Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Ths triết những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.3 KB, 124 trang )

MỞ ĐẦU............................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................8
Chương 1. NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..........................8
1.1. Những mâu thuẫn trong quá trình phát triển LLSX ...................................8
1.2. Vai trò của LLSX đối với sự phát triển nông nghiệp ở nước ta.................29
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN TRONG LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH BẮC
NINH HIỆN NAY.........................................................................................40
2.1. Khái quát về tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh.................................40
2.2. Thực trạng LLSX trong lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh hiện nay........49
2.3. Những mâu thuẫn trong quá trình phát triển của LLSX trong nơng nghiệp ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay......................................................................................63
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT NHỮNG
MÂU THUẪN TRONG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở BẮC NINH HIỆN NAY.......89
3.1. Phát huy nguồn lực con người trong LLSX ở tỉnh Bắc Ninh.....................89
3.2. Phát triển đồng bộ các yếu tố trong tư liệu sản xuất, ứng dụng thành tựu
khoa học vào sản xuất nông nghiệp..................................................................95
3.3. Thường xuyên đổi mới QHSX nhằm tạo sự phù hợp của QHSX với trình
độ của LLSX....................................................................................................98
3.4. Tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh, Đảng bộ, nâng cao hiệu lực quản lý
của Ủy ban nhân dân tỉnh đối với phát triển LLSX ở tỉnh Bắc Ninh.............103
3.5. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi bằng các chính sách phát triển nông
nghiệp và thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước, chuyên gia nước
ngoài để phát triển LLSX trong lĩnh vực nơng nghiệp, khơi dậy tiềm năng vốn
có của tỉnh Bắc Ninh......................................................................................108
KẾT LUẬN....................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................114




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chủ nghĩa xã hội

: CNXH

Công nghiệp hóa

: CNH

Hiện đại hóa

: HĐH

Hợp tác xã

: HTX

Lực lượng sản xuất

: LLSX

Quan hệ sản xuất

: QHSX


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mac – Lênin đã chỉ rằng: Lực lượng sản xuất (LLSX) là
yếu tố quyết định sự phân công lao động xã hội, do đó quyết định quan hệ
giữa các tập đồn về sở hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức lao động xã hội và
phân phối sản phẩm. Sự phát triển của LLSX cũng như việc giải quyết
những mâu thuẫn tồn tại trong q trình phát triển đó chính là nguồn gốc
sâu xa của sự vận động và phát triển của xã hội.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội trong hơn 30 năm đổi mới,
chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của sự phát triển
LLSX. LLSX càng đa dạng, trình độ kinh tế - xã hội càng phát triển, quan hệ
sản xuất (QHSX) càng mở rộng thì tính đa dạng trong quan hệ sở hữu cũng
ngày càng tăng lên. Tuy nhiên trong quá trình phát triển đó cũng nảy sinh
nhiều mâu thuẫn có tác động đến sự phát triển kinh tế nói chung và trong từng
lĩnh vực nói riêng.
Với mục tiêu đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại tiến tới xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội (CNXH) vào
năm 2020, Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách phát triển kinh tế đất
nước trong đó có việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa (CNH) nơng nghiệp, phát
triển nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Đối với
một đất nước mà người dân chủ yếu sống ở khu vực nông thôn, gắn bó với
ruộng đồng, với sản xuất nơng nghiệp thì ngồi việc đẩy mạnh phát triển công
nghiệp, thương mại dịch vụ, việc thực hiện hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn để đưa nông nghiệp là bệ đỡ cho nền kinh tế quốc gia, giải quyết bền
vững an sinh xã hội là điều cần thiết
Là một trong những tỉnh trọng điểm về phát triển kinh tế của cả nước,
trong những năm qua Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp tích


2


cực vào sự phát triển của tỉnh và của cả nước. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của ngành công nghiệp, dịch vụ với nhiều khu công nghiệp quy mô lớn và
hiện đại, sau hơn 20 năm tái lập tỉnh, ngành nơng nghiệp Bắc Ninh cũng đã có
sự tăng trưởng mạnh. Sản xuất nơng nghiệp đã vượt qua khó khăn, nông
nghiệp, nông thôn của tỉnh nhà phát triển ổn định, an ninh lương thực được
đảm bảo. Song có một thực tế đó là đó là nền nơng nghiệp ở đây vẫn nhiều
hạn chế, trong đó có vấn đề về việc phát triển LLSX như: LLSX và QHSX
không phù hợp, vấn đề con người (năng lực sản xuất, trình độ lao động,…), tư
liệu sản xuất còn nghèo nàn lạc hậu,….
Vậy thực trạng nền nông nghiệp ở Bắc Ninh và những phương
hướng, giải pháp nào cần có để giải quyết những mâu thuẫn trong việc phát
triển LLSX ,….Chính vì những lí do trên tơi chọn đề tài :"Những mâu
thuẫn trong q trình phát triển lực lượng sản xuất lĩnh vực nông
nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ, nhằm rèn
luyện năng lực nghiên cứu khoa học của bản thân và đóng góp một phần
nhỏ cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương và đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Những mâu thuẫn trong sự phát triển LLSX là vấn đề quan trọng và
được vận dụng đề nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có lĩnh vực
nơng nghiệp. Trong q tình khảo sát, nghiên cứu, tôi nhận thấy ở nước ta
thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này,
điển hình là một số cơng trình dưới đây:
Nghiên cứu về biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Nguyễn Tĩnh Gia Luận án phó tiến sĩ, (1987).
Nghiên cứu về quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lượng sản xuất trong phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng, Bùi Chí Kiên Luận án phó tiến sĩ, (1996).



3

Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của
lượng sản xuất trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Lạng Sơn, Nông Thị Mồng Luận án tiến sĩ, (2000).
Vấn đề phát triển lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta Vi Thái
Lang, Luận án tiến sĩ, (2002). Trong luận án này tác giả đã chú ý đến những
yêu cầu, điều kiện, phương hướng, giải pháp nhằm phát triển LLSX ở miền
Bắc nước ta.
Nghiên cứu nguồn lực con người trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đồn Văn Khái, Luận án tiến sĩ, (2000). Tác giả đã đi sâu vào
một yếu tố là nguồn lực con người - LLSX cơ bản, quan trọng nhất. Trong
luận án, tác giả đã chỉ ra những hạn chế về những phương hướng, giải pháp
nhằm xây dựng con người phù hợp với u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế nước ta
Ưu tiên phát triển lượng sản xuất , Lê Xn Đình, Tạp chí Cộng sản, số
5 (03/1999). Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên vai trò của sự phát triển
LLSX trong sự phát triển kinh tế ở nước ta.
Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp,
nông thôn sang bước phát triển mới, Lê Huy Ngọ, Tạp chí Cộng sản số 3 (021999). Tác giả đã trực tiếp nêu ra vai trị của khoa học cơng nghệ như một yếu
tố của LLSX với sự phát triển nông nghiệp ở nước ta
Có phải khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp, Nguyễn Cảnh
Hồ, Tạp chí Triết học, số 2 (02/2002). Bài viết đã phân tích cơ sở lý luận lý
giải vai trò của Khoa học trong kết cấu của LLSX trong thời đại ngày nay.
Một số giải pháp đẩy mạnh cơ giới hố sản xuất nơng nghiệp trong
thời kỳ cơng nghiệp hố - hiện đại hố ở nước ta, Bùi Văn Phương .....
Tác phẩm đã cung cấp và hệ thống hoá được lý luận về cơ giới hoá,
thống kê, đánh giá sơ bộ tình hình ứng dụng và những tác động của cơ giới
hố vào sản xuất nơng nghiệp, đồng thời cũng đề ra một số giải pháp để đẩy

mạnh ứng dụng cơ giới hố vào sản xuất nơng nghiệp.


4

Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn, Lê Văn Dương, Tạp chí
Triết học, số 1(01/2002)… Bài viết đã nêu ra những yêu cầu cụ thể nhằm đổi
mới, tạo ra sự phù hợp giữa LLSX và QHSX trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện
tiến bộ công bằng, xã hội ở Việt Nam, Lương Xuân Quỳ, Nxb Chính trị quốc
gia, (2002). Hà Nội.
Nghiên cứu về Bắc Ninh có: Định hướng và giải pháp đầu tư phát triển
kinh tế tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Phương Bắc Luận án tiến sĩ kinh tế của (2001).
Luận án đi sâu về hoạt động đầu tư phát triển, các giải pháp cho đầu tư phát triển
kinh tế trên địa bàn.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh - Thực
trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Nguyễn Sỹ Luận án tiến sĩ kinh tế (2006).
Đi sâu nghiên cứu những vấn đề về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trên
địa bàn Bắc Ninh
Tăng cường huy động vốn đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ
tầng KT - XH tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng, kinh nghiệm
và giải pháp”, Nguyễn Lương Thành Luận án tiến sĩ kinh tế (2006). Đã đưa
ra những cơ sở lý luận và những giải pháp huy động vốn phát triển cơ sở hạ
tầng nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Những giải pháp sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Đức
Tuyên Luận văn Thạc sỹ (1999).
Ngồi những cơng trình trên, tơi nhận thấy cịn nhiều cơng trình khác

cũng nghiên cứu về vấn đề sự phát triển LLSX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Song, cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cấp cụ thể đến những
mâu thuẫn của sự phát triển LLSX trong lĩnh vực nông nghiệp ở Bắc Ninh.


5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu qui luật mâu thuẫn làm cơ sở để tìm hiểu những mâu
thuẫn trong quá trình phát triển LLSX trong lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc
Ninh từ đó nêu ra các giải pháp giải quyết các mâu thuẫn đó để phát triển sản
xuất nơng nghiệp của tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nêu ra những nội dung cơ bản của quy luật mâu thuẫn để làm cơ
sở nghiên cứu những mâu thuẫn trong q trình phát triển của LLSX trong lĩnh
vực nơng nghiệp và phương hướng giải quyết chúng nhằm phát triển LLSX trong
nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay (giai đoạn 2011-2016).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Từ việc trình bày khái qt về quy luật mâu thuẫn đề tài làm rõ những
mâu thuẫn trong q trình phát triển của LLSX nói chung và trong lĩnh vực
nơng nghiệp ở Bắc Ninh hiện nay. Từ đó đề ra những giải pháp giải quyết các
mâu thuẫn nhằm phát triển LLSX trong lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ mục đích trên, nhiệm vụ luận văn được xác định là:
- Trình bày khái quát lí luận chung về quy luật mâu thuẫn và những
mâu thuẫn trong quá trình phát triển của LLSX .
- Nghiên cứu thực trạng và những mâu thuẫn trong quá trình phát triển
của LLSX trong lĩnh vực nơng nghiệp của tỉnh Bắc Ninh.

- Đề xuất các phương hướng giải quyết các mâu thuẫn đó nhằm phát
triển LLSX trong nơng nghiệp của tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn được thực hiện trên được luận giải trên quan điểm triết học


6

Mác - Lênin, đường lối kinh tế của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt
Nam về phát triển kinh tế, và những chủ trương, chính sách của Đảng bộ và
chính quyền tỉnh Bắc Ninh về những vấn đề có liên quan tới đề tài.
Đề tài cịn kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các cơng
trình khoa học, các bài viết đã được cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
CNDVBC và CNDVLS.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống nhất giữa logic và lịch sử,
thống kê…
Từ những phương pháp trên cùng với những kiến thức triết học và kiến
thức khác làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ những mâu thuẫn trong sự phát triển của
LLSX và vận dụng chúng vào việc nghiên cứu quá trình phát triển LLSX
nơng nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các ban
ngành của tỉnh trong việc hoạch định các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát
triển của LLSX ở Bắc Ninh và những người làm công tác nghiên cứu, giảng

dạy bộ triết học Mác - Lênin.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương chính:
Chương I. Những mâu thuẫn trong q trình phát triển lực lượng sản
xuất và vai trị của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển nông nghiệp ở
nước ta hiện nay.


7

Chương II. Những mâu thuẫn trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay
Chương III. Một số giải pháp nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong
phát triển lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp ở Bắc Ninh hiện nay.


8

NỘI DUNG
Chương 1.
NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1.1. Những mâu thuẫn trong quá trình phát triển
LLSX
1.1.1. Lý luận chung về quy luật mâu thuẫn và LLSX .
 Khái quát về quy luật mâu thuẫn
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (gọi tắt là quy
luật mâu thuẫn) là quy luật có vị trí đặc biệt trong số các luật của phép biện

chứng duy vật. Nó chỉ ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Quy luật này là một trong ba quy luật cơ bản của Phép biện
chứng. Trong tác phẩm “ Bút ký Triết học” Lênin đã quan tâm và giải thích một
cách sâu sắc về căn nguyên của sự vận động đó là mâu thuẫn của sự vật và hiện
tượng, là sự đấu tranh của các mặt đối lập. V.I.Lênin đã viết rằng: “Có thể định
nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập nhưng điều đó địi hỏi cần phải có sự giải thích thêm” [72, tr.240]. Ơng cịn
cho rằng quy luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Để làm rõ
quy luật này chúng ta cần hiểu rõ một số định nghĩa dưới đây.
Mặt đối lập: là một phạm trù triết học chỉ những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự
tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật
hiện tượng.
Chẳng hạn như trong nguyên tử có điện âm – điện dương, trong sinh
học có đồng hóa – dị hóa, trong xã hội tư bản có giai cấp tư sản – giai cấp vô


9

sản,…Tuy nhiên đây chỉ là các mặt đối lập được nhìn nhận một cách trực
quan. Theo quan điểm Macxit thì mặt đối lập là các mặt hoàn toàn trái ngược
nhau, cả về bản chất bên trong và hình thức bên ngoài. Trong Sự khốn cùng
của triết học, C.Mác cho rằng, "cái cấu thành bản chất của sự vận động biện
chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh của
hai mặt ấy là sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới". Vậy nên
trong phép biện chứng của triết học Mác tồn tại nhiều cặp phạm trù thể hiện
rõ rệt cho các mặt đối lập như: phạm trù nội dung – hình thức, nội dung là cái
bên trong có xu hướng biến đổi nhanh hơn cịn hình thức là cái bên ngồi có
xu hướng ổn định hơn. Phạm trù tất nhiên – ngẫu nhiên, tất nhiên là cái do

nguyên nhân bên trong, cơ bản của sự vật quy định và vạch ra xu hướng phát
triển tất yếu của sự vật, còn ngẫu nhiên là cái do nguyên nhân bên ngoài tạo ra
cho thấy cái bề ngồi, cái tạm thời thống qua của sự vật. Hiện thực và khả
năng cũng là hai mặt đối lập trong quá trình phát triển của sự vật v.v..
Các mặt đối lập này không tách rời mà nằm trong sự liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau tạo nên mâu thuẫn biện chứng. Tư
tưởng biện chứng giữa các mặt đối lập đã xuất hiện từ rất lâu. Trước khi phép
biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng đó đã đạt được đỉnh cao nhất trong những
học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, như I.Cantơ và đặc
biệt là G.V.Hêgen. Hêgen đã sớm nhận ra tính phổ biến của mâu thuẫn và vai
trị của nó trong q trình vận động và phát triển của thế giới. Mâu thuẫn biện
chứng tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hêgen đã
khẳng định: "tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó",
"Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức
sống" [72, tr.147]. Sau này, tư tưởng này được C. Mac và P.Ăngghen phát
triển lên một tầm cao mới – học thuyết mâu thuẫn trên cơ sở duy vật biện
chứng. Chẳng hạn như nhận thức chưa biết và nhận thức đã biết là hai mặt đối
lập và tạo thành một mâu thuẫn biện chứng, mâu thuẫn biện chứng giữa lao


10

động trừu tượng và lao động cụ thể. Tuy nhiên không phải mâu thuẫn nào
cũng là mâu thuẫn biện chứng, có những mâu thuẫn là mâu thuẫn thơng
thường. Ví dụ như mặt trái – mặt phải của bàn tay hay mặt trên mặt dưới của
một sự vật cụ thể như cái bàn hay cái ghế,….
Các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng và tồn tại trong sự
thống nhất và đấu tranh với nhau. Theo quan điểm của các nhà triết học siêu
hình thì thống nhất là sự giống nhau, bằng nhau; đấu tranh là sự đối địch
nhau, xung đột nhau. Trái ngược với quan điểm này, các nhà triết học biện

chứng định nghĩa như sau:
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại
không tách rời nhau, sự tồn tại của mặt này phải lấy mặt kia làm tiền đề. Sự
thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau. Song
chúng chỉ tồn tại ở một giai đoạn nhất định. Sự thống nhất giữa các mặt đối
lập mang tính tương đối. Chẳng hạn như sự tồn tại của tầng lớp địa chủ và
nông dân trong xã hội phong kiến trong một giai đoạn nhất định. Mặc dù lợi
ích của hai tầng lớp là đối lập nhau, song trong một giai đoạn nhất định họ lại
nương tựa lẫn nhau. Địa chủ là tầng lớp cai trị xã hội, đảm bảo sự trật tự và sự
phát triển của xã hội, tạo điều kiện cho nông dân sản xuất vật chất, trong khi
đó nơng dân là tầng lớp tạo ra giá trị vật chất, duy trì sự tồn tại của tầng lớp
địa chủ cũng như của xã hội.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động qua lại theo xu
hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Hình thức đấu
tranh giữa các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng và tùy vào mối quan
hệ và điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. Sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập mang tính tuyệt đối. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối
lập nhau trong lịch sử là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là biểu hiện rõ
của sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Đến một giai đoạn nhất định khi mâu
thuẫn giữa hai giai cấp đối lập không thể giải quyết được thì tất yếu xảy ra


11

một cuộc đấu tranh.
Như vậy mâu thuẫn chính là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập
Các mặt đối lập tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và
tư duy, vậy nên mâu thuẫn cũng tồn tại khách quan. Mâu thuẫn là cái vốn có,
tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức ý chí con người, khơng quy định ý

thức, ý chí con người.
Mâu thuẫn có trong mọi sự vật hiện tượng bao gồm cả tự nhiên, xã hội
và tư duy con người. Mâu thuẫn cũng tồn tại mọi giai đoạn phát triển khác
nhau của sự vật hiện tượng, và giữa các sự vật hiện tượng khác nhau tạo nên
tính chất phổ biến của chúng.
Mâu thuẫn ở các sự vật khác nhau thì khác nhau, trong lĩnh vực khác
nhau thì khác nhau, ở mỗi vị trí, vai trị khác nhau thì mâu thuẫn cũng khác
nhau, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì chúng cũng khác nhau. Điều này chính là
sự thể hiện rõ rệt tính đa dạng phong phú của mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển
Có nhiều quan điểm về vấn đề này. Những người theo chủ nghĩa duy
tâm tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển không phải ở những mâu
thuẫn nội tại của sự vật, mà ở những lực lượng siêu nhiên hay ở lý trí, ở ý
muốn của con người, của các cá nhân kiệt xuất. Còn những người theo quan
điểm siêu hình, do sự phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong sự
vật hiện tượng nên họ đi tìm sự vận động và phát triển của sự vật ở sự tác
động bên ngoài đối với sự vật. Họ phải nhờ đến “cái hích đầu tiên” như ở
Niutơn hay cầu viện tới Thượng Đế như Arixtốt.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã tìm thấy nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự
đấu tranh giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong sự vật hiện
tượng. Mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự “thống nhất” và “đấu tranh” giữa


12

các mặt đối lập, nó quy định tính ổn định và sự thay đổi của sự vật, hiện
tượng. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập không tách rời nhau
trong quá trình vận động và phát triển các sự vật và là nguồn gốc của sự vận
động và phát triển.

Sự phát triển của xã hội trong lịch sử đã chứng kiến sự bùng nổ của
nhiều cuộc cách mạng xã hội mà nguyên nhân sau xa là sự mâu thuẫn, xung
đột giữa hai mặt đối lập khi một bên là LLSX tiến bộ và một bên là QHSX đã
lạc hậu. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp lao động đại diện
cho LLSX tiến bộ với giai cấp thống trị đại diện cho QHSX đã lạc hậu. Mâu
thuẫn ngày càng phát triển mạnh mẽ và đòi hỏi được giải quyết bằng một
cuộc cách mạng xã hội của giai cấp lao động nhằm lật đổ địa vị của giai cấp
thống trị, thiết lập sự thống trị của giai cấp tiến bộ hơn, mở đường cho sản
xuất phát triển. Và một khi sản xuất phát triển sẽ mở đường cho sự phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt
đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của tác mặt đang tác động và
làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn
bản, theo khuynh hướng trái ngược nhau. Nhưng sau đó sự khác nhau đó càng
phát triển và đi đến đối lập. Khi các mặt đối lập gay gắt đến một điều kiện
nhất định chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau và mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ
đó sự thống nhất cũ được thay thế bởi sự thống nhất mới, sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời. V.I. Lênin đã viết: “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập” [8, tr.379]. Tuy nhiên khơng có thống nhất thì khơng có sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
là không thể tách rời trong mâu thuẫn biện chứng. Vậy nên mâu thuẫn chính
là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Lực lượng sản xuất
Định nghĩa về lực lượng sản xuất


13

Là một trong ba yếu tố cơ bản của một Hình thái kinh tế - xã hội,
LLSX là nền tảng kỹ thuật, vật chất, quyết định các mặt còn lại của hình thái

đó. QHSX được hình thành trên cơ sở các LLSX làm thành phương thức sản
xuất, là hình thức của phương thức sản xuất. Mặt khác, QHSX còn là cơ sở
cho kiến trúc thượng tầng. Sự kết hợp của các yếu tố này tạo thành “bộ
xương” cho cơ thể xã hội. Điều đó đã cho thấy được tầm quan trọng của
LLSX trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Rõ ràng rằng để sống và phát triển, con người phải liên hệ với tự nhiên và
với nhau để sản xuất ra của cải vật chất. Trong đó quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong sản xuất được biểu hiện là LLSX , còn quan hệ giữa con người với
con người được biểu hiện là QHSX. Trong đó vai trò quyết định thuộc về LLSX
của xã hội, bởi lẽ “ Tổng thể những LLSX mà con người đã đạt được quyết định
trạng thái xã hội” [8, tr.42]. Nghĩa là, cái quyết định trong sự tồn tại và sự phát
triển của một xã hội là các LLSX và sự phát triển của chính các LLSX ấy. Vậy
LLSX là gì? Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về vấn đề này như thế nào?
LLSX là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với việc vận dụng
phép biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề lịch sử đã làm cho và
Ph.Ăngghen tiến xa vượt bậc so với các nhà tư tưởng trước đó.
Thuật ngữ “ Lực lượng sản xuất” lần đầu được C.Mác trình bày trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” và được phát triển làm rõ thêm ở các tác phẩm:
“Sự khốn cùng của Triết học”, “Lao động là thuê và tư bản”, “Tiền công, giá
cả và lợi nhuận” và nhất là trong “Bộ tư bản”. Theo đó LLSX được hiểu là
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là kết quả của năng lực thực tiễn
của con người
LLSX là cái kết quả, là cái đã đạt được bởi con người, là sản phẩm
thông qua q trình hoạt động của con người chứ khơng phải là cái mà tự
nhiên sẵn có. C.Mác đã chỉ ra rằng: “….bằng hoạt động của chính mình con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự


14


nhiên” [9, tr.266]. Con người thông qua lao động tác động vào tự nhiên, biến
đối tự nhiên tạo ra của cải phục vụ nhu cầu của bản thân.
LLSX được gom góp chuyển giao qua các thời kỳ, từ thế hệ này sang
thế hệ khác, từ xã hội này qua xã hội khác.Nó mang tính xã hội bởi nó vừa do
các thế hệ nối tiếp tạo ra, vừa do các cá nhân trong mỗi giai đoạn xã hội bảo
tồn và không ngừng phát triển lên. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau
trình độ phát triển của lực lượng xã hội thay đổi và biểu hiện rõ nhất ở công
cụ lao động. Đến lượt nó, trình độ cơng cụ lao động biểu hiện ở phân công lao
động, năng suất lao động. Năng suất lao động là thước đo trình độ của lực
luợng sản xuất.
Kết cấu của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động, tư liệu sản xuất. Cùng
với sự phát triển vượt bậc của xã hội, khoa học dần trở thành yếu tố trực
tiếp LLSX.
Người lao động – yếu tố đầu tiên chủ yếu của mọi q trình sản xuất.
V.I.Lênin nói: “lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là
cơng nhân, là người lao động” [71, tr.38-430]. Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ
khơng có bất cứ tác dụng nào nếu khơng có một lực lượng xã hội để tiến hành
sản xuất vật chất. Tư liệu sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa nếu khơng có sự tác
động của con người. Điều này đã được C.Mác khẳng định như sau: “Một cái
máy không dùng vào quá trình lao động chỉ là một cái máy vơ ích. Ngồi ra, nó
cịn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của tự nhiên. Sắt thì
han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi khơng dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số bơng bị
hỏng” [8, tr.269]. Chỉ có con người và xã hội lồi người mới có sản xuất.
Ở người lao động có nhu cầu sinh sống tự nhiên, nhu cầu thúc đẩy hoạt
động. Quan niệm duy vật lịch sử chỉ ra rằng “ Cái sự thật hiển nhiên là trước
hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc…”. Chính từ những nhu cầu hàng
ngày mà con người mới bắt đầu lao động, tác động vào tự nhiên để tạo ra sản



15

phẩm nhằm thỏa mãn những nhu cầu của bản thân và xã hội. Những nhu cầu
này, sau khi nảy sinh sẽ trở thành động cơ thúc đẩy toàn bộ sự hoạt động
chung của con người nhằm tìm ra những phương tiện thỏa mãn nhu cầu đó.
Và sự xuất hiện của những nhu cầu đó là một q trình liên tục và thường
xuyên, vậy nên nhu cầu không chỉ là động cơ kích thích mạnh mẽ sự phát
triển của sản xuất mà cịn thúc đẩy tồn bộ hoạt động nói chung của con
người. Như vậy động cơ lao động chính là yếu tố đầu tiên của người lao động.
Bên cạnh đó ở người lao động cịn có sức lao động, đó là những sức
thần kinh, sức cơ bắp mà con người vận dụng để tạo ra, sử dụng và điều khiển
các loại công cụ lao động đem lại hiệu quả cao trong sản xuất vật chất. C.Mác
gọi cụ thể là có “đầu óc và đơi bàn tay”, những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng
hợp của người lao động. Ngoài việc sử dụng những cơng cụ lao động có sẵn,
con người đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở thành một khí quan
hoạt động của con người. Nhờ đó, con người đã tăng thêm sức mạnh của các
khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Khơng chỉ tạo ra các cơng cụ lao động,
con người cịn ln biết cải tạo đối tượng lao động. Từ những dụng cụ lao
động thô sơ bằng đá, bằng đồng con người đã tạo ra những dụng cụ lao động
tiên tiến hơn để cải thiện năng suất lao động. Nhờ có sức lao động, có trí tuệ
mà con người đã tạo ra những sản phẩm đáng kinh ngạc như ngày nay.
Và một nhân tố khơng thể thiếu ở người lao động chính là tri thức, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động phù hợp với người lao động. C.Mác viết: “Chúng
tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và
được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào
đó”. [11, tr215]. Kế thừa tư tưởng của C.Mác về vai trò quyết định của người
lao động trong các yếu tố cấu thành LLSX, V.I. Lênin còn khẳng định sự vượt
trội của con người so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất: “Trong khi
vật chất có thể bị phá hủy hồn tồn thì các kĩ năng của con người như cơng



16

nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ cịn mãi” [71, tr.30]. Những
nhân tố này góp phần quan trọng vào việc con người tạo ra năng suất lao động
như thế nào. Đó là sự hiểu biết về đối tượng lao động, những tính năng và tác
dụng của công cụ lao động, môi trường, là sự thành thạo ít hay nhiều trong
việc sự dụng công cụ lao động, khả năng cải tiến công cụ,…..
Tất cả những nhân tố trên kết hợp và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
làm thành yếu tố người lao động.
Tư liệu sản xuất – yếu tố cần có của mọi q trình sản xuất, bao gồm
các nhân tố: tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Trong tư liệu lao động, công cụ lao động là vật hay hệ thống những vật
được con người đặt giữa mình với đối tượng lao động để truyền những tác
động của người lao động lên đối tượng nhằm biến đổi chúng thành những sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu của bản thân và của xã hội. Công cụ lao động được
coi là cánh tay, là hệ thần kinh thứ hai của con người. Nó kéo dài và tăng
cường những sức mạnh và khí quan của con người. C.Mác đã viết: “ Một vật
do bản thân tự nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự hoạt động của
con người, khí quan mà con người đem chắp vá vào những khí quan của cơ
thể mình, và do đó kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ thể” C.Mác –
Ăngghen toàn tập, tập 23, (tr268).
Trong tư liệu lao động ngồi cơng cụ lao động cịn có những phương
tiện vật liệu khác dùng để tăng cường, hỗ trợ cho tác động của cơng cụ lên đối
tượng. Trình độ cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế với nhau. C.Mác viết
: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì
mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”
(C.Mác – Ăngghen toàn tập, tập 23, tr369). Cơng cụ lao động giúp hiện thực

hóa cái trừu tượng của tư duy con người. Sức mạnh vật chất bao giờ cũng là
sức mạnh hiện thực. Khi công cụ sản xuất thay đổi, hoàn thiện và phát triển


17

thì kỹ năng và kinh nghiệm của con người cũng thay đổi và ngày càng được
nâng cao.
Lịch sử phát triển của loài ngươi được đánh dấu bằng những mốc quan
trọng của sự phát triển của LLSX, mà trước hết là ở công cụ lao động. Từ
những công cụ lao động thô sơ bằng đá, bằng đồng thời Trung cổ, đến những
cơng cụ máy móc hiện đại bằng điện, hơi nước thời cận đại và những thiết bị
tự động như ngày nay đã phần nào chứng tỏ được tầm quan trọng của sự phát
triển cơng cụ lao động nói riêng đối với sự phát triển của xã hội và loài người.
Nhờ sự tiến bộ vượt bậc ấy mà người lao động đã dần tách khỏi q trình sản
xuất trực tiếp, đóng vai trò kiểm tra và điều hành.
Bên cạnh tư liệu lao động thì đối tượng lao động cũng giữ vai trị quan
trọng và khơng thể thiếu trong q trình sản xuất vật chất.
Đối tượng lao động là toàn bộ những khách thể tự nhiên (quặng dưới
lòng đất, gỗ trong rừng,….) hoặc những vật liệu tự nhiên đã được con người
biến đổi nhưng chưa thành sản phẩm (xi măng, cốt thép, vải vóc,.…). Những
khách thể và vật liệu này có thể đáp ứng nhu cầu của con người và chịu sự tác
động của con người. C.Mác đã viết:
Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu khơng có giới tự nhiên,
nếu khơng có thế giới hữu hình bên ngồi. Đó là vật liệu trong đó lao động
của anh ta được thực hiện, trong đó lao động của anh ta được triển khai, từ đó
và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm [10, tr.130].
Tuy vậy cần nhận thức rõ rằng không phải mọi dạng vật chất có sẵn
trong tự nhiên đều là đối tượng lao động, mà chỉ có những dạng vật chất có
con người, được con người khai thác, cải tạo thì chúng mới trở thành đối

tượng lao động. Mọi nguyên liệu đều là đối tượng của lao động nhưng không
phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu. C.Mác nói: “Mọi nguyên liệu
đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là
nguyên liệu. Đối tượng lao động chỉ trở thành nguyên liệu khi đã trải qua một


18

sự biến đổi nào đó do lao động gây ra”.
Ngồi ra trong tư liệu lao động cịn có phương tiện sản xuất, kết cấu hạ
tầng như: hệ thống dịch vụ, đường xá, nhà kho, bến bãi,…Những nhân tố này
không trực tiếp tạo ra sản phẩm. Song chúng lại có ảnh hưởng đến giá trị sản
phẩm, đến sản xuất, nó là yếu tố nội sinh của q trình sản xuất góp phần tạo
ra giá trị mới.
Tri thức khoa học là cũng là yếu tố trực tiếp của LLSX, nó trực tiếp
tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm vật chất. Đặc biệt, tri thức khoa học
giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất trong thời đại ngày nay.
Nếu như trước đây việc ứng dụng và sáng tạo những thành tựu khoa
học không được sử dụng nhiều trong sản xuất thì giờ đây nó là yếu tố cần thiết
giúp tăng năng suất lao động, tăng giá trị sản phẩm và giảm bớt sức lao động.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng” C.Mác cũng đã dự đoán về sự phát triển của khoa
học và rằng nó sẽ trở thành “Lực lượng sản xuất trực tiếp”. Và C.Mác đã chỉ rõ
điều kiện để khoa học trở thành “Lực lượng sản xuất trực tiếp”:
Những lực lượng tự nhiên như hơi nước, nước,….được áp dụng vào
q trình sản xuất cũng khơng tốn kém gì cả. Nhưng con người cần có phổi để
thở thì tư bản cũng cần có “một sản phẩm của bàn tay con người”, …Cần phải
có một cái xe nước để có thể lợi dụng sức đẩy của nước, cần phải có một cái
máy hơi nước để có thể lợi dụng được tính đàn hồi của hơi nước. Đối với
khoa học thì cũng giống như đối với các lực lượng tự nhiên [9, tr.152] Và
những dự đoán thiên tài của C.Mác đã trở thành hiện thực. Tri thức khoa học

là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, những đến lượt nó lại
có tác động mạnh mẽ đối với hoạt động sản xuất. Khoa học trong thời đại
ngày nay đã góp phần rút ngắn q trình sản xuất vật chất. Sự phát triển của
khoa học đã tạo điều kiện cho các nước có thể đi tắt đón đấu và tạo ra những
bứt phá trong quá trình sản xuất. Mặc dù vậy khoa học không phải là yếu tố
quyết định của lực lượng suất bởi vì cơng nghệ khoa học chỉ làm tăng thêm


19

khả năng chinh phục của con người, giúp con người ngày càng tạo ra nhiều
sản phẩm với giá trị cao, nhưng nó khơng hồn tồn thay thế được hoạt động
sản xuất của con người.
Có thể thấy mỗi yếu tố của LLSX giữ vai trò nhất định và quan trọng
trong quá trình sản xuất. Song chúng khơng tách rời mà có quan hệ chặt chẽ
và tác động qua lại, hỗ trợ nhau. Chính vì thế mà LLSX ln lớn mạnh và trở
thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất của mỗi hình thái kinh tế xã hội.
1.1.2. Những mâu thuẫn trong quá trình phát triển của lực lượng
sản xuất.
Như đã phân tích, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của quá trình
phát triển. Vậy nên trong quá trình phát triển của LLSX không thể không tồn
tại các mâu thuẫn. Các mâu thuẫn đó là:
Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX.
Để tiến hành sản xuất, con người không chỉ quan hệ với tự nhiên mà
còn phải quan hệ với nhau. QHSX là quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ của LLSX. Quy luật này đã chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu
khách quan của QHSX vào LLSX và sự tác động trở lại của QHSX đối
với LLSX. Quy luật này là nguyên nhân cơ bản cho sự hình thành và phát

triển ổn định của một hình thái kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử
nhất định.
Quá trình phát triển của LLSX diễn ra một cách tự nhiên và là yếu tố
quan trọng của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Sự phát triển của LLSX kéo theo
sự thay đổi của QHSX và do đó thay đổi toàn bộ cơ cấu xã hội, xã hội mới ra
đời thay thế cho xã hội cũ.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của xã hội luôn nảy sinh những
mâu thuẫn và mâu thuẫn chủ yếu trong quá trình phát triển LLSX chính là


20

mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX.
QHSX do con người tạo ra song nó tồn tại một cách khách quan,
khơng phụ thuộc vào ý thức của con người. QHSX được cấu thành bởi ba mặt
đó là quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức phân công lao
động và quan hệ về phân phối sản phẩm. Ba mặt của QHSX có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất có vai trị quyết
định đối với các mặt cịn lại. Là kết quả tất yếu của phân cơng lao động,
QHSX là biểu hiện tập trung của phương thức sản xuất, giúp phân biệt hình
thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác.
LLSX và QHSX hợp thành phương thức sản xuất của một xã hội nhất
định. Chúng tác động lẫn nhau một cách biện chứng và quy định vai trò quyết
định của phương thức sản xuất đối với sự hình thành và phát triển của những
cơ cấu xã hội. Chính vì vậy mà mối liên hệ này được gọi là quy luật về sự phù
hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật chỉ ra sự quyết
định của LLSX đối với QHSX và sự phụ thuộc tất yếu khách quan của QHSX
vào LLSX.
Trong một phương thức sản xuất, LLSX giữ vai trị nội dung bởi nó
tổng hợp các yếu tố cấu thành nên quá trình sản xuất vật chất là người lao

động, cơng cụ lao động. Cịn QHSX là hình thức, tổ chức của quá trình sản
xuất. Nội dung quyết định hình thức, nội dung là yếu tố có xu hướng biến đổi
năng động hơn so với hình thức có xu hướng ổn định hơn. Chính điều này đã
tạo nên những mâu thuẫn nhất định trong quá trình sản xuất vật chất.
Khi LLSX phát triển sẽ tác động đến rất nhiều yếu tố của quá trình sản
xuất vật chất. LLSX phát triển quyết định đến sự phân công lao động trong
xã hội. Trong quá trình lao động, do kỹ năng và kinh nghiệm của con người
khơng ngừng được tích lũy vậy nên con người không ngừng cải tiến công cụ
lao động làm cho lực lượng lao động cũng không ngừng thay đổi và phát
triển, trình độ lao động thay đổi dẫn đến những thay đổi trong quan hệ lao


21

động, tính chất lao động. Do đó, nó cũng quyết định đến quan hệ giữa các
tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất, thơng qua đó quyết định quá
trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Trong xã hội phong
kiến, khi LLSX còn chưa phát triển, cơng cụ cụ lao động mang tính thủ
công, người lao động ở đây là người nông dân và tư liệu sản xuất chủ yếu là
ruộng đất thì trong xã hội hình thành mối quan hệ giữa địa chủ và nông dân,
với quan hệ sở hữu tư nhân của địa chủ, quan hệ phân phối tổ chức quản lý
cũng thuộc về địa chủ. Khi LLSX phát triển, công cụ lao động phát triển với
sự ra đời của các loại máy móc,cơ khí, người lao động là cơng nhân, tư liệu
sản xuất không dừng lại ở ruộng đất nữa mà cịn là nhà máy, cơng xưởng,…
Nhưng lúc này các quan hệ trong xã hội không thay đổi hoặc thay đổi chậm,
lợi ích giai cấp vẫn cịn tồn tại,…Chính những điều này đã làm kìm hãm sản
xuất, lợi ích các tầng lớp không phù hợp tạo nên mâu thuẫn trong xã hội
giữa LLSX tiến bộ và QHSX cũ, lạc hậu. Vậy nên LLSX luôn là yếu tố
động, yếu tố cách mạng của phương thức sản xuất. Trong khi đó QHSX lại
có khuynh hướng bảo thủ và chậm thay đổi hơn. Và nếu như quan hệ xã hội

đó phù hợp với trình độ phát triển nhất định của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy
LLSX phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm lực lượng phát triển. Chính điều
này sẽ tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa LLSX và QHSX trong một phương
thức sản xuất. Mâu thuẫn phát triển đến một mức gay gắt thì tất yếu xảy ra
đó là phải xóa bỏ những xiềng xích trói buộc, thay thế những quan hệ xã hội
cũ lạc hậu bằng một QHSX tiến bộ hơn phù hợp với trình độ và tính chất của
lực lượng lao động. Qúa trình này chính là sự thay thế một phương thức sản
xuất mới trong xã hội. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” C.Mác đã viết “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
LLSX vật chất của xã hội mâu thuẫn với quan hệ xã hội hội hiện có…trong
đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức
phát triển của LLSX, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các


22

LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Nội dung quyết
định hình thức song hình thức cũng tác động ngược trở lại nội dung. Có
nghĩa là QHSX tác động trở lại LLSX. Điều này được C.Mác đề cập đến
trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức”, Ơng viết: “Hình thức giá trị cái mà
trong tất cả các giai đoạn lịch sử từ trước tới nay đều bị quyết định bởi
LLSX và đến lượt nó lại quyết định LLSX”.
QHSX là mặt không thể thiếu của một phương thức sản xuất. LLSX
không thể tồn tại và phát triển ở bên ngồi QHSX vì nó là hình thức tất nhiên
của phương thức sản xuất. LLSX muốn phát triển cần thiết phải có sự thay
đổi động cơ hoạt động của con người. Động cơ hoạt động của người lao động
xuất phát từ những nhu cầu của con người về cả vật chất và tinh thần, những
nhu cầu nay lại được quyết định bởi quan hệ phân phối sản phẩm trong xã
hội. Chẳng hạn sự phân phối sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của
người lao động, con người sẽ có những phương pháp để tạo ra nhiều sản

phẩm hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Và để tạo ra nhiều sản phẩm
con người bắt đầu cải tiến công cụ lao động, phát triển các đối tượng lao
động,….nhằm tăng năng suất lao động tạo ra nhiều của cải vật chất phù hợp
với nhu cầu của bản thân và xã hội. Nói một cách khác thì QHSX tạo “địa
bàn” cho LLSX phát triển.
Sự tác động của QHSX đối với QHSX còn thể hiện ở chỗ: quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất sẽ thuộc vào tầng lớp nào, ai là người quản lý tổ chức
xã hội và phân phối sản phẩm xã hội diễn rã như thế nào. Nghĩa là QHSX xác
định mục đích xã hội của nền sản xuất, tức là sản xuất được tiến hành vì lợi
ích của tập đồn xã hội nào, tổ chức sản xuất vì lợi ích nào và phân phối sản
phẩm có lợi cho ai. Sự tác động này sẽ diễn ra theo hai xu hướng: nếu nó
phù hợp với LLSX thì nó sẽ mở đường cho LLSX phát triển, và nếu nó
khơng phù hợp thì nó sẽ kìm hãm LLSX phát triển.
Có thể thấy rằng QHSX có tác động rất lớn đến LLSX. Muốn cho


×