Tình hình với hãng
bay này lại nghiêm trọng hơn khi một tiếp viên của hãng đựơc xét nghiệm dương tính
với nCoV (ngày 12/03). Trong thư gửi tồn bộ nhân viên, ơng Thành nhìn nhận đây là
thời điểm khó khăn nhất của mình.
Cịn ở Thế giới Di động (MWG), chuỗi bán lẻ điện thoại đã phải tạm đóng cửa một cửa
hàng ở Đà Nẵng vì nhân viên ở đây có tiếp xúc với khách nước ngồi dương tính virus
nCoV. Trong tháng 2/2020, Dệt may - Đầu tư - Thương mại Thành Công (TCM) báo
doanh thu khoảng 12.7 triệu USD và lợi nhuận sau thuế xấp xỉ 409 ngàn USD, lần lượt
giảm 29% và 63% so với cùng kỳ năm trước. Hay như PNJ ghi nhận doanh thu kênh sỉ
tháng 1 giảm 32% so với cùng kỳ năm 2019 mà trong đó tình hình dịch Covid-19 diễn
23
biến phức tạp dẫn đến nhu cầu mua sắm xa xỉ phẩm giảm, ảnh hưởng đến đầu ra của
khách hàng sỉ của Cơng ty.
Tuy nhiên, vẫn có những doanh nghiệp tận dung được cơ hội kinh doanh trong mùa
dịch. Đầu tư và Thương mại TNG (TNG) báo doanh thu nội địa tháng 2/2020 dù đạt giá
trị tuyệt đối không lớn ở mức 36 tỷ đồng, tăng đến 240%, chủ yếu nhờ các đơn hàng
sản xuất khẩu trang giữa dịch bệnh virus corona.Trong bối cảnh này, kế hoạch kinh
doanh năm 2020 của các doanh nghiệp cũng phải tính đến tác động của dịch bệnh. Một
số doanh nghiệp như: Kim khí Thành phố Hồ Chí Minh - Vnsteel (HMC), Tổng Cơng
ty Đức Giang (MGG) ... coi diễn biến dịch Covid-19 là một yếu tố tác động tới tình
hình
kinh
doanh
của
Cơng
ty
trong
năm.
Bên cạnh những tác động tới hoạt động kinh doanh hay giá cổ phiếu. Ảnh hưởng của
dịch Covid-19 cũng len lỏi vào nhiều hoạt động khác của khối doanh nghiệp niêm yết
như việc tổ chức ĐHĐCĐ hay niêm yết chuyển sàn. Khi việc tránh tụ tập đông người
được khuyến cáo, một số doanh nghiệp đã quyết định dời thời gian họp ĐHĐCĐ. Thêm
vào đó, trước tình hình dịch bệnh cũng như diễn biến thị trường chứng khốn. Có cơng
ty cịn tạm hỗn kế hoạch niêm yết lên sàn chứng khốn. Điển hình như Thủy sản Kiên
Hùng (KHS) hoãn kế hoạch chuyển từ HNX sang HOSE chỉ vì dịch.
So sánh với cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
Mức giảm nhanh hơn. Chỉ số S&P 500 đã giảm 30% trong tháng qua, trong khi thị
trường năm 2008 đã mất tận một năm để đánh mất khoản giá trị này. Mức trượt dốc của
thị trường hiện tại rõ ràng nhanh hơn nhiều so với đợt khủng hoảng tài chính trước đây.
Vẫn chưa chạm đáy. Nhiều nhà đầu tư hiện có xu hướng tập trung vào kịch bản xấu
nhất và tìm ra điểm rơi thấp nhất. Nếu đi theo đúng kịch bản của hơn 10 năm trước, thị
trường sẽ phục hồi trong vòng một năm và kiếm được gấp đơi trong sáu năm tiếp theo.
Đó là nếu thị trường giảm nhanh và cũng phục hồi nhanh.
Hãy thử xem xét giá trị vốn hóa thơng qua hệ số giá trên lợi nhuận cổ phiếu đã được
điều chỉnh theo yếu tố chu kỳ của nền kinh tế (hay còn gọi là hệ số Shiller CAPE). Hệ
số này được tính bằng cách lấy giá chia cho lợi nhuận bình quân 10 năm đã được điều
chỉnh theo lạm phát. Cách tính này thiết thực vì chúng ta vẫn chưa biết được lợi nhuận
của năm 2020 và các CEO có thể đặt giả định các con số của năm nay theo chiều hướng
tiêu cực dựa trên những khoản lỗ mà họ nhận thấy. Kết quả cho thấy hệ số CAPE của
năm nay có thể thấp hơn một năm trước và đây cũng là điều từng xảy ra trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế 2008: hệ số CAPE hiện tại là 22x, trong khi ở giai đoạn 2008, con
số này giảm từ 25x xuống mốc 15x. Rất có thể thị trường vẫn chưa chạm tới mức đáy.
24
Thiếu hụt thông tin. So với năm 2008, khác biệt lớn của thị trường hiện tại nằm ở việc
dữ liệu thị trường vẫn chưa xuất hiện đầy đủ. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang St.Louis
James Bullard ước tính tỷ lệ người thất nghiệp sẽ lên tới 30% trong quý II.2020. Tuy
vậy những ước tính hiện tại chỉ mang tính phỏng đoán và các nhà đầu tư vẫn đang hy
vọng xu hướng giảm của các chỉ số chỉ mang tính tạm thời.
Xu hướng giảm có chủ đích. Trong khi khơng ai mong muốn toàn thị trường đi xuống
trong giai đoạn khủng hoảng 2008, các doanh nghiệp thời Covid-19 hiện tại phải đóng
cửa khơng hẳn vì thiếu nguồn cầu, mà để kiểm soát dịch bệnh. Nếu như hơn 10 năm
trước, thị trường bắt đầu trở nên cảnh giác cao độ với việc cấp nhiều khoản vay đảm
bảo bằng bất động sản cho các cá nhân thì ngày nay, câu hỏi đặt ra là bao giờ các doanh
nghiệp mới thoát khỏi trạng thái "ngủ đông" và quay trở về với hoạt động thường ngày.
2.4 Giải pháp, định hướng
- Mua cổ phiếu quỹ là một trong những yếu tố giúp thị trường dần ổn định nhờ việc
các doanh nghiệp “chi” hàng nghìn tỷ đồng để mua cổ phiếu quỹ đây là một giải
pháp khẩn cấp nhằm cứu giá cổ phiếu và tăng sức chống chọi cho doanh nghiệp
nhằm phòng ngừa nguy cơ bị thâu tóm.
- Cơ quan chức năng đưa ra các gói giảm lãi suất của ngành ngân hàng, việc giảm tiền
thuê đất, thuê mặt bằng, lùi thời gian nộp thuế giá trị gia tăng.
- Các biện pháp kích thích nền kinh tế
o Miễn hoặc giảm các dịch vụ chứng khoán, sẵn sàng giảm nguồn thu để hỗ trợ
thị trường để hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh chứng khoán trong
giai đoạn tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và cung ứng dịch
vụ chứng khoán cho khách hàng của các tổ chức này chịu ảnh hưởng bởi dịch
Covid-19.
o Việt Nam cũng cần tiếp tục và đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, loại bỏ những thủ tục gây chậm trễ, rườm rà, ràng buộc, khơng hình sự
hóa quan hệ kinh tế, giảm bớt thanh tra, kiểm tra, điều tra một số việc không
cần thiết, đồng thời đẩy mạnh tiến độ giải ngân 700 nghìn tỷ đồng đầu tư công
trong năm 2020.
o Chúng ta cũng cần khai thác tốt các cơ hội mới từ các hiệp định thương mại tự
do; cơ cấu lại thị trường xuất khẩu cùng với việc bám chắc hơn nữa thị trường
trong nước. Khuyến khích sản xuất linh kiện, sản phẩm trung gian thay thế
25