Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

CHủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.69 KB, 9 trang )

1

Phần I: Câu hỏi
Câu 2: Anh/chị hãy so sánh và làm rõ đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay
Chủ nghĩa xã hội là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động
chống lại áp bức, bất công, chống các giai cấp thống trị, là một khoa học về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân. Giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, cơng bằng, đoàn
kết, theo đuổi mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hịa hợp và hướng đến cơng bằng xã
hội.
Chủ nghĩa xã hội ra đời dựa trên điều kiện kinh tế và chính trị-xã hội:
Về điều kiện kinh tế, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng
được cơ khí hóa, hiện đại hóa càng mang tính xã hội hóa cao, thì càng mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trị mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời, xiềng xích của lực lượng sản xuất.
Điều kiện chính trị-xã hội, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành
mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn
giai cấp công nhân hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng trở nên gay gắt và
có tính chính trị rõ nét. Sự phát triển về lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai
cấp công nhân là tiền đề kinh tế-xã hội dẫn tới sự sụp đỗ không tránh khỏi của chủ
nghĩa tư bản. Cùng với sự trưởng thành thực sự của giai cấp công nhân là tiền đề, điều
kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa phát
triển từ thấp lên cao qua hai giai đoạn, giai đoạn thấp và giai đoạn cao, giai đoạn cộng
sản chủ nghĩa; giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng cản là thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa cộng sản. Sau này, từ thực tiễn nước Nga, V.Lê-nin cho rằng, đối với những
nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài


từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Vậy là, về lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết
phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội-những cơn
đau kéo dài.
Thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản
Khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ, đồng thời nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học cũng phân biệt có hai loại quá độ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản. Một là, quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản


2
đối với những nước đã trãi qua chủ nghĩa tư bản phát triển.Cho đến nay, thời kỳ quá
độ trực tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ chủ nghĩa tư bản phát triển chưa từng diễn ra.
Thứ hai, quá độ gián tiếp, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với những
nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam và
một số nước xã hội chủ nghĩa ngày nay, theo đúng lý luận Mác- Lênin, đều trải qua
thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ phát triển khác nhau.
Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực chất của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần
của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ
nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của
chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách mạng

sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất-kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ
nghĩa xã hội. Hay nói cách khác là thời kỳ đan xen cái cũ và cái mới, cải tạo cái cũ và
xây dựng cái mới. Đó là thời lỳ lâu dài và gian khổ bắt đầu từ giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Có thể khái quát những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
Đầu tiên là lĩnh vực kinh tế, trong thời kỳ này tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần trong hệ thống kinh tế trong đó có thành phần đối lập, tương ứng với nó có
nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, thế nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của giai
cấp xã hội đã có sự chuyển biến sâu sắc. Nền kinh tế nhiều thành phần được xác lập
trên cơ sở của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình
thức tổ chức kinh tế đa dạng, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân giữ vai trò
quan trọng. Chẳng hạn, tương ứng với nước Nga, V.I.Lê-nin cho rằng thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội tồn tại 5 thành phần kinh tế đó là: kinh tế gia trưởng, kinh tế hang
hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, trước đổi mới tháng 12 năm 1986 ở nước ta thực chất chỉ phát triển
hai thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể dựa trên hai hình thức sử
hữu Nhà nước và tập thể. Chính vì vậy, trong một thời gian dài nền kinh tế của chúng
ta gặp rất nhiều khó khăn, khơng giải phóng được nguồn lực phát triển kinh tế của đất
nước. Thực tiễn cho thấy nguyên nhân sâu xa của mối quan hệ giữa LLSX và QHSX ở
nước ta vào thời kỳ này không phù hợp, trong khi lực lượng sản xuất cịn ở trình độ
lạc hậu, còn quan hệ sản xuất chúng ta tự xậy dựng là chủ yếu. Chúng ta đã có sự lựa
chọn sáng suốt, đúng đắn khi quyết định chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12 năm 1986. Hiện nay Hiến
Pháp 2013 có quy định tại khoản 1 Điều 51: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đao”. Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta
chủ yếu nhấn mạnh đến 4 thành phần kinh tế sau: thành phần kinh tế nhà nước, thành



3
phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân) và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó thành phần
kinh tế nhà nước giữ vị trí và vai trị then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế. Bên cạnh Việt Nam cịn có các nước theo chủ nghĩa xã
hội khác như Cu-Ba, Lào, Trung Quốc.
Thứ hai, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương
diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chun chính vơ sản mà thực chất của nó là
việc giai cấp cơng nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản,
tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị của giai cấp công
nhân với chức năng thực hiện dân chủ với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế
độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân đây là đối với
những nước đã giành được chính quyền. Đối với những nước chưa giành được chính
quyền là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp vơ sản đã toàn thắng với cấp tư sản đã thất
bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh này diễn ra trong điều kiện
mới-giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới-xây dựng
tồn diện xã hơi mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, hình thức mớicơ bản là hịa bình tổ chức xây dựng.
Các nhà nước xã hội chủ nghĩa đã giành được chính quyền hồn tồn do Đảng
Cộng sản lãnh đạo như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào. Nhiệm vụ của các quốc gia
này chính là xây dựng, phát triển và bảo vệ chính quyền xã hội chủ nghĩa trước chủ
nghĩa tư bản cũng như các thế lực chống phá, xây dựng xã hội mới. Còn đối với các
nước cuộc đấu tranh vô sản chưa giành được chính quyền hay chưa giành được hồn
tồn thì tiếp tục cơng cuộc đấu tranh, chống bất cơng địi cơng bằng.
Trên lĩnh vực thứ ba đó là văn hóa và tư tưởng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội từ tư bản chủ nghĩa còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã
hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông,… mà chủ yếu
là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Về văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ
và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau. Giai cấp công nhân thơng qua đội
tiền phong của mình là Đảng Cộng sản thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư

tưởng khoa học cách mạng giai cấp cơng nhân trong tồn xã hội, khác phục những tư
tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từ
đó từng bước xây dựng văn hóa vơ sản, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá
trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
Về tư tưởng và văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xã
hội Việt Nam tồn tại nhiều tư tưởng trong đó có tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản
do cuộc xăm lược thực dân du nhập vào xã hội Việt Nam và tư tưởng chủ nghĩa xã
hội. Đặc biệt, chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa vơ sản giữ vai trị là nền tảng tư tưởng
trong cơng cuộc đấu tranh giành độc lập chính quyền và xây dựng, phát triển chính
quyền. Loại bỏ đi những văn hóa tư tưởng lạc hâu trong xã hội, tiếp thu có chọn lọc
những văn hóa mới, tiếp tục xây dựng hệ tư tưởng mới, cải tạo hệ tư tưởng cũ.
Cuối cùng là về xã hội, do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần quy định
nên trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các
giai cấp tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.


4
Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản do những mâu thuẫn về chế độ làm việc sản
xuất, chênh lệch về thu nhập của hai giai cấp này dẫn đến đấu tranh với nhau. Tuy
nhiên, hai giai cấp này lại hợp tác với nhau trong sản xuất, một bên có sức lao động,
một bên có tư liệu sản xuất để sản xuất ra hàng hóa phục vụ nhu cầu xã hội, phát triển
kinh tế. Hay lao động chân tay và lao động trí óc khác nhau về hình thức lao động một
bên sức lao động chính là sức lực của cơ thể cịn lao động trí óc là dựa vào đầu óc tư
duy kiến thức. Thế nhưng muốn hồn thành được cơng việc hiệu quả thì khơng thể
thiếu đi một trong hai
Theo tổng cục thống kê, Việt Nam có dân số thành thị là 33.122.548 người,
chiếm 34,4% tổng dân số cả nước. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực thành thị
giai đoạn 2009 – 2019 là 2,64%/năm, gấp hơn hai lần tỷ lệ tăng dân số bình quân năm
của cả nước và gấp sáu lần so với tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực nơng thơn
cùng giai đoạn. Có thể thấy dân số đang có sự dịch chuyển từ nơng thơn sang thành

thị, có sự dịch chuyển này là bởi vì trước đây di dân về thành thị là do tuyển dụng
theo kế hoạch, quản lý lao động hộ khẩu nhưng hiện nay do q trình cơng nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước với sự phát triển mạnh mẽ của các đô thị, khu công nghiệp mở
ra cơ hội việc làm. Bên cạnh đó, lực lượng lao động đã tốt nghiệp THPT trở lên chiếm
39,1%, tăng 13,5 điểm phần trăm so với năm 2009; đã được đào tạo có bằng, chứng
chỉ (từ sơ cấp trở lên) chiếm 23,1% (ở khu vực thành thị cao gấp 2,5 lần khu vực nông
thôn, tương ứng là 39,3% và 15,6%). Những thay đổi này là một đòi hỏi tất yếu khách
quan trong nền kinh tế thị trường nhưng nó cũng sẽ là biểu hiện của sự phát triển kinh
tế không đồng đều giữa các vừng trong nước.
Việt Nam quốc gia xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, hơn 1000
năm Bắc thuộc, trải qua chế độ phong kiến thức dân và đế quốc. Lực lượng sản xuất
rất thấp, là một đất nước nông nghiệp, lao động chủ yếu là nông nghiệp chân tay, trình
độ, phương tiện sản xuất lạc hậu. Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kèo dài nhiều
thập kỷ hậu quả để lại vô cùng nặng nề, những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều.
Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghiacx và
nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các
nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá
trình hội nhập quốc tế, muốn như vậy phải cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ
cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội thích hợp. Những
xu thế đó vừa tạo ra cơ hội vừa là thách thức gay gắt, nhất là với những nước lạc hậu
về kinh tế như Việt Nam.
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho
dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Trong q trình hình thành
và phát triển, Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to
lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hồ bình và cách mạng thế giới,
cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu
tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng, do duy trì quá
lâu những khuyết tật của mơ hình cũ của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước xã hội chủ
nghĩa đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, ở một số nước, đảng cộng sản và công

nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực đế quốc


5
lợi dụng những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt nhằm xố
bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
đang diễn ra gay gắt.
Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn
duy nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan của cách mạng
Việt Nam trong thời đại ngày nay. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.
Phần II: Bài tập
Bài tập 1: Sở dĩ giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử của nó (đạo huyệt chôn
chủ nghĩa tư bản) là do giai cấp cơng nhân có Đảng Cộng sản lãnh đạo là đúng
hay sai? Gỉai thích?
Quan điểm: “Sở dĩ giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử của nó (đạo huyệt chơng
chủ nghĩa tư bản) là do giai cấp cơng nhân có Đảng Cộng sản lãnh đạo” là nhận định
sai. Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp không phải do ý chí chủ quan quy định mà được
quy định bởi những điều kiện khách quan của lịch sử. Chính điều kiện lịch sử khách
quan đó là cơ sở khách quan tạo cho giai cấp đó có được những đặc điểm chính trị-xã
hội mang tính cách mạng có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử ấy.
Nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, lực
lượng sản xuất hang đầu của nó là người công nhân. Người công nhân với tư cách là
sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, nó đại
biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội hiện thời và xã hội
tương lai.

Giai cấp cơng nhân và giai cấp tư sản có mâu thuẫn trực tiếp và mang tính đối kháng.
giai cấp ở vào địa vị mâu thuẫn trực tiếp nhất và có tính đối kháng. Điều này khiến
cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp có tính cách mạng triệt để nhất trong cuộc
đấu tranh chống lại ách thống trị, áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Trong cuộc
đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng tồn thể nhân dân lao động khỏi ách
thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản.
Xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất công nghiệp, nhất là nền cơng nghiệp hiện đại,
khiến cho giai cấp cơng nhân có được tính tở chức cao với kỷ luật chặt chẽ. Đồng
thời, với sự phát triển mở rộng, có tính xã hội hố cao của nền sản xuất cơng nghiệp
khiến cho giai cấp cơng nhân có được mối quan hệ liên minh mang tính quốc tế, đội
ngũ của nó cũng khơng ngừng lớn mạnh nhờ q trình phát triển của cơng nghiệp hoá
ngày càng mở rộng trong phạm vi một quốc gia cũng như ở nhiều quốc gia khác nhau.
Giai cấp công nhân là giai cấp thuộc những người lao động, điều đó là cơ sở khách
quan cho sự liên minh vững chắc và lâu dài giữa giai cấp công nhân với các giai cấp
và tầng lớp lao động khác trong toàn xã hội, tạo thành lực lượng cách mạng của cơng
cuộc cách mạng xố bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.


6
Tổ chức lãnh đạo xã hội thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản: xố bỏ chế độ
TBCN, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và tồn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn
CNTB, từng bước xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động tiến hành đấu tranh giành
chính quyền, xác lập và bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ cho nhân dân.
Bài tập 2: Anh/chị hãy làm rõ sự xác định đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam từ năm 1991 đến nay?
Từ nhận thức đứng đắn về các quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội cũng như thế giới. Đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ

nghĩa, bài học từ chế độ xây dựng quản lý đất nước trước năm 1986 đã đi đến công
cuộc tiến hành đổi nới năm 1986. Tại Đại hội VII (1991), Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thông qua, Đảng đã xác định
mơ hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam có 6 đặc trưng: do nhân dân làm chủ; có một nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân;
các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan
hệ hữu nghĩ và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Tại Đại hội lần thứ X, “nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản nhất. Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh năm 199), Đảng cộng sản Việt Nam nhận
thấy cần phải có một Cương lĩnh mới phù hợp với tình hình đất nước và thế giới cũng
như nhiệm vụ mới của đất nước trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ sung Cương lĩnh năm
199. Từ đó, nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm và sự đóng góp trí tuệ của Đảng,
tồn qn và toàn dân Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá dộ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được thông qua tại Đại hội XI sau khi
được đưa ra thảo luận, đóng góp ý kiến công khai rộng rãi và dân chủ. Nếu trong
Cương lĩnh 1991 chỉ đưa ra 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội thì trong văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các đặc trưng đó là: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các

dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến
bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới.


7
Những đặc trưng của Cương lĩnh năm 2011 có sự bổ sung, điều chỉnh mới. Thứ nhất
là tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí cơng bằng , xuất phát từ nước ta hiện nay,
dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến cơng bằng và đến lớn
mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh. Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân,
do nhân dân xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan
quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Thứ hai, đặc trưng thứ hai được
điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ', thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và
huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp'', đây là điều cần thiết và đúng đắn Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong
những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lựclượng sản xuất. Thứ tư, Cương lĩnh 2011 xác định là ''Con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Thứ năm đó là Cương lĩnh
năm 2011 xãc định con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện, việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là chính xác thể hiện trong chủ

nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn
cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ sáu, trong Cương lĩnh
năm 2011, được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ''
bằng thuật ngữ ''tơn trọng'' hồn tồn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung
tồn diện hơn. Và cuối cùng là trong Cương lĩnh 2011, diễn đạt một cách chính xác
hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các
nước trên thế giới'' rõ ràng rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân
dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các
nước trên thế giới.
Bài tập 3: Tại sao nói Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là nhà nước khơng
cịn ngun nghĩa, chỉ còn một nửa nhà nước và là nhà nước tự tiêu vong?
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lê nin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện
chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa
vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc
về giai cấp cơng nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất
cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ
nghĩa.


8
Bản chất về chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân
là sự thống trị về chính trị của giai cấp vơ sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số
giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân
dân lao động khác trong xã hội. Nó khác với sự thống trị của các nhà nước trước đây
là sự thồng trị của giai cấp bóc lột, sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp,

tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Cho
nên nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quyền lực nhà nước thống nhất,
khơng phân chia nhưng có sự phân cơng và phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế
chủ nghĩa xã hội, sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu bao gồm sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể, xóa bỏ dần nhưng mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, do đó, khơng
cịn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lọt. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy
chính trị-hành chính, một cơ quan cương chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế-xã
hội của nhân dân lao động. Mục tiêu hang đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa là chăm
lo cho lợi ích của đa số nhân dân lao động. Nó khơng còn là nhà nước theo đúng
nghĩa, mà chỉ là “nửa nhà nước”.
Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước
cũng khơng cịn, nhà nước “tự tiêu vong”. Cơ sở xã hội cho sự ra đời, tồn tại của nhà
nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được và cơ sở kinh tế là chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất. Vì thế khi những cơ sở sở xã hội và kinh tế này mất đi thì nhà
nước-bộ máy cai trị của giai cấp thống trị sẽ mất đi. Giai cấp tiêu vong thì nhà nước
cũng tiêu vong. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hiệp tự do và bình
đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem tồn thể bộ máy nhà nước, nhà nước sẽ có
thể tiêu vong hoàn toàn khi xã hội đã thực hiện được nguyên tắc: “làm hết năng lực,
hưởng theo nhu cầu”, nghĩa là khi người ta đã rất quen tôn trọng những quy tắc cơ bản
của đời sống chung trong xã hội, và năng suất lao động của người ta đã lên cao đến
mức người ta sẽ tự nguyện làm hết năng lực.
Với lý luận này cho chúng ta hiểu hai điều: khi giai cấp thống trị này khơng cịn thì
nhà nước của giai cấp thống trị đó sẽ mất đi và trong tương lai, khi giai cấp khơng
cịn, nghĩa là mâu thuẫn đối kháng giai cấp mất đi thì nhà nước nước sẽ hồn tồn mất
đi chức năng giai cấp của mình, chỉ cịn duy nhất chức năng xã hội, lúc đó nhà nước
trở thành thiết chế tự quản trong xã hội và thực hiện các chức năng xã hội thuần túy vì
cộng đồng. Sự tự tiêu vong của nhà nước hay tự mất đi của nhà nước nghĩa là sự tiêu

vong đó khơng phải do ý chí chủ quan của một chủ thể nào trong xã hội mà đây là quá
trình tự nhiên, tất yếu theo quy luật vận động khách quan của xã hội loài người, dù
giai cấp thống trị bằng cách này hay cách khác để cố giữ địa vị thống trị của mình thì
sớm hay muộn nhà nước của giai cấp thống trị đó sẽ bị mất đi khi điều kiện kinh tế và
xã hội của giai cấp này mất đi.


9



×