Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Ths CTH đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của đảng ở đảng bộ khối các cơ quan trung ương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.94 KB, 113 trang )

MỤC LỤC
TÓM TẮT LUẬN VĂN………………………………………………….116


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạch định cương lĩnh, đường lối, quan điểm, truyền bá và hiện thực
hóa cương lĩnh, đường lối, quan điểm là sứ mệnh quan trọng của bất kỳ Đảng
chính trị, Đảng cầm quyền nào. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực
hiện cương lĩnh, đường lối, quan điểm thì việc truyền bá, đa dạng hóa và đổi
mới hình thức truyền bá là rất quan trọng. Vì vậy, trong quá trình thực hiện
chức năng lãnh đạo và cầm quyền của Đảng chính trị, các Đảng cầm quyền
rất quan tâm đến việc đổi mới, đa dạng hóa hình thức tun truyền, phố biến
cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của mình trong xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền đồng thời cũng là chính
đảng duy nhất được phép hoạt động trên đất nước Việt Nam. Đảng lãnh đạo
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội bằng Cương
lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chủ trương… Tám mươi bảy năm qua,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành 12 lần Đại hội. Trong mỗi kỳ Đại hội
và giữa hai kỳ Đại hội, Đảng ta ban hành nhiều nghị quyết trên cơ sở yêu cầu
phát triển của cách mạng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể và trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để hiện thực hố nghị
quyết, đưa những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến
được với cán bộ, đảng viên và nhân dân, cần phải tiến hành tổ chức học tập,
quán triệt và triển khai thực hiện đưa nghị quyết vào cuộc sống.
Trong thời gian qua, việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của
Đảng đã có nhiều đổi mới, có nhiều hình thức mới, nhưng hình thức truyền
thống và phổ biến nhất là tổ chức dưới hình thức hội nghị, lớp học. Việc đổi
mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là yêu cầu


được đặt đi đặt lại nhiều lần, nhất là trong những năm gần đây. Hình thức tổ
chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan


3

Trung ương tuy đã có những bước đổi mới nhất định, có một số tiến bộ nhưng
cũng có nhiều mặt hạn chế, cần được khắc phục, những đổi mới ấy chưa thật
sự đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn. Một số cấp ủy đảng trong Đảng
bộ Khối tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng
viên trong cơ quan, đơn vị còn chưa thực sự nghiêm túc; chất lượng học tập
chưa cao; nội dung, hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
ở cơ sở chưa sát hợp với thực tế, việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của
Đảng vào nhiệm vụ chuyên môn của bộ, ngành, cơ quan, đơn vị mình còn
thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa tập trung đi sâu giải quyết những tồn tại,
hạn chế, yếu kém của chính đảng bộ và trong mỗi cơ quan, đơn vị; nhiều đảng
viên còn vắng mặt và coi nhẹ việc nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết
của Đảng; chất lượng đội ngũ báo cáo viên chưa đáp ứng được u cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới; cơng tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị
quyết của Đảng chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ, có nơi, có lúc còn buông
lỏng. Khâu yếu nhất hiện nay là việc tổ chức học tập, quán triệt, triển khai
thực hiện, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc suống. Một trong những nguyên
nhân của tình hình này là chưa thực sự đổi mới hình thức tổ chức học tập,
quán triệt nghị quyết của Đảng.
Chính vì lý do trên nên tác giả chọn đề tài: “Đổi mới hình thức tổ chức
học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung
ương hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành
Quản lý hoạt động tư tưởng - văn hóa.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay, đã có nhiều cơng trình, tài liệu, sách báo của nhiều tác giả

nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau liên quan đến nội dung của đề tài. Các
cơng trình, tài liệu liên quan đến đề tài của luận văn có thể chia làm ba nhóm
như sau:


4

2.1. Những cơng trình nghiên cứu về học tập, qn triệt và triển khai
thực hiện nghị quyết của Đảng
Các tài liệu gồm: Bài báo “Nghiên cứu, học tập nghị quyết Đảng thiết
thực, hiệu quả”, Phùng Hữu Phú, Báo Nhân dân số ra ngày 26/5/1999; “Nâng
cao chất lượng nghiên cứu quán triệt nghị quyết của Đảng - một yêu cầu
quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay”, Lê Thế Đạt, Kỷ yếu Hội
nghị Công tác tư tưởng - văn hố tồn quốc, Ban Tư tưởng - Văn hố Trung
ương, năm 2005; “Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa việc tổ chức nghiên cứu, quán
triệt nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương trong cán bộ, đảng viên và tuyên
truyền trong nhân dân”TS. Nguyễn Viết Thơng, Tạp chí Thơng tin cơng tác
tư tưởng, lý luận, 2005; Đề án “Đổi mới nội dung chương trình và phương
pháp bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên của cấp ủy đảng hiện
nay” TS. Ngô Văn Thạo, 3/2007; “Giải pháp nâng cao chất lượng học tập,
quán triệt nghị quyết của Đảng”, Vy Tư Liệu, Tạp chí Xây dựng Đảng,
5/2013; “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng đối với
cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” TS Nguyễn
Quốc Tuấn, Nxb Lý luận chính trị, 2004; Chương trình bồi dưỡng chun đề
Cơng tác tun truyền miệng và báo cáo viên, Ban Tuyên giáo Trung ương,
Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2008; Tăng cường đổi mới công tác
báo cáo viên, tuyên truyền miệng đáp ứng yêu cầu tình hình mới, Bùi Thế
Đức, Tạp chí Tuyên giáo số 1/2014; “Tiếp tục đổi mới công tác tuyên giáo
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Mai Văn
Ninh, Tạp chí Báo cáo viên số tháng 02/2016.

Các tài liệu trên đã đề cập một số vấn đề lý luận về học tập, quán triệt
và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng; thực trạng của việc học tập, quán
triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng; có đi sâu nghiên cứu, phân
tích cơ sở lý luận về công tác tuyên giáo, công tác tuyên truyền, về báo cáo
viên, về công tác tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng để đưa ra


5

các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức học tập, quán triệt và triển
khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong tình hình mới.
2.2. Những cơng trình nghiên cứu về hình thức tổ chức học tập,
quán triệt nghị quyết của Đảng
Các tài liệu: “Những hình thức và biện pháp nâng cao chất lượng
nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng”, PGS.TS Lê Hữu
Nghĩa, Tạp chí Cộng sản 2001; Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hình thức,
phương pháp, tuyên truyền, giáo dục, học tập, quán triệt nghị quyết của
Đảng, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Công ty in Tiến Bộ Hà Nội,
2005; Đề án “Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp bồi dưỡng
nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên của cấp ủy đảng hiện nay”, TS. Ngô
Văn Thạo, 3/2007; “Xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương Đảng - Thực trạng và giải pháp” PGS. TS Đàm
Đức Vượng (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, 2008; “Một số vấn đề đổi
mới nội dung, phương thức cơng tác tun giáo trong tình hình mới”, PGS.
TS. Phạm Văn Linh, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2016; “Một vài suy
nghĩ về việc tổ chức học tập nghị quyết của Đảng qua truyền hình trực
tiếp”, Bảo Ngọc, Tạp chí Báo cáo viên số tháng 9 năm 2016.
Trên đây là một số cơng trình nghiên cứu cơng phu về hình thức,
phương pháp học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, về xây dựng và tổ
chức thực hiện các nghị quyết của Trung ương. Các cơng trình đưa ra

được một số giải pháp nâng cao chất lượng học tập, quán triệt nghị quyết
của Đảng, gaiir pháp về xây dựng, thể chế hóa và tổ chức thực hiện các
nghị quyết của Trung ương. Có tài liệu nhằm làm rõ một số vấn đề lý
luận, đánh giá thực trạng triển khai nội dung, phương thức công tác tuyên
giáo thời gian qua, đồng thời có những giải pháp định hướng việc đổi mới
công tác này trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.


6

2.3. Những cơng trình nghiên cứu về Đảng ủy Khối các cơ quan
Trung ương và học tập, quán triệt nghị quyết ở Đảng bộ Khối
Các tài liệu: Đề án “Xây dựng tài liệu bồi dưỡng cơng tác Đảng cho bí
thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan Trung
ương”, 2012; Đề án “Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới công tác nghiên
cứu, học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong
Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương”, 2012; chuyên đề “Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ Khối các cơ quan
Trung ương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, TS. Trần Hồng
Hà, Hội thảo khoa học “Nâng cao năng lực, hiệu quả tham mưu trong công
tác triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tại các cơ quan Đảng
Trung ương”, 11/2011; Đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động các loại hình
tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan
Trung ương và Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương”, TS Trần Hồng Hà
12/2013; cuốn tài liệu Tọa đàm “Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác học
tập, quán triệt các nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung
ương”, 7/2016; tài liệu “Bồi dưỡng nghiệp vụ cơng tác đảng cho bí thư chi bộ
và cấp ủy viên cơ sở” Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, Nxb Chính trị
Quốc gia, 2015; cuốn tài liệu tọa đàm khoa học “Đổi mới phương thức lãnh
đạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của Đảng bộ Khối các cơ quan

Trung ương”, 2/2017.
Các tài liệu trên đã nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến chất
lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên trong
Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương; đề cập đến một trong những nội dung
cốt lõi của công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới trong đó có cơng tác
tổ chức học tập, quán triệt, phổ biến nghị quyết Đảng và đề xuất một số giải
pháp cơ bản vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa định hướng giải quyết
vấn đề lâu dài ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương.


7

2.4. Nhận định về những thành tựu của các công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài luận văn và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Nhìn chung, các cơng trình trên đều đưa ra hệ thống cơ sở lý luận, cơ
sở thực tiễn và hệ thống một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
tuyên giáo, trong đó có cơng tác tổ chức học tập, qn triệt các nghị quyết của
Đảng. Một số các cơng trình đưa ra hệ thống các nghiệp vụ, kỹ năng để áp
dụng cho cán bộ, đảng viên, cho báo cáo viên, giảng viên dạy lý luận chính
trị; đưa ra các phương hướng, giải pháp để xây dựng và tổ chức thực hiện
nghị quyết, đổi mới nội dung, phương thức công tác tun giáo...
Có thể nói đã có cơng trình, đề tài nghiên cứu về đổi mới nội dung,
phương thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng; song chưa có đề
tài nào đi sâu nghiên cứu cụ thể việc đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán
triệt nghị quyết của Đảng cho cán bộ, đảng viên. Chính vì thế, tác giả chọn đề
tài “Đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở
Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương hiện nay” để nghiên cứu, tìm hiểu
thực trạng tình hình tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng
bộ Khối, với mong muốn tìm ra phương hướng và giải pháp đổi mới các hình
thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng đáp ứng yêu cầu tình

hình mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thức tổ chức học
tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, đề xuất một số quan điểm, giải pháp
nhằm đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở
Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận của việc đổi mới hình thức tổ chức học
tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương.


8

- Đánh giá thực trạng và khái quát những vấn đề đặt ra trong việc đổi
mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ
Khối các cơ quan Trung ương hiện nay.
- Đề xuất và luận giải cơ sở khoa học của một số quan điểm, giải pháp
nhằm tiếp tục đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở
Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị
quyết tại Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương và tại các đảng bộ trong
Khối các cơ quan Trung ương (63 đảng bộ trực thuộc).
Phạm vi nghiên cứu của luận văn từ tháng 12/2010 (tức là sau Đại hội
Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương nhiệm kỳ 2010-2015) đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc tổ chức
học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó có
phương pháp phân tích - tổng hợp, lơgíc - lịch sử và một số phương pháp xã
hội học như:
- Thu thập tài liệu, số liệu từ tài liệu tham khảo
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
- Phương pháp thống kê


9

- So sánh, quan sát
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn nêu được cơ sở lý luận, các hình thức tổ chức học tập, các tiêu chí
đánh giá việc đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng; sự
cần thiết phải đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng.
Luận văn đánh giá thực trạng và mức độ đổi mới các hình thức đã sử
dụng trong quá trình học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng ủy Khối
và các đảng ủy trực thuộc Đảng bộ Khối từ năm 2010 đến nay. Từ đó đưa ra
những vấn đề cần quan tâm như: q trình đổi mới cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo,
đổi mới chất lượng hoạt động của báo cáo viên, ý thức trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên và quy trình tổ chức học tập nghị quyết.
Luận văn đề ra một số quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới hình
thức tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các

cơ quan Trung ương; làm tài liệu tham khảo cho các tỉnh ủy, thành ủy, đảng
ủy trực thuộc Trung ương, đảng ủy các khối ở địa phương.
7. Ý nghĩa của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
liên quan đến hình thức tổ chức học tập, quán triệt và việc đổi mới hình thức
tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết của Đảng.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá thực
trạng việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng trong Đảng bộ
Khối các cơ quan Trung ương từ 2010 đến nay. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra
một số quan điểm, giải pháp nhằm đổi mới hình thứctổ chức học tập, quán
triệt nghị quyết của Đảng ở Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương.
Luận văn có thể làm cơ sở để cấp ủy các cấp nghiên cứu, áp dụng vào
thực tiễn và triển khai thực hiện phù hợp với tình hình ở cơ sở.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, Đề tài gồm
03 chương, 08 tiết.


10

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ĐỔI MỚI HÌNH THỨC TỔ CHỨC
HỌC TẬP, QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG

1.1. Học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng và các hình thức tổ
chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
1.1.1. Nghị quyết của Đảng: khái niệm, đặc điểm và phân loại
1.1.1.1. Khái niệm nghị quyết của Đảng
Thuật ngữ “nghị quyết” xuất hiện trong văn kiện đảng chính trị lần đầu
vào năm 1904 trong Dự thảo Nghị quyết về những biện pháp nhằm khơi phục

hịa bình trong Đảng, được thơng qua tại Hội nghị Hội đồng Đảng Công nhân
dân chủ xã hội Nga (tiền thân của Đảng Cộng sản Liên Xô), họp từ ngày 15
đến ngày 17/01/1904, do V.I.Lênin đề xướng.[70, tr.130] Lúc này, trong Đảng
thông qua một văn bản, nhưng chưa biết gọi tên văn bản đó là gì. V.I. Lênin
đề nghị gọi là “nghị quyết”. Trước đó, thuật ngữ “nghị quyết” cũng có thể đã
xuất hiện, nhưng chưa chính thức đưa vào văn kiện của Đảng.[76, tr.29]
Theo từ điển Tiếng Việt, Nghị quyết là: "Quyết định đã được chính
thức thơng qua ở hội nghị, sau khi vấn đề đã được tập thể thảo luận. Hội nghị
thông qua nghị quyết. Chấp hành nghị quyết.”[69, tr.278]
Nghị quyết là điều đã được thông qua ở một hội nghị và cần được thi
hành. Theo khái niệm này thì nghị quyết của Đảng là những quyết định đã
được thông qua ở một hội nghị (kể cả đại hội) của Đảng, sau khi đã được tập
thể thảo luận và cần được thi hành trong toàn Đảng và toàn xã hội.
Theo Quyết định số 66-QĐ/TW, ngày 06/02/2017 của Ban Bí thư,
khố XII, ban hành Quy định về thể loại, thẩm quyền ban hành và thể thức
văn bản của Đảng, thì “Nghị quyết là văn bản ghi lại các quyết định được
thông qua ở đại hội, hội nghị cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp, hội nghị đảng


11

viên về đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch hoặc các vấn đề cụ thể”
[1].
Như vậy có nghĩa là nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
là văn bản ghi lại các quyết định về đường lối, chủ trương, chính sách, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội,… hoặc các vấn đề cụ thể được chính thức
thơng qua tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau khi được Ban
Chấp hành Trung ương Đảng bàn bạc, thảo luận.
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu: Nghị quyết của Đảng là một loại
hình tài liệu bằng văn bản ghi lại những hoạt động của các tổ chức đảng, do

các cấp ủy có thẩm quyền của Đảng ban hành theo quy định của Điều lệ
Đảng và Trung ương Đảng.
1.1.1.2. Đặc điểm nghị quyết của Đảng
- Lý luận thống nhất với thực tiễn
Nghị quyết của Đảng là sự vận dụng lý luận vào thực tiễn, là sự cụ thể
hóa cương lĩnh, đường lối, chiến lược vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Và qua
quá trình tổng kết thực tiễn, bằng tư duy lý luận, vạch ra những quy luật, xu
thế vận động của đời sống xã hội, từ đó hình thành những chủ trương, đường
lối, chính sách và giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn cấp thiết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà khơng có liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông”.[44, tr.496]
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng, dựa trên cơ sở lý luận chung, những
quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội mà Đảng ban hành
nghị quyết để định hướng mục tiêu, quan điểm và đề ra giải pháp giải quyết
các vấn đề thực tiễn cấp thiết đang đặt ra.
- Nghị quyết có tính khái qt hóa cao


12

Nghị quyết là sản phẩm của quá trình tổng kết thực tiễn và vận dụng lý
luận khoa học cho nên nó có tính khái qt rất cao. Nghị quyết khơng đi vào
những chi tiết cụ thể, vì các vấn đề mà nghị quyết đề cập đến cũng không
ngừng vận động, biến đổi. Tính khái qt hóa cao của nghị quyết thể hiện ở
những vấn đề chung, bao quát triển vọng, biến đổi của vấn đề. Nghị quyết là
văn bản mang tính chỉ đạo, bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều nội dung nên nó
được viết rất cơ đọng và vì vậy tính khái quát của nội dung nghị quyết rất cao.
Chính tính khái quát cao này của nghị quyết đỏi hỏi khi triển khai học tập,

giới thiệu nghị quyết, báo cáo viên phải cụ thể hóa các luận điểm đã được
khái quát đó bằng các luận cứ cụ thể, những số liệu cụ thể.
- Nghị quyết thường có cấu trúc, bố cục chặt chẽ, cân đối
Nghị quyết thường có cấu trúc, có bố cục hợp lý, chặt chẽ, lơ gic, thể
hiện trình độ tư duy, trí tuệ của tồn Đảng, của từng tập thể cấp ủy đảng,…với
các khái niệm chính xác, nội hàm rõ ràng.
Mỗi nghị quyết của Đảng thường có 2 phần: Phần thứ nhất là đánh giá
tình hình trong đó, xác định rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm. Phần thứ hai là mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp cần
thực hiện trong thời gian tới.
- Nghị quyết của Đảng phải trình bày bằng văn phong chính luận. Văn
chính luận là phải thuyết phục người đọc, người nghe bằng sự chặt chẽ trong
lập luận, sự đanh thép của lí lẽ, sự đúng đắn của luận cứ. Khơng viết như văn
nói, khơng dùng lối nói dân dã, cũng khơng viết như một giáo trình lý luận
mang tính học thuật và khơng làm văn chương bóng bảy; sử dụng từ ngữ, văn
phạm, chính tả, các dấu, cách ngắt câu, xuống dòng đều phải chặt chẽ, chuẩn
mực, ngắn gọn, cơ đọng, súc tích, nhưng phản ánh ý tưởng sâu sắc, chính xác.
Khơng thừa từ, thừa ý, không viết trùng lặp, không dùng quá nhiều trạng từ,
mà tăng lượng động từ; chú ý cả cách viết tắt, thông thường nghị quyết Trung
ương không nên viết tắt; phiên âm, làm tiêu đề, đánh số mục, kiểu chữ to,


13

nhỏ, đậm nhạt hợp lý, chữ viết hoa và không viết hoa, chữ nghiêng đều phải
viết theo đúng những quy tắc ngữ pháp, khôgn thể tùy tiện theo cảm hứng;
phải thống nhất khi trình bày văn bản.
Để nghị quyết ban hành có chất lượng và khả thi thì văn phong trình
bày nghị quyết cũng là một trong những yếu tố góp phần quyết định.
1.1.1.3. Phân loại nghị quyết của Đảng

Theo cấp ban hành nghị quyết thì có nghị quyết Đại hội Đảng các cấp,
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nghị quyết của Bộ Chính
trị, nghị quyết của ban chấp hành, ban thường vụ cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở.
Theo thẩm quyền ban hành nghị quyết thì các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ cấp Trung ương đến cơ sở; các cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng
được lập ra theo quy định của Điều lệ Đảng hoặc quyết định của Bộ Chính trị
và ban cán sự đảng, đảng đồn các cấp mới có thẩm quyền ban hành nghị quyết.
Nghị quyết của Đảng có thể được phân ra làm hai loại là: nghị quyết
tổng quan và nghị quyết chuyên đề.
Nghị quyết tổng quan là loại nghị quyết thông qua một cách tổng thể
chung các vấn đề, không đề cập đến một lĩnh vực cụ thể nào. Ví dụ: Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nghị quyết
các kỳ Đại hội Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…
Nghị quyết chuyên đề là nghị quyết về một vấn đề cụ thể về chiến lược,
chủ trương, chính sách lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục, đội nội, đối ngoại,
an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng,... nhằm cụ thể hố Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng và nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Ví dụ:
tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, đã thảo luận và
ban hành 03 nghị quyết và 01 kết luận như: Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày


14

01/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mơ
hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế; Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 về
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định

chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới; Kết luận số 09-KL/TW ngày 19/10/2016 về tình hình kinh tế xã hội; ngân sách nhà nước năm 2016; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự
toán ngân sách nhà nước năm 2017.
Trong thực tế, những vấn đề quan trọng mà Đảng quyết định được biểu
hiện bằng cách ghi rõ cụm từ “nghị quyết” và ghi tiêu đề của nghị quyết.
Nhưng cũng có lúc văn kiện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư lại có dạng ghi “Kết luận” đi liền với tiêu đề kết luận đó, có giá trị như
nghị quyết, thậm chí có nội dung tối quan trọng, được thực thi có hiệu lực
mạnh hơn nghị quyết. Ví dụ: tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI ban hành các kết luận: Kết luận số 20-KL/TW ngày 25/5/2012
về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về
sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Kết luận số 22-KL/TW ngày 25/5/2012 về việc
tổng kết Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…
1.1.2. Khái niệm học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
1.1.2.1. Học tập nghị quyết
Ngày 21/7/1956, nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường
Đại học Nhân dân Việt Nam, Bác dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt
đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với cơng tác thực tế. Khơng ai có thể tự cho
mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày
càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân
dân”.[44, tr.215]


15

Trong lời ghi ở trang đầu Quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc
Trung ương, Người viết: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được

mục đích đó thì phải: Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư”. [41, tr.684]
Phát biểu trong Hội nghị tồn quốc lần thứ nhất về cơng tác huấn luyện
và học tập, năm 1950, Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: học để làm gì? và Người đã
nói nhiều về mục đích của sự học, song đúc kết lại vẫn là để làm việc, để
phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Học để “phụng sự” tức là làm việc, là lãnh
nhận sứ mệnh trước quốc dân, đồng bào, là cống hiến, đặt cái lợi nhân quần
của Tổ quốc, nhân dân lên hết thảy.
Trên cơ sở đó, ta thấy Học nghị quyết là tìm hiểu, nghiên cứu, thu nhận
những kiến thức mới về chủ đề và nội dung của nghị quyết. Học tập nghị
quyết của Đảng là một hoạt động quan trọng trong cơng tác tư tưởng của
Đảng. Đó là hoạt động lĩnh hội nội dung và phương thức thực hiện nghị quyết
của Đảng, của cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao hiểu biết về các quan điểm,
đường lối của Đảng, thực tiễn của đất nước; trên cơ sở đó cán bộ, đảng viên
có nhận thức, thái độ, niềm tin và hành động phù hợp với yêu cầu của nghị
quyết, của cách mạng ở mỗi giai đoạn.
Đảng viên phải nghiên cứu, hiểu suốt, thấm nhuần nghị quyết. Theo
nghị quyết mà điều tra, nghiên cứu, hiểu thấu hoàn cảnh thiết thực của đơn vị,
địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực để giải thích,
tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu thấu và ủng hộ
nghị quyết của Đảng, thi đua thực hiện đầy đủ nghị quyết.
1.1.2.2. Quán triệt nghị quyết
- Quán triệt: là hiểu đầy đủ và thông suốt.
Trong công tác tư tưởng, cơng tác tun truyền, chúng ta có thể hiểu:
qn triệt là việc hiểu đầy đủ và thông suốt của đối tượng về những nội dung
mà chủ thể tuyên truyền truyền bá đến đối tượng tuyên truyền.


16

- Quán triệt nghị quyết hay thấu suốt nghị quyết có u cầu cao hơn

học tập, nghĩa là khơng chỉ tìm hiểu, nhận biết mà còn phải hiểu sâu, hiểu kỹ,
nắm chắc những tư tưởng cơ bản, nội dung cơ bản và những vấn đề cốt lõi
của nghị quyết, từ đó xây dựng được lòng tin và quyết tâm thực hiện nghị
quyết một cách tự nguyện, tự giác.
Quán triệt nghị quyết của Đảng là hoạt động nắm bắt thông tin nhằm
hiểu đầy đủ, sâu sắc và thông suốt về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ
chức ban hành nghị quyết; những nội dung cơ bản của nghị quyết, bao gồm
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của các mục tiêu, quan điểm, chủ trương, giải
pháp được nêu ra trong nghị quyết; những công việc phải thực hiện đối với
tập thể và cá nhân để từ đó hình thành tâm thế sẵn sàng hành động vì mục tiêu
chung mà nghị quyết của Đảng đề ra.
Cần nhận thức rõ việc qn triệt nghị quyết khơng chỉ đóng khung ở
dạng phổ biến, học tập, mà phải là quá trình tổ chức thực hiện thơng qua các
nhiệm vụ, chương trình hành động cụ thể và cuối cùng là dẫn đến những kết
quả cụ thể.
Trong phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị cán bộ toàn quốc học tập, quán triệt
Nghị quyết Đại hội XII vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh:
“Việc học tập, triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng phải “nhằm tạo sự
chuyển biến về nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong tồn Đảng, toàn
dân, toàn quân mà trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành”; phải
“góp phần tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chấn chỉnh, uốn nắn những nhận thức lệch
lạc, đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch…”.
1.1.2.3. Học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
Học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là hoạt động lĩnh hội nội dung
và phương thức thực hiện nghị quyết Đảng của cán bộ, đảng viên, công chức,


17


viên chức, đoàn viên, hội viên, người lao động và nhân dân (sau đây gọi
chung là người học) nhằm nâng cao và đạt tới yêu cầu hiểu biết đầy đủ, thông
suốt về các quan điểm, đường lối của Đảng, thực tiễn của đất nước; trên cơ
sở đó có nhận thức, thái độ, niềm tin và hành động phù hợp với yêu cầu của
cách mạng ở mỗi giai đoạn.
Học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là một trong những hoạt động
quan trọng của công tác tư tưởng. Giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận
thức đúng về nghị quyết, quan điểm, đường lối của Đảng; xây dựng thế giới
quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy lý luận, tư duy
chính trị và phương pháp làm việc khoa học, tạo sự thống nhất cao trong nhận
thức và hành động, thúc đẩy cán bộ, đảng viên tự giác, hăng hái vận dụng
nghị quyết vào lĩnh vực hoạt động của mình, hồn thành tốt nhiệm vụ chính
trị được giao, góp phần cải tạo xã hội, hồn thiện bản thân.
1.1.3. Hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
1.1.3.1. Khái niệm hình thức
Trong triết học Mác-Lênin, người ta định nghĩa: “Hình thức là phương
thức biểu hiện của nội dung, là kết cấu của các mặt, các yếu tố, các bộ phận
và các quá trình tạo thành sự vật”. [73, tr.140]
Theo Từ điển Tiếng Việt, “hình thức là tồn thể những gì làm thành mặt
bề ngồi của sự vật, là cái chứa đựng nội dung; là cách thể hiện, cách tiến
hành một hoạt động”.[50,tr.427]
Trong Giáo dục học, khái niệm hình thức thường được xem xét chủ
yếu từ góc độ tổ chức q trình giáo dục, theo đó người ta sử dụng thuật
ngữ “hình thức tổ chức dạy học” - là phương thức tác động qua lại giữa
người dạy và người học, trong đó nội dung, phương pháp dạy học được
thực hiện.[12, tr.233-234]
Khái niệm hình thức, ngồi các định nghĩa như là cái chứa đựng nội
dung, nó còn được giải nghĩa như là vỏ bề ngồi, hình dáng, là tất cả những



18

biểu hiện bên ngồi của một nội dung nào đó, là chế độ, hệ thống tổ chức,
cách thức tổ chức hoạt động. Trong Cuốn Nguyên lý công tác tư tưởng đưa
ra khái niệm: “hình thức cơng tác tư tưởng là cách thức tổ chức, phối hợp
hoạt động giữa chủ thể và đối tượng, là cách bố trí, sắp xếp các yếu tố đảm
bảo và các bước tiến hành theo một trật tự nhất định nhằm đạt được mục
đích đặt ra”.
Như vậy, từ góc độ cơng tác tư tưởng, có thể hiểu hình thức là những gì
làm nên mặt bề ngồi của sự vật, là cái chứa đựng nội dung, là cách bố trí,
sắp xếp các yếu tố đảm bảo và các bước tiến hành một hoạt động.
1.1.3.2. Hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết
Hình thức tổ chức học tập là một q trình mà trong đó tiến trình học
tập được thực hiện bởi hệ thống tổ chức với cùng một định hướng chung.
Ln có sự kết hợp giữa học tập với hiệu quả cơng việc. Thích ứng khi môi
trường thay đổi. Học tập, tổ chức, con người, kiến thức, công nghệ luôn được
phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Người lãnh đạo trở thành người hướng dẫn, giám
sát, tư vấn và cũng là người học tập.
Mỗi hình thức tổ chức học tập được xác định tùy thuộc vào những mối
quan hệ của các yếu tố cơ bản như: có tính chất tập thể hay cá nhân; mức độ
hoạt động độc lập của cá nhân trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng;
địa điểm và thời gian học tập.
Hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng là sự biểu
hiện bên ngoài của hoạt động phối hợp chặt chẽ giữa người học với giảng
viên, báo cáo viên, được thực hiện trong một trật tự quy định; là cách thức tổ
chức sắp xếp việc học tập, quán triệt nghị quyết nhằm giúp người học hiểu
đúng quan điểm, đường lối của Đảng, tạo ra sự thống nhất về tư tưởng và
hành động trong toàn Đảng.
1.1.3.3. Các hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng

- Hình thức tự nghiên cứu, tự học tập, quán triệt nghị quyết


19

Tự học tập, tự nghiên cứu là gì? Học là quá trình con người tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng do người khác truyền lại và tự học, tự nghiên cứu là
việc con người phát huy những kiến thức, kỹ năng đã được truyền lại bằng
chính sức lực, khả năng của riêng mình.
Học tập, quán triệt nghị quyết là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cán bộ,
đảng viên. Tự nghiên cứu, tự học tập, quán triệt nghị quyết luôn là yêu cầu, là
nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cán bộ, đảng viên.
“Mọi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết xử lý những cán bộ, đảng viên nói và làm
trái nguyên tắc Đảng, có những hoạt động chia rẽ, bè phái trong Đảng”
Hiện nay, ý thức học tập nghị quyết của Đảng ở một số cán bộ, đảng
viên chưa cao, còn hiện tượng tham gia học tập theo kiểu ghi tên điểm
danh, đến học nghị quyết để hoàn thành nghĩa vụ đảng viên mà chưa thực
sự quan tâm đến nội dung của nghị quyết. Khi người học còn thiếu ý thức
học tập thì chắc chắn hiệu quả học tập sẽ không cao. Bởi lẽ, nội dung
truyền đạt dù có phong phú, hấp dẫn bao nhiêu nhưng người học khơng
tích cực tiếp thu thì sẽ khơng thể đạt chất lượng. Chính vì vậy, việc đẩy
mạnh hình thức tự học tập, nghiên cứu nghị quyết của đảng viên và nhân
dân là hình thức quan trọng đầu tiên để nâng cao chất lượng triển khai học
tập nghị quyết nói chung và tăng cường tính tự học của đảng viên và nhân
dân nói riêng.
Vì nếu người học khơng chịu tiếp thu, thiếu vận động, suy nghĩ, tư duy
thì dẫn tới việc học cũng không hiệu quả. Hơn nữa, việc tự học cũng ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng của buổi triển khai học tập nghị quyết của Đảng.
Nếu đảng viên và nhân dân, trước khi tham dự các buổi triển khai nghị quyết

mà chưa đọc nghị quyết, chưa nắm được những nội dung cốt lõi của nghị
quyết thì sẽ gặp khó khăn trong q trình tiếp thu những nội dung nghị quyết
mà báo cáo viên truyền đạt. Vì vậy, việc tự học tập, nghiên cứu nghị quyết


20

của cán bộ, đảng viên trước khi tổ chức buổi triển khai học tập, quán triệt
nghị quyết là rất quan trọng.
- Hình thức giới thiệu nghị quyết
Hình thức giới thiệu nghị quyết là hình thức mà báo cáo viên vừa phải
cung cấp những nhận định, đánh giá, quan điểm, định hướng cơ bản, chung
nhất trong nghị quyết mà mọi cán bộ, đảng viên đều cần nắm được; vừa phải
cung cấp những nhận thức phù hợp với sự quan tâm của cán bộ, đảng viên
hoạt động trên những lĩnh vực, địa bàn cơng tác khác nhau.
Căn cứ vào tính chất sự kết hợp giữa chủ thể và đối tượng có thể phân
chia thành 2 nhóm hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Hình thức trực tiếp là hình thức mà chủ thể và đối tượng cùng hiện diện
trong một không gian, thời gian và nội dung được chủ thể trực tiếp truyền đạt
và đối tượng trực tiếp tiếp thu, lĩnh hội nội dung ấy bằng những phương pháp
và phương tiện đặt tại không gian diễn ra hoạt động tư tưởng.[25, tr.238]
Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng theo hình thức
trực tiếp thường là mở các lớp học tập, quán triệt các nghị quyết, các văn bản
của Đảng và Nhà nước, các buổi nói chuyện thời sự, chính sách, các lớp tập
huấn, bồi dưỡng, đây là phương pháp truyền thống, cổ điển và phổ biến nhất.
Lớp học truyền thống mang đầy đủ các ưu điểm của loại hình giao tiếp trực
tiếp, tính tương tác giữa đối tượng và chủ thể rất cao, trực tiếp, tức thời.
Hình thức trực tuyến là hình thức chủ thể sử dụng cơng nghệ thơng tin,
các thiết bị máy móc truyền hình trực tiếp tới người học từ xa. Trực tuyến
(từ tiếng Anh: Online) thường được dùng cho một kết nối hoạt động với một

mạng truyền thông, đặc biệt là trong mạng Internet hoặc chỉ liên kết trong


21

mạng cục bộ. Trong sử dụng thông thường, "trực tuyến" thường đề cập đến
Internet hoặc mạng toàn cầu. [33]
Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc triển khai tổ
chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng đã được đổi mới bằng phương
pháp truyền hình trực tiếp (trực tuyến) đến cơ sở. Đây là cách làm mới, có
mặt tích cực là thời gian hồn thành việc học tập nghị quyết rất nhanh gọn,
các cấp cơ sở không phải tổ chức các hội nghị như trước đây. Cán bộ, đảng
viên các cấp đều có điều kiện được nghe báo cáo viên cấp trên truyền đạt nghị
quyết, tiết kiệm tối đa chi phí ăn nghỉ, di chuyển; tuy nhiên, hình thức này dễ
sa vào lý thuyết, xa rời thực tiễn và báo cáo viên chỉ sử dụng phương pháp
dùng lời ít kết hợp sử dụng với các phương pháp, hình thức khác dễ làm đối
tượng nhàm chán.
Ngồi ra, căn cứ vào đối tượng, địa bàn hình thức giới thiệu nghị quyết
cũng khác nhau. Việc học tập, quán triệt nghị quyết được tổ chức sâu rộng
trong toàn Đảng với nhiều loại hình tổ chức đảng từ Trung ương tới cơ sở, từ
các địa phương (thành thị, nông thôn, miền ngược, miền xuôi...) đến các cấp,
ngành, tổ chức, cơ quan, đơn vị, trường học...; với đội ngũ cán bộ, đảng viên
rất đa dạng: cán bộ lãnh đạo, quản lý; công nhân, nơng dân, trí thức, cơng
chức, viên chức... Có thể tổ chức các lớp học theo đối tượng cán bộ, đảng
viên như:
+ Lớp cho cán bộ chủ chốt các cấp và báo cáo viên cấp ủy.
+ Lớp cho toàn thể đảng viên của đảng bộ.
+ Lớp cho đoàn viên, hội viên của các đồn thể chính trị - xã hội.
+ Lớp cho cán bộ, đảng viên theo lĩnh vực công tác.



22

- Hình thức tổ chức thảo luận, liên hệ, vận dụng
Trong Từ điển tiếng Việt thì “Thảo luận” là: “Trao đổi ý kiến về một
vấn đề, có phân tích lý lẽ”.
Theo “từ-điển.com” thuật ngữ thảo luận là trao đổi ý kiến, có phân tích lí
lẽ, để làm sáng tỏ một vấn đề mà nhiều người đang cùng quan tâm đến. Đồng
nghĩa với thảo luận là bàn bạc, bàn luận, bàn thảo, đàm luận, luận bàn. [34]
Thảo luận hình thành và phát triển năng lực giải thích, bảo vệ ý kiến,
lập trường, quan điểm tương tác của đối tượng. Học cách thức làm việc
chung, chấp nhận ý kiến của nhau và đi đến thống nhất. Kích thích phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học, đặc biệt là tư duy sáng tạo.
Thảo luận là hình thức tổ chức cho người học trao đổi, tranh luận các
vấn đề học tập, để tự rút ra được các kết luận theo yêu cầu bài học.
Liên hệ là tiếp xúc, trao đổi để đặt quan hệ hoặc giữ quan hệ với nhau;
liên hệ còn đồng nghĩa với liên quan, liên tưởng: từ sự việc, hiện tượng này
nghĩ đến sự việc, hiện tượng khác dựa trên những mối quan hệ nhất định.[32]
Vận dụng là mang những kiến thức đã học, đã biết vào thực tế; mang tri
thức, lí luận dùng vào thực tiễn.
Thảo luận, liên hệ, vận dụng là một hình thức quan trọng. Mục đích của
thảo luận là làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề; đề xuất,
kiến nghị, dự báo vấn đề có cơ sở khoa học. Q trình thảo luận phải có nhiều
ý kiến trao đổi, phản biện để làm sáng tỏ chủ đề một cách khách quan, biện
chứng và phải luôn lấy thực tiễn làm thước đo của chân lý khoa học. [25,
tr.247]. Từ đó, cá nhân, tập thể liên hệ, vận dụng vào thực tiễn để xây dựng
chương trình, kế hoạch, cơng việc cụ thể có trọng tâm, trọng điểm, có giải


23


pháp đột phá, các điều kiện, cơ chế, chính sách, nguồn lực bảo đảm, lộ trình
triển khai phù hợp và khả thi.
Thảo luận nghị quyết của Đảng là hình thức tổ chức cho cán bộ, đảng
viên (người học) trao đổi ý kiến, phân tích, tranh luận các nhiệm vụ, nội dung
đặt ra giúp đối tượng nắm vững các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp,
giải đáp các băn khoăn, thắc mắc. Tổ chức thảo luận, liên hệ và vận dụng là
để cán bộ, đảng viên, nhất là những người trực tiếp tham mưu, tổ chức thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước biết mình phải làm gì, làm
như thế nào để đáp ứng tốt nhất, yêu cầu, nhiệm vụ mà cơ quan, đơn vị giao
cho; phục vụ tốt nhất lợi ích của nhân dân. Khắc phục bệnh chiếu lệ, hình
thức và triệt tiêu tư tưởng “nghị quyết có hay đến mấy nhưng vẫn chỉ là tờ
giấy” mà bấy lâu nay vẫn thường diễn ra trong nhiều cấp ủy, tổ chức đảng.
Tại các hội nghị học tập vừa qua, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã
được tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến nhằm đề ra chương trình hành động
của cấp ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng có tính khả thi cao và
sát thực với tình hình địa phương, đơn vị.
- Hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá
Kiểm tra và đánh giá là hai khâu trong một quy trình thống nhất nhằm
xác định kết quả thực hiện mục tiêu học tập.
Kiểm tra là thu thập thông tin từ riêng lẻ đến hệ thống về kết quả thực
hiện mục tiêu học tập; đánh giá là xác định mức độ đạt được về thực hiện
mục tiêu học tập.
Công tác kiểm tra, đánh giá việc tổ chức, quản lý học tập, quán triệt
nghị quyết được thực hiện mang tính nguyên tắc, là một việc làm quan trọng
thể hiện rõ phương thức lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra nhằm mục đích nắm
được thơng tin chính xác, kịp thời về tình hình tổ chức học tập, quán triệt nghị
quyết, từ đó đưa ra những đánh giá khách quan, khoa học, công bằng về kết
quả học tập nghị quyết; đúc rút kinh nghiệm, biểu dương những việc tốt, cách



24

làm sáng tạo; kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp uốn nắn những sai lệch
trong quá trình tổ chức thực hiện, giúp các cấp lãnh đạo, chỉ đạo tốt hơn.
Đánh giá là một hoạt động khoa học, có tính khái quát cao mà bản chất
của nó là sự so sánh giữa các phần việc, kết quả đã đạt được và các mục tiêu
đã đạt được đến mức độ nào trong mỗi nghị quyết, đường lối, chính sách cũng
như mỗi chương trình, kế hoạch, dự án. [20, tr.340]. Đánh giá kết quả học tập
thực chất là việc xem xét mức độ đạt được của hoạt động học của đối tượng
so với mục tiêu đề ra.
Nếu chúng ta chỉ tiến hành triển khai học tập, quán triệt nghị quyết mà
không yêu cầu viết thu hoạch, không kiểm tra, không đánh giá kết quả học tập
thì hiệu quả của việc học nghị quyết không cao. Bài thu hoạch của cá nhân
phải được đánh giá, lưu giữ tại chi bộ; kết quả học tập, nghiên cứu, quán triệt
và kết quả kiểm tra nhận thức sau học tập nghị quyết là một căn cứ để đánh
giá nhận xét, xếp loại cán bộ, đảng viên, cơng chức và bình xét thi đua khen
thưởng hằng năm.
Theo Lênin: “Phải nghĩ đến chuyện kiểm tra lại những chủ trương
mà chúng ta tuyên bố hàng giờ, quyết định hàng phút, rồi từng giây chứng
minh tính chất khơng vững chắc, khơng kiên định và khó hiểu của những
chủ trương đó”. [54]. Như vậy, kiểm tra khơng những tìm ra các khuyết
điểm, vi phạm mà còn chỉ ra điểm sơ hở, phần chưa hợp lý trong chủ
trương, đường lối.
“Các cấp ủy, tổ chức đảng phải tăng cường kiểm tra việc chấp hành
nghị quyết của Đảng. Từ Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung
ương đến các đồng chí lãnh đạo các cấp, các ngành phải thực sự đi sâu kiểm
tra, đơn đốc, nắm chắc tình hình thực hiện các nghị quyết của Đảng, khơi dậy
nhân tố mới, uốn nắn lệch lạc, kịp thời giải quyết các vấn dề nảy sinh: bớt
giấy tờ, hô hào chung chung, qua nhiều tầng nấc trung gian. Cấp dưới phải

báo cáo kịp thời, đầy đủ và trung thực tình hình lên cấp trên”.[15, tr.35]


25

- Hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo sơ kết, tổng kết
Ngoài việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng qua các
hình thức kể trên, chúng ta còn sử dụng các hình thức như: hội nghị, hội thảo
sơ kết, tổng kết thực tiễn để đúc rút lý luận một cách bài bản, khoa học làm
căn cứ khoa học cho việc xây dựng nghị quyết.
Hội nghị là hình thức hoạt động của một cơ quan, một tổ chức nhằm
thảo luận, lấy ý kiến tư vấn, kiến nghị, thông qua quyết định và triển khai thực
hiện quyết định hay nhằm cung cấp thông tin, quan niệm mới trên cơ sở đó
thống nhất tư tưởng và hành động.[25, tr.247]
Hội thảo là một hình thức quan trọng của cơng tác tư tưởng, nhất là
công tác lý luận. Hội thảo là cuộc thảo luận về một vấn đề có tính khoa học
do lý luận và thực tiễn công tác tư tưởng đặt ra.
Sơ kết việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương cần làm thường
xuyên, có thể sau 1, 2 hoặc 3 năm một lần, tùy theo tính chất của từng nghị
quyết. Còn việc tổng kết nên tiến hành 5 năm một lần.
Hội nghị, hội thảo sơ kết, tổng kết là để đánh giá rút kinh nghiệm đối
với hoạt động vừa qua và xác định phương hướng, giải pháp cho hoạt động
tiếp theo. “Khi đã có nghị quyết, phải tập trung chỉ đạo thực hiện có kết quả,
tạo chuyển biến thực sự, bảo đảm lời nói đi đơi với việc làm. Cá nhân và tổ
chức không làm, làm không đầy đủ, hoặc làm trái phải bị phê bình, xử lý kỷ
luật. Tổ chức chỉ đạo, sơ kết rút kinh nghiệm, bổ khuyết kịp thời đối với việc
triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng. Tổng kết việc thực hiện nghị quyết
trước khi quyết định những chủ trương, nhiệm vụ mới”[15,tr.35]
1.2. Đổi mới các hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết
của Đảng

1.2.1. Đổi mới và đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị
quyết của Đảng
* Khái niệm đổi mới


×