Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG CỦA ĐỒNG BÀO ÊĐÊ Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.75 KB, 36 trang )

VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG
CỦA ĐỒNG BÀO Ê-ĐÊ
Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu...........................................................................3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ...........................................................................................4
1.1. Đặc trưng về tộc người Ê-Đê ................................................................................4
1.1.1. Tộc người Ê-Đê ..............................................................................................4
1.1.2. Lịch sử hình thành bn .................................................................................7
1.2. Khái niệm về cồng chiêng .....................................................................................9
1.2.1. Cồng chiêng và sinh hoạt cồng chiêng ...........................................................9
1.2.2. Vai trị, cơ cấu và mơi trường sử dụng cồng chiêng .....................................11
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỜI SỐNG SINH HOẠT NGƯỜI DÂN ĐẾN
VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG ......................................................................................17
2.1. Dàn chiêng trong đời sống văn hóa của người Ê Đê ..........................................17
2.2. Ảnh hưởng đời sống sinh hoạt của người dân đến văn hóa cồng chiêng hiện nay
....................................................................................................................................18
2.2.1. Sự thay đổi trong lao động...........................................................................18
2.2.2. Sự thay đổi trong môi trường sinh hoạt ........................................................21
2.2.3. Sự biến đổi thông qua biến đổi xã hội ..........................................................23
2.2.4. Sự thay đổi do ảnh hưởng tôn giáo ............................................................... 26
KẾT LUẬN ..................................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................33


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Trong thời đại ngày nay - thời đại của q trình cơng nghiệp hố hiện đại hoá đất
nước - nền kinh tế ngày càng phát triển, kéo theo đó là những vấn đề về giao lưu văn
hoá, mở cửa hội nhập và phát triển là tất yếu. Các quốc gia trên thế giới ngày càng
xích lại gần nhau hơn thì văn hố dân tộc ngày càng trở thành một trong những vấn đề
quan trọng của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Cũng như mọi lĩnh vực hoạt động khác, văn hố có cấu trúc nội tại của mình và
mối liên hệ giữa nó với kinh tế – xã hội, giữa nó với các nền văn hoá lân cận, khu vực
và thế giới. Nhu cầu học hỏi, trao đổi, hiểu biết lẫn nhau để làm giàu thêm nền văn hố
của dân tộc mình cũng là một nhu cầu tất yếu của phát triển. Mỗi dân tộc ln có ý
thức giữ gìn và phát triển bản sắc văn hố dân tộc mình trên cơ sở tâm lí, thị hiếu,
phong tục, trình độ của dân mình, nước mình.
Văn hố Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đã và đang có nhiều điều kiện để phát
triển đồng thời cũng đối diện với khơng ít những thách thức. Bởi lẽ, trên con đường
hoà nhập với thế giới, văn hoá Việt Nam đang đứng trước thử thách lớn của thời đại là
làm sao vừa có thể theo kịp trình độ phát triển chung của nhân loại vừa có thể giữ
được độc lập về văn hoá, vừa bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của
văn hoá dân tộc. Trong bài phát biểu “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá phi vật chất
của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” GS. Trần Văn Khê đã từng viết: “Các điều kiện
chính trị, xã hội kinh tế của Việt Nam hiện nay, cuộc chiến tranh giải phóng kéo dài
gần nửa thế kỉ, sự lai tạo giữa các tộc người và các nền văn hoá, sự phát triển của các
phương tiện truyền thông đại chúng, sự thay đổi nếp sống, sự tấn công vào truyền
thống dân gian của các hình thức âm nhạc và múa được du nhập từ phương Tây với sự
hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật và tài chính dồi dào, tất cả những điều đó đã tác
động mạnh đến di sản văn hoá của người Việt cũng như của các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Kết quả là các hình thức âm nhạc và múa truyền thống đang bị suy giảm, thậm
chí biến mất đi” [3, tr. 85].
Trong bối cảnh đó, những nét sinh hoạt cồng chiêng trong đời sống văn hoá tinh
thần của ngưởi dân Ê-Đê ở tỉnh Đắk Lắk có sự ảnh hưởng và thay đổi. Đặc biệt hơn là
khi nền kinh tế thị trường len lỏi đến tận ngõ ngách của cuộc sống thì nét văn hoá
truyền thống tốt đẹp ấy lại đứng trước những thử thách khó khăn bởi những nền văn

1


hoá mới, văn hoá ngoại lai đang từng ngày từng giờ làm thay đổi nếp sống của họ và
có thể phá huỷ đi khơng ít những nét văn hố tốt đẹp nhất trên cả phạm vi gia đình,
bn làng và cộng đồng tộc người.
Từ xa xưa, đối với các dân tộc Tây Nguyên nói chung và dân tộc Ê-Đê ở tỉnh
ĐakLak nói riêng sinh hoạt cồng chiêng khơng thể thiếu được trong đời sống hàng
ngày. Không biết tự bao giờ, cồng chiêng đã gắn bó mật thiết với đời sống văn hoá
tinh thần của các tộc người nơi đây tạo nên một nét văn hoá đặc trưng trên mảnh đất
cao nguyên hùng vĩ này. Tiếng cồng, tiếng chiêng như một nốt nhạc thiêng nhập vào
hồn họ từ lúc mới cất tiếng khóc chào đời cho tới khi nhắm mắt xi tay. Cồng chiêng
là thứ nhạc khí thần thánh thể hiện tiếng nói riêng của đồng bào. Cồng chiêng cịn là
phương tiện giao lưu với thần linh, là tín hiệu báo tin cho bộ tộc, bà con biết có những
việc lớn trong làng sẽ diễn ra, là tài sản có giá trị nhất trong mỗi gia đình, dịng họ và
mỗi thành viên trong cộng đồng. Điều này cho thấy cồng chiêng vừa có giá trị vật chất
vừa có giá trị trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây.
Đơ thị hố và giao lưu văn hố là q trình tất yếu đang diễn ra, đang làm biến
đổi mạnh mẽ văn hoá các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đặc biệt là người Ê-Đê tỉnh
Đaklak và các buôn làng của họ ở thành phố Bn Ma Thuột: Tính hai mặt tích cực và
tiêu cực của q trình biến đổi đời sống văn hoá – xã hội của các dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên đang đặt ra những vấn đề cấp bách nhằm bảo tồn và phát triển nền văn
hoá dân tộc theo phương châm: “dân tộc, khoa học, đại chúng, dân chủ và nhân văn”
mà Đảng ta đã đề ra.
Một thực tế đáng báo động là cồng chiêng – nhạc cụ phổ biến của các dân tộc
thiểu số ở tỉnh Đaklak đang đứng trước nguy cơ bị mai một dần. Những bài chiêng
cũng đang có nguy cơ bị thất lạc. Đó là một thực trạng đau lịng mà những người tâm
huyết với nền văn hoá truyền thống của dân tộc không thể thờ ơ được. Xa hơn, xét về
mặt văn hố xã hội thì sự biến đổi trong sinh hoạt cồng chiêng của các dân tộc Tây
Nguyên và trong cộng đồng người Ê-Đê phản ánh những biến đổi trong đời sống kinh

tế – văn hoá – xã hội của họ.
Các yếu tố mới nảy sinh trong thời kì hiện nay đã thực sự kích thích sự thay
đổi của môi trường biểu diễn cồng chiêng theo chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Người dân Ê-Đê có thực sự hài lịng với những gì mà cuộc sống mới mang lại khơng?,
cồng chiêng trong đời sống sinh hoạt văn hố của họ có cịn quan trọng khơng?. Qua
2


bài nghiên cứu này, chúng tơi góp phần khẳng định những giá trị văn hố mà ơng cha
đã tạo dựng nên trong suốt q trình lịch sử, từ đó mong muốn lưu giữ cái gốc văn hoá
của người dân nơi đây, phát huy truyền thống tốt đẹp của văn hoá cồng chiêng trong
cuộc sống hiện nay với xu hướng hòa nhập chứ khơng hịa ta.
2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã chọn
đối tượng nghiên cứu chính và xuyên suốt đề tài là vấn đề: “Văn hóa cồng chiêng của
đồng bào người Ê-Đê tại Tây Nguyên hiện nay”.
- Nội dung nghiên cứu: Nội dung chính trong đề tài này được chúng tập trung
hướng đến là làm nổi bật thực trạng sinh hoạt cồng chiêng trong đời sống của người
dân Ê-Đê dưới tác động của các nhân tố điều kiện kinh tế – xã hội hiện nay.

3


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT
1.1. Đặc trưng về tộc người Ê-Đê
1.1.1. Tộc người Ê-Đê
Dân tộc Ê-Đê là cư dân thuộc ngôn ngữ Malayo – Polinexia (cùng nhóm với dân
tộc Raglai, Chăm, Churu, Giarai), sinh sống chủ yếu ở Tây Nguyên mà phần lớn ở
Đắk Lắk, một bộ phận ở Gia Lai – Kon Tum và vùng núi tỉnh Khánh Hoà. Người ÊĐê là cư dân đã có mặt lâu đời ở vùng Đaklak. Theo Tổng Cục Thống Kê (năm 1979),
dân tộc Ê-Đê có 130.000 người, riêng tỉnh Đaklak có 110.000 người, đến năm 2001 thì

có 270.348 người (tồn quốc) và 249.096 người (tỉnh Đaklak), sống tập trung ở các
huyện Krông Buk, Krông Ana, Krông Bông, Cư M’gar, Ea Kar, Ea Tiêu và Thành phố
Bn Ma Thuột.
Ê-Đê là tộc danh chính của cộng đồng tộc người Ê-Đê nói chung, trong đó có
nhiều nhóm địa phương như Ê-Đê Kpă, Ê-Đê Adham, Ê-Đê Mthur, Ê-Đê Mlơ, Ê-Đê
Êpan…Nhóm Ê-Đê Kpă tập trung xung quanh Thành phố Bn Ma Thuột, từ sớm đã
có những quan hệ văn hoá giao lưu với người Việt, chịu ảnh hưởng nhất định của văn
minh đơ thị, phân hố xã hội và giai cấp tương đối rõ. Tiếng Ê-Đê có ảnh hưởng nhất
định đến tiếng nói của các dân tộc ít người khác ở tỉnh Đaklak. Người Ê-Đê có chữ
viết riêng, có nền văn hố lâu đời, phong tục tập qn còn in đậm dấu ấn của chế độ
thị tộc mẫu hệ.
a. Kinh tế:
- Nông nghiệp: Người Ê-Đê là cư dân nông nghiệp lâu đời. Trong sản xuất,
nương rẫy chiếm vị trí trọng yếu. Trên nương rẫy ngồi cây lúa là cây trồng chính cịn
có: ngơ, khoai, sắn, bơng… nhưng gạo vẫn là lương thực chính. Đặc điểm của việc
canh tác nương rẫy của người Ê-Đê trước đây là hình thức luân canh. Rẫy sau một thời
gian canh tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại đốt, phá … Chu kì canh tác từ
khoảng 5 –8 năm tuỳ theo độ phì nhiêu và khả năng phục hồi của đất. Rẫy đa canh và
mỗi năm chỉ trồng một vụ. Phương thức sản xuất giản đơn: phát – đốt – chọc lỗ– tra
hạt. Bên cạnh việc canh tác nông nghiệp, chăn ni cũng giữ một vai trị khá quan
trọng. Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều nhất là
gà nhưng chăn ni chủ yếu phục vụ cho tín ngưỡng. Theo quan niệm truyền thống
của người Ê-Đê thì trong các nghi lễ và sinh hoạt cộng đồng, càng hiến sinh nhiều súc
vật càng vinh dự, càng tơn vinh vị trí xã hội của người hiến sinh.
4


- Thủ công nghiệp: Bên cạnh nông nghiệp và chăn ni, các hình thái kinh tế
chiếm đoạt cịn khá phổ biến nhưng chỉ ở vị trí thứ yếu. Săn bắn hái lượm là những
hoạt động kinh tế từng được đông đảo cư dân tham gia. Trước đây săn bắn kết hợp

chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp để chống lại các loại thú phá hoại mùa màng. Đây
cũng là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng, một thú vui của mọi thành viên nam giới
trong làng và hầu như gia đình nào cũng có những dụng cụ phục vụ cho việc săn bắn
như: nỏ, lao, các loại tên. Đối với người Ê-Đê, nghề thủ công quan trọng nhất là nghề
rèn. Nghề rèn đã cung cấp công cụ sản xuất như: lưỡi rìu, xà gạc, cá loại lưỡi cuốc và
cả vũ khí để tự vệ và săn bắn. Ngồi ra người dân Ê-Đê cịn có nghề dệt vải, đan lát …
Phương tiện vận chuyển chủ yếu là gùi đan mang trên lưng bằng đơi quai qng qua
vai.
b. Văn hóa
Văn hóa nhà cửa: Do cư trú ở những vùng có điều kiện địa lý, mơi sinh khác
nhau nên có sự khác biệt trong cấu trúc nhà ở. Ngôi nhà truyền thống của người Ê-Đê
là nhà sàn dài kiến trúc mơ phỏng hình thuyền. Nhà sàn của người Ê-Đê là không gian
cư trú cịn chịu nhiều tàn dư của kiểu đại gia đình mẫu hệ và được mô tả là “dài hơn
một hơi ngựa chạy”, không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phòng
đầu gọi là gah, vừa là phịng khách vừa là nơi sinh hoạt cơng cộng của cả đại gia đình
mẫu hệ. Phần cịn lại gọi là ôk, chia thành từng buồng có vách ngăn bằng phên, nứa
dành cho các cặp hơn nhân. Hiện nay q trình phân rã ngôi nhà sàn dài truyền thống
của người Ê-Đê đang diễn ra do tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội mới.
Văn hóa trang phục: Ngày nay, hầu hết các buôn của người Ê-Đê ở tỉnh Đaklak
thanh niên nam nữ đã quen dùng y phục hiện đại, nhất là ở các thành phố, thị xã, ven
các trục lộ giao thơng nơi có điều kiện thuận lợi cho q trình giao lưu văn hố. Trang
phục truyền thống chỉ còn thấy ở những người lớn tuổi, ở những vùng xa và trong
những ngày lễ hội truyền thống. Điều đó nói lên q trình hội nhập của các dân tộc
theo xu hướng chung về trang phục.
Văn hóa ẩm thực: Nguồn lương thực quan trọng là lúa gạo và các nơng sản khác.
Người Ê-Đê thích uống rượu cần khơng chỉ trong những ngày lễ tết mà còn trong
những ngày thường. Từ trẻ em đến các cụ già không phân biệt nam nữ đều biết uống
rượu và coi đó là một thú vui.

5



Văn hoá tinh thần: Thể hiện rõ nhất trong bản sắc văn hoá dân tộc là văn hoá dân
gian. Nền văn học dân gian của dân tộc Ê-Đê rất phong phú và nhiều thể loại như:
truyền thuyết, truyện cổ, sử thi… Người dân tộc Ê-Đê là chủ nhân của những bản
trường ca mang tính sử thi, khan rất được ưa chuộng.
Thông qua lao động sản xuất và cuộc đấu tranh không ngừng chống chọi với
thiên nhiên khắc nghiệt, thú rừng hung dữ để bảo tồn nòi giống, đồng bào Ê-Đê đã
hình thành cho mình truyền thống văn hố đa dạng, phong phú và giàu bản sắc. Chính
cơng cuộc lao động sản xuất, chiến đấu xây dựng và bảo tồn nòi giống đã hình thành
nên ý thức cộng đồng. Người Ê-Đê có tính cộng đồng rất cao và là cội nguồn, là chất
liệu, là điều kiện, môi trường sáng tạo ra kho tàng Văn hố dân gian nói chung, âm
nhạc dân gian nói riêng. Đó là những làn điệu hát Ayray, kể Khan và đặc biệt là những
bản trường ca bất hủ chẳng những là niềm tự hào của dân tộc Ê-Đê mà cịn góp phần
khơng nhỏ trong kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam. Người Ê-Đê sáng tạo ra rất
nhiều các nhạc cụ dân gian không chỉ biết đến trong phạm vi đất nước Việt Nam mà
còn được nhiều nước trên thế giới biết đến. Đó là một niềm tự hào. Cụ thể là đàn Kní,
đàn Brố, đàn Gơng (nhóm dây); đinh Năm, đinh Tút, Kypah, đinh Buốt Chốc, đinh
Buốt Plé, đinh Tặc Tà, đinh Piktơr, đinh Ring, đinh Téc (nhóm hơi); Krơng, Hoan Giu,
Ana Kngan, Hdang Hgơr, đinh Reo, ching Kram và ching bằng đồng (nhóm gõ).
Trong các nhạc cụ trên, âm nhạc cồng chiêng được xem là linh hồn, là máu thịt của
người Ê-Đê, nó gắn bó rất chặt chẽ trong đời sống văn hoá tinh thần của người dân:
“Những bộ chiêng vàng, chiêng bạc, để dưới thấp mà đánh, tiếng chiêng kêu làm chao
đảo sàn nhà. Treo ở trên cao mà đánh, tiếng chiêng làm lung lay ngọn núi. Tiếng
chiêng khiến cho lũ vượn trên cây quên cả việc chuyển cành, con hoẵng, con thỏ, con
hươu sao quên ăn cỏ, con khỉ quên đi hái trái cây, những con voi và tê giác cũng phải
lắng nghe mà quên cả cho con bú” (“Bài ca chàng Đam San”, Nhà xuất bản Văn hóa
Dân tộc(1992), 24-25)
Cồng chiêng gắn liền với đời sống tâm linh tín ngưỡng của người Ê-Đê. Nó được
“thiêng hố” theo thời gian, được xem là tài sản q giá của đồng bào, là thứ nhạc

khơng thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa, và ln giữ một vị trí quan trọng trong cộng
đồng gia đình, xã hội buôn làng Ê-Đê.

6


1.1.2. Lịch sử hình thành bn
a. Xã hội
Làng được người dân Tây Nguyên gọi là buôn, buôn làng, là đơn vị cư trú cơ
bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Ở mỗi làng có một người đứng đầu được gọi là
chủ bến nước (pô pin ea) điều hành mọi hoạt động của cộng đồng. Nhìn chung thì tinh
thần cộng đồng buôn làng được thể hiện ở sự giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất cũng
như trong sinh hoạt hàng ngày. Người ta giúp nhau phát rẫy, trồng trỉa, làm cỏ rào
nương, với thói quen là mỗi gia đình đổi công cho nhau cân xứng và họ luôn đùm bọc
nhau, bảo vệ nhau về danh dự. Số phận một người lệ thuộc và tạo nên số phận của cả
buôn. Hiếu khách là đặc trưng về mối quan hệ xã hội của dân tộc Ê-Đê.
Tên buôn được đặt theo vị trí địa lý hoặc tên người sáng lập ra bn. Ví dụ như:
bn Kọ Sier ngày xưa bn gốc là bn AlêA, sau đó là bn AMa Thuột, và ngày
xưa cịn gọi là bn Hoang- bn Y Ngn. Người tù trưởng đã ở buôn này và bỏ
buôn AlêA. Buôn Kọ Sier sát với đường cái nhưng bây giờ thì lần lần rút sâu vào
trong. Trong bn có 2 nguồn suối, bên này có nguồn suối (chỉ về đầu làng) năm nào
cũng cúng, khơng có mưa thì phải cúng con trâu, bên kia cũng có một nguồn suối (chỉ
về cuối làng), nhưng đây là nguồn suối chính, họ cúng cầu mưa cũng ở nguồn suối
này. Hay buôn Kọ Thôn: theo giải thích của đồng bào Ê-Đê thì Kọ là đầu, Thơn là
thung lũng – Kọ Thôn tức là đầu lũng, bởi vì bn nằm ở vị trí ở đầu một thung lũng,
có nguồn suối và cây cối xung quanh.
Gia đình Ê-Đê là gia đình mẫu hệ, cư trú hơn nhân ở phía nhà vợ, con mang họ
mẹ, con gái út là người thừa kế. Người con gái và họ nhà gái nắm vai trị chủ động
trong hơn nhân. Vì thế, trong gia đình người đàn bà nắm quyền quyết định mọi vấn đề
có liên quan đến đời sống gia đình và là người quản lí tài sản, tuy nhiên trong gia đình

và tồn xã hội lao động của người đàn ơng lại đóng vai trị hết sức quan trọng.
Xét về q trình phát triển lịch sử thì tính cộng đồng bn làng ở người Ê-Đê
được duy trì lâu dài và trên nhiều phương diện là một truyền thống tốt nhưng mặt khác
cũng là biểu hiện của tính trì trệ trong sự phát triển của các quan hệ xã hội tiền tư bản
chủ nghĩa. Nhìn chung sự phân hố xã hội cũng đã xuất hiện xã hội người Ê-Đê.
Mặc dù sống trong những điều kiện kinh tế xã hội như vậy nhưng trải qua quá
trình lịch sử, các dân tộc Ê-Đê đã sáng tạo nên những yếu tố văn hoá độc đáo, thể hiện
rõ những đặc điểm tộc người và mối quan hệ dân tộc ở địa phương và ở trong vùng.
7


Về trình độ kiến thức phổ thơng của người dân Ê-Đê ở trong buôn đã phát triển.
Con em trong buôn đã được đi học và có dịp tiếp xúc với nhiều mối quan hệ xung
quanh, khơng cịn bó hẹp trong phạm vi buôn làng như ngày trước, cụ thể trong bn
có người được đi học xa như ở thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Đà Nẵng… Nếp sống
và phong tục tập quán truyền thống của người dân Ê-Đê ở các bn vẫn cịn giữ được
nét truyền thống: đó là sự gắn bó bởi dịng họ, tín ngưỡng, ngơn ngữ cộng đồng, gần
gũi với thiên nhiên, mối quan hệ giữa người và người ít có tính vụ lợi. Nhưng khi tiếp
xúc với cơ chế thị trường các dân tộc thường bị lợi dụng lòng thật thà trở thành những
nạn nhân của những kẻ buôn gian bán lận. Người dân Ê-Đê sống trong ngôi nhà sàn
dài, sinh hoạt lễ hội đánh cồng chiêng, uống rượu cần… đó là những nét văn hoá
truyền thống của đồng bào. Tuy nhiên, so với ngày trước thì các lễ hội sinh hoạt chung
trong cộng đồng hiện nay khơng cịn nhiều nữa như: lễ cúng cầu mùa, các lễ cúng
nơng nghiệp, cúng bến nước… Nói về lễ hội thì phần lớn người dân tộc Ê-Đê khơng
có lễ hội. Nghĩa là họ chỉ có phần lễ chứ khơng có phần hội, hội là do người Kinh áp
đặt vào ví dụ như lễ mừng nhà mới, lễ cưới… Tất nhiên là trong cái lễ của họ bao giờ
cũng có rượu cần, đánh cồng chiêng mà đánh chiêng thì thường đi cùng với nhảy múa.
Như thế, người Kinh cho đó là hội.
Nói chung là trong mỗi cái lễ đều có các nghi lễ tiến hành theo phong tục khác
nhau và mang tính lễ nhiều hơn như lễ đâm trâu, lễ cúng mùa… Trong năm, bà con

trong buôn sẽ tổ chức sinh hoạt chung vào ngày lễ Noel và ngày tết Nguyên Đán mà
thôi. Vào những ngày này mọi người đều tụ tập tại nhà già làng rồi cùng nhau sinh
hoạt, ăn uống, đánh cồng chiêng. Hiện nay trong buôn có một đội cồng chiêng gồm
những nghệ nhân lớn tuổi, chơi lâu năm và đã thành lập được một đội chiêng nhỏ gồm
các thiếu niên trong độ tuổi từ 10 – 15, được tập luyện thường xuyên.
Như vậy cuộc sống thay đổi, bà con trong bn có điều kiện tham gia vào một
mơi trường mới, đó là sự ảnh hưởng của những cái được gọi là “lối sống mới”. Xã hội
hiện đại đã tác động làm cho cuộc sống của đồng bào Ê-Đê cũng thay đổi theo, chẳng
hạn như một số lễ hội đang ngày bị mai một, một số lễ hội đã hoàn toàn mất hẳn. Điều
này làm cho sinh hoạt cồng chiêng cũng bị ảnh hưởng và suy giảm đi đáng kể, tuy
nhiên, khơng vì thế mà làm mất đi hoàn toàn những cái được gọi là giá trị truyền thống
của bn mình – thế nên cồng chiêng vẫn được đánh, rượu cần vẫn được uống, vẫn ít
nhiều giữ được cái bản sắc văn hóa của bn làng.
8


1.2. Khái niệm về cồng chiêng
1.2.1. Cồng chiêng và sinh hoạt cồng chiêng
Cồng chiêng: là một loại nhạc khí biểu hiện tính cộng đồng rất cao. Nó khơng thể
thiếu vắng trong tất cả các lễ hội của đồng bào Ê-Đê.
Cồng chiêng Ê-Đê là một loại nhạc khí có chất liệu hoàn toàn bằng kim loại,
được đúc bằng đồng. Tuy nhiên cũng có nhiều loại chiêng rất q, có thể được đúc
bằng các hợp kim như: gang, chì, đồng có khi pha cả vàng, bạc nữa…… Cồng chiêng
là cách gọi phổ biến và chung nhất của nhiều người, nhưng trên thực tế thì mỗi dân tộc
lại có những tên gọi riêng cho cồng chiêng kể cả thành phần cơ cấu, biên chế. Theo
cách gọi của đồng bào Ê-Đê thì cồng chiêng có nghĩa là chinh, người Bana thì gọi là
chinh chêng, người Xê Đăng gọi là gơng chiêng, cịn các dân tộc thiểu số ở phía Bắc
thì gọi là cồng… Cách gọi của người Việt khi nói về cồng chiêng của các đồng bào
dân tộc thiểu số có sự khác nhau. Nói đến cồng chiêng thì nhìn vào hình thức của nó
chúng ta sẽ thấy có hai loại: loại có núm (có người gọi đó là cồng) và loại khơng có

núm hay là chiêng bằng (gọi là chiêng). Mỗi loại đều có kích thước khác nhau. Cồng
chiêng là loại nhạc khí tự thân vang. Mỗi đồng bào dân tộc ở các vùng khác nhau đều
có cách ứng xử cồng chiêng khác nhau. Đây chính là tính độc đáo của cồng chiêng ÊĐê cũng như cồng chiêng của các dân tộc thiểu số khác sống ở dãy núi Trường Sơn Tây Nguyên này.
Cồng chiêng đã thực sự đi vào đời sống hàng ngày của đồng bào các dân tộc
thiểu số một cách gắn bó gần như suốt cuộc đời của họ. Tiếng cồng chiêng xuyên suốt
cuộc đời họ, thực sự là linh hồn của người dân ở nơi đây. Từ khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ
đã được thưởng thức âm thanh của cồng chiêng qua lễ “thổi tai”. Khi lớn lên, theo
tiếng chiêng “mừng sức khỏe”, “hội mùa”… Đến khi từ giã cuộc đời thì tiếng chiêng
vẫn vang vọng tiễn đưa và… cho đến khi “lễ bỏ mả” tiếng cồng chiêng lại u hồi, ảm
đạm… để rồi từ đó mọi người mới thực sự qn. Ở đâu có lễ hội thì ở đó có sự góp
mặt của cồng chiêng và nó được xem là một vật không thể thiếu trong các buôn làng
người dân tộc Ê-Đê ở Tây Ngun. Nó cịn được xem như là một phương tiện để giao
tiếp với thần linh, là tiếng nói của đồng bào giao tiếp với thần linh để cầu mong các vị
thần phù hộ cho họ có được mùa bội thu và n bình.

9


Cồng chiêng, nó thể hiện đầy đủ tâm tư nguyện vọng, tình cảm mừng vui, buồn
đau, căm giận của con người. Cồng chiêng được sử dụng và gìn giữ với hình thức cha
truyền con nối.
Cồng chiêng khơng chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật, về phong tục tập quán, âm
nhạc mà cịn có giá trị kinh tế rất cao. Cồng chiêng thể hiện sự giàu có, hùng mạnh của
đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào Ê-Đê nói riêng.
Chinh là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng phổ biến và độc đáo của người Ê-Đê nói
riêng và của các dân tộc Tây Nguyên nói chung. Chinh là loại nhạc cụ đã được thiêng
hoá, theo quan niệm của người Ê-Đê có thể giúp con người tiếp xúc với thần linh
(giàng). Vì vậy chinh thường có mặt trong các lễ hội lớn gắn với vòng đời người và có
giá trị kinh tế rất cao (một chinh q có thể đổi được một con voi hay 20 con trâu).
Chinh Ê-Đê gồm có chinh dẹt và chinh núm…

Sinh hoạt cồng chiêng: Đây là một khái niệm được nhiều nhà dân tộc học, âm
nhạc học, văn hoá học… sử dụng. Sinh hoạt cồng chiêng là một hình thức sinh hoạt
văn hố dân gian (Folklore) hết sức độc đáo. Hình thức sinh hoạt này địi hỏi phải có
mơi trường diễn tấu và sẽ đáp ứng được nhu cầu tinh thần của con người. Sinh hoạt
cồng chiêng cũng có thể được xem là một hình thức sinh hoạt dân gian. Sinh hoạt cồng
chiêng cịn có thể hiểu đó là hoạt động khơng thể thiếu được trong đời sống văn hoá
tinh thần của đồng bào Ê-Đê nói riêng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung.
Nó gắn bó rất chặt chẽ trong cuộc sống con người. Sinh hoạt cồng chiêng biểu hiện rõ
tính bình đẳng, dân chủ của người Ê-Đê trong việc sở hữu hưởng thụ âm nhạc. Và âm
nhạc dân gian là sản phẩm của một xã hội có giai cấp biểu hiện rõ nét nhất là ở tính
cộng đồng cao trong sinh hoạt âm nhạc. Đó là tài sản chung của tồn thể cộng đồng
chứ khơng phải là đặc quyền của tầng lớp nào.
Sinh hoạt cồng chiêng là một hình thức sinh hoạt truyền thống của đồng bào ÊĐê. Nó gắn liền với các lễ hội và đây hình thức sinh hoạt cộng đồng. Sinh hoạt cồng
chiêng gắn bó với vịng đời con người, bắt đầu từ lúc cha mẹ làm lễ thổi tai xin các
Yàng và cộng đồng chứng giám cho sự ra đời của đứa trẻ, cho đến tận ngày chiếc
chiêng Moong dẫn đưa linh hồn về với nước ông bà. Từ những lễ khẩn cầu các thần
linh theo nông lịch cho đến niềm vui nỗi buồn chung của cả bộ tộc. Xuất phát điểm
của cồng chiêng là nghi lễ sinh hoạt. Chỉ cần nghe âm điệu cồng chiêng vang lên là
biết ngay ở đó có việc gì đang xảy ra. Khơng thiếu mặt trong bất kì lễ thức nào của
10


cộng đồng con người, tiếng cồng chiêng khơng chì nhằm giao lưu với các thần linh, là
phương tiện thông tin đến họ hàng, bạn bè mà cịn chính là tiếng nói tâm linh là tâm
hồn cao ngun đầy trữ tình và cháy bỏng khát vọng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
Sinh hoạt cồng chiêng của người Ê-Đê trước tiên là nó gắn với lễ nghi với đồng bào
dân tộc. Khi làm lễ cúng mà khơng có cồng chiêng thì coi như khơng cúng, khơng có
nghi lễ.
Như vậy sinh hoạt cồng chiêng là sinh hoạt âm nhạc khá phổ biến và thường gắn
bó chặt chẽ với cuộc sống, là tấm gương phản ánh cuộc sống đa dạng của một vùng

đất, là tiếng nói nội tâm và ước vọng của con người có sức sống mạnh mẽ trong cộng
đồng và phát triển theo những chặng đường tiến hoá của xã hội Tây Ngun.
1.2.2. Vai trị, cơ cấu và mơi trường sử dụng cồng chiêng
- Vai trò:
Đối với đồng bào Ê-Đê, cồng chiêng và nhạc cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ
thuần tuý, nó cịn là phương tiện giao tiếp với thần linh. Cồng chiêng thực sự là một
nhạc cụ gắn bó với con người từ khi mới chào đời cho đến khi già yếu, bệnh tật, lìa
trần. Lúc nào tiếng chiêng cũng vang vọng như âm thanh của gió, của núi rừng đại
ngàn rất đỗi quen thuộc đối với cư dân ở vùng cao nguyên nói chung, đồng bào các
dân tộc Ê-Đê nói riêng.
- Chủng loại và cơ cấu:
Chiêng (đồng bào Ê-Đê gọi là Ching) có rất nhiều chủng loại, mỗi chủng loại có
mức độ quý hiếm khác nhau. Có bộ chiêng chỉ tương đương là một con trâu, có bộ
chiêng đổi tới 20 con trâu, có bộ bằng 3 con voi, lại có bộ chiêng “ngang giá” 12
người nơ lệ. Như vậy, cồng chiêng có một giá trị phi vật chất rất cao.
Theo thống kê của Sở VHTT Đaklak thì tồn tỉnh chỉ còn 3825 (năm 2001) bộ
cồng chiêng, chỉ trong mấy năm mà số lượng cồng chiêng mất khoảng 35% và sẽ có
nguy cơ ngày càng mất dần.
Cụ thể hơn, số liệu thống kê thu được tồn thành phố Bn Ma Thuột (gồm 27
buôn dân tộc với tổng số dàn chiêng là 131 bộ) như sau:

11


BẢNG 1: THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG CỒNG CHIÊNG TRONG CÁC BN
(Thành phố Bn Ma Thuột)
Bn

Phường / xã


Số lượng(bộ)

Bn Ky

P. Thành Nhất

2

Buôn Kọ Thôn

P. Tân Lợi

1

Buôn Ea Bây

Xã Cư Ê Bur

22

Buôn K’tur

Xã Cư Ê Bur

11

Buôn Đung

Xã Cư Ê Bur


6

Buôn P’tha

Xã Cư Ê Bur

12

Buôn Kọ Tam

Xã Ea Tu

2

Buôn Nao B

Xã Ea Tu

3

Buôn Kon Rơng Prong A

Xã Ea Tu

16

Buôn Kon Rơng Prong B

Xã Ea Tu


3

Buôn Jù

Xã Ea Tu

1

Buôn Alê A

P. Ea Tam

3

Buôn M’túc

P. Ea Tam

1

Bn Kọ Sier

P. Tân Lập

23

Bn KămLeo

Xã Hồ Thắng


4

Bn Cr Kăp

Xã Hồ Thắng

10

Bn Tâng Ju

Xã Ea Kao

2

Bn H

Xã Ea Kao

3

Bn H’đơk

Xã Ea Kao

2

Buôn Bông

Xã Ea Kao


1

Buôn Kao

Xã Ea Kao

2

Buôn H’rat

Xã Ea Kao

1

Bn E Rang

P. Khánh Xn

Khơng cịn

Bn Nao B

Xã Ea Tu

Khơng cịn

Bn Păn Lăm

P. Tân An


Khơng cịn

Bn Alê B

Xã Ea Tam

Khơng cịn

Bn Cư M’lum

Xã Ea Kao

Khơng cịn

(Số liệu thống kê của phòng VHTT Đaklak – 2001).
12


Ching Ê-Đê (còn gọi là Ching Knác), Ching Ê-Đê là một bộ phận dàn gồm
chiêng dẹt và chiêng núm. Dàn chiêng thường có 10 chiếc (khơng kể trống H’gơr, kèn
Kypah và đinh reo phụ hoạ).
Dàn chiêng đủ bộ 10 chiếc gồm có:
Số thứ tự

Tên chiêng

Đường kính

1


H’l Khơk Điết

30-37 cm

2

H’l H’liang

32-42 cm

3

H’ luê Khơk

34-45 cm

4

K’nah Khơt

37-48 cm

5

K’nah H’liang

38-53 cm

6


K’nah Ti

42-57 cm

7

Moong Ching

8

M’đu Ching

62-65 cm

9

Ana Ching

60-73 cm

10

Char

70-82 cm

65 cm

Dàn chiêng đủ bộ 10 chiếc gồm có 3 chiêng núm: Moong Ching, M’đu Ching,
Ana Ching và 7 chiếc chiêng dẹt (không núm) là: H’luê Khớt Điết, H’luê H’liang,

H’luê Khơt, K’nah Khơk, K’nah H’liang, K’nah Ti, Char.
Nhóm chiêng núm và Char có thể tham gia hoặc khơng tham gia cùng dàn chiêng
tuỳ theo tính chất của buổi lễ và buổi đánh chiêng nhưng bộ H’luê và K’nah- chiêng
dẹt gồm 6 chiếc là một thể thống nhất không thể tách rời, thiếu 1 trong 6 chiếc thì dàn
chiêng khơng thể tham gia diễn tấu.
Dùi đánh chiêng thường làm bằng gỗ cây đa. Loại chiêng bằng dùng dùi gỗ, loại
chiêng núm có nơi dùng nắm tay, có nơi dùng dùi gỗ. Ngày nay nhiều nơi bọc bằng
cao su hoặc bằng vải.
Bộ chiêng K’nah (gồm 6 chiêng bằng) là bộ phận khá ổn định trong dàn chiêng
về mặt tổ chức cao độ và cơ cấu của nhóm. Bộ chiêng này sắp xếp theo thứ tự từ nhỏ
tới lớn đồng thời cũng là thứ tự trên ghế Kpan (Kpan: là chiếc ghế độc mộc hình con
thuyền dày 8-10 cm, rộng 50-70 cm, dài 6-8 m để ngồi đánh chiêng) tính từ ngồi cửa
chính vào như sau:

13


1. H’luê Khơk Điết.
2. H’luê H’liang.
3. H’luê Khơk.
4. K’nah Khơk.
5. K’nah H’liang.
6. K’nah Ti.
Về phương thức sử dụng và tiết tấu âm nhạc: Bộ chiêng này hình thành 2 nhóm
đối lập nhau:
+ Nhóm H’luê: khi đánh thường đặt nằm trên lịng và nhóm K’nah thường (treo
trên địn tay nhà).
+ Nhóm Khơk: nhóm này ln đi cùng một tiết tấu và sử dụng tay trái, bịt nhiều,
tiếng đánh ngắt (nay mới gọi là Khơk. Tiếng Ê-Đê Khơk có nghĩa là ngắt).
Khác với cách đánh của bộ phận chiêng núm là gõ trên núm và mặt ngoài của

chiêng, kỹ thuật đánh chiêng dẹt là dùng dùi gỗ (không bịt da) gõ vào lịng chiêng và
gõ vào khu vực chính giữa của chiếc chiêng đó.
Nội dung các bài chiêng có nhiều nhưng qua các cuộc khảo sát điền dã đi trước
thì có thể phân ra 4 loại điệu chiêng:
- Điệu thường (Tông ai mang): điệu này thường thấy vào các lễ cúng thần, vào
lúc thầy cúng khấn thần và tiến hành các nghi thức cúng lễ khác. Tốc độ đều đặn, tiết
tấu đơn giản.
- Điệu vui (Mchếch ching): đánh khi bắt đầu uống rượu. Tốc độ nhanh, tiết tấu
phức tạp hơn.
- Điệu tang lễ (Mtio ching): đánh dồn dập cùng tiết tấu, điệu chiêng này chỉ dùng
khi gia đình vừa có người qua đời hoặc có một rủi ro nào đó đối với gia đình, dịng tộc.
Mở đầu điệu chiêng này thường là 3 hồi trống, mỗi hồi 3 tiếng, gọi Hlut Hgơr
- Điệu đưa người chết vào áo quan (Kpoh ching).
Những giai điệu của âm nhạc cồng chiêng ln gắn bó với mọi sinh hoạt của bà
con đồng bào dân tộc Ê-Đê và nó khơng thể thiếu, điều này làm cho sức sống của dàn
chiêng không ngừng vươn lên.
Nghệ nhân và môi trường diễn tấu: Chiêng Ê-Đê là một nhạc cụ đã được thiêng
hố. Do đó việc sử dụng chiêng gắn liền với nghi thức lễ cúng của người Ê-Đê. Như
chúng ta biết, hệ thống lễ cúng của người Ê-Đê khá phức tạp, đa dạng và kéo dài nhiều
14


ngày. Dàn chiêng Ê-Đê tham gia hầu hết vào những lễ cúng đó trừ những lễ cúng nhỏ
với vật hiến sinh nhỏ.
Chiêng Ê-Đê ln có vị trí diễn tấu cố định. Vị trí đó là chiếc ghế Kpan ln ln
nằm ở phía Tây của gian khách ngơi nhà sàn dài. Khơng những vị trí dàn chiêng mà vị
trí của từng chiếc chiêng trong dàn cũng đều cố định. Tuy nhiên cồng chiêng thường
đánh trong nhà sàn nhưng cũng có trường hợp chiêng được đưa ra ngoài đánh như các
buổi lễ sau:
1. Lễ cúng bến nước (Tuh Kpin êa ala buôn).

2. Tang lễ (Ngã yang diê).
3. Lễ bỏ mả (Ngã yang lui msát).
Cả 3 loại lễ kể trên chỉ mang một số chiêng đến sử dụng tại buổi lễ, không nhất
thiết phải đủ bộ, có khi một cái hoặc hai cái…)
Trong quá trình diễn ra nghi thức cúng lễ, dàn chiêng cũng xuất hiện vào những
thời điểm nhất điểm với những bài bản đã qui định. Cụ thể:
Giai đoạn 1: Sau khi giết vật hiến sinh (trâu, bò), dàn chiêng đánh điệu chiêng
thường.
Giai đoạn 2: Sau khi đổ nước đầy choé rượu cần, dàn chiêng cũng đánh điệu
chiêng thường.
Giai đoạn 3: Sau khi rót rượu để chuẩn bị cúng, dàn chiêng cũng đánh điệu
chiêng thường.
Giai đoạn 4: Trong khi thầy cúng làm lễ cúng, dàn chiêng đánh điệu chiêng
thường.
Giai đoạn 5: Bắt đầu uống rượu và trong thời gian uống rượu, đánh điệu chiêng
vui.
Nghệ nhân đánh cồng chiêng (tơng ching): Hồn tồn là nam giới, khơng có nữ
giới và đủ mọi lứa tuổi có thể chơi. Người đánh chiêng là những người lao động sản
xuất, những thành viên trong bn có năng khiếu hiểu và cảm nhận được giai điệu của
cồng chiêng. Chưa xuất hiện một tầng lớp đánh chiêng chuyên nghiệp, nhưng cho đến
những năm gần đây mới hình thành các đội chiêng. Các thành viên tham gia dàn
chiêng trong lúc đánh có thể thay nhau khi có việc cần như: uống rượu, tiếp
khách…Và trong dàn chiêng thường có một người đánh chiêng giỏi, chủ động để điều
khiển việc đánh chiêng. Trong một đội chiêng phải có đủ 10 nghệ nhân, tuy nhiên
15


trong các lễ lớn như lễ rước K’pan, lễ chúc phúc…, khi diễn tấu nhịp chiêng phải có
trống H’gơr phụ hoạ thì cần phải có đủ 11 nghệ nhân. Như vậy trong dàn chiêng: Ana
Ching, Moong Ching, Mđu Ching và Char tham gia vào chỉ có tính chất phụ họa, điểm

xuyến, “tơ màu”. Đóng vai trị chủ đạo, giữ nhịp điệu tiết tấu và tạo giai điệu âm thanh
là dàn chiêng K’nah, đặc biệt là người sử dụng chiêng K’nah Khơk phải là người có tài
năng hơn hẳn để điều khiển được nhịp điệu của toàn bộ dàn chiêng.
Cách đánh chiêng: Ngoài những bài bản định sẵn, các nghệ nhân không ngừng
sáng tạo ra cách đánh mới và được đông đảo cơng chúng chấp nhận. Đó là lối diễn tấu:
cả dàn đột ngột dừng ngắt tiết tấu, để một chiêng thể hiện và nhấn mạnh giai điệu, sau
đó cả dàn lại đồng tấu tạo nên sự hấp dẫn phong phú cho cách đánh chiêng và những
bài chiêng.
Như vậy, văn hoá cồng chiêng của người Ê-Đê rất phong phú, đa dạng, độc đáo
giàu bản sắc văn hố dân tộc mang tính đặc thù, chẳng những là niềm tự hào của dân
tộc ta mà thực sự làm phong phú thêm kho tàng văn hoá dân gian của nhân loại, như
Nhạc sĩ Vũ Lân – NSUT đã đánh giá: “Cồng chiêng khơng cịn là tầm cỡ Việt Nam
nữa mà còn là tầm cỡ thế giới rồi đó”. Cũng chính vì lẽ đó mà Giáo sư – Tiến sĩ Trần
Văn Khê – đại diện Chủ tịch Hội đồng Âm nhạc quốc tế – đã thay mặt 12 thành viên
đoàn khách quốc tế tham dự “ Diễn đàn âm nhạc Châu Á – Thái Bình Dương” lần thứ
8 đã hết lời khen ngợi: “Tuyệt vời! Tuyệt vời! Thay mặt Hội đồng âm nhạc thế giới,
tôi chân thành cảm ơn Bộ Văn hố thơng tin – thể thao và du lịch Việt Nam đã biểu
diễn một chương trình minh họa tuyệt vời. Cảm ơn các nghệ nhân buôn Kọ Sier đã
làm sống lại các nhạc cụ trưng bày tại Viện bảo tàng qua lối diễn tấu độc đáo, nhuần
nhuyễn, giàu bản sắc dân tộc của đồng bào Tây Nguyên trong nền văn hoá cổ truyền
phong phú, đa dạng của dân tộc Việt Nam”

16


CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỜI SỐNG SINH HOẠT NGƯỜI DÂN
ĐẾN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG
2.1. Dàn chiêng trong đời sống văn hóa của người Ê Đê
Trong các ngày lễ hội truyền thống hay những ngày lễ lớn của cả dân tộc, tiếng
chiêng như một món ăn tinh thần khơng thể thiếu vắng. Lễ hội là một trong những sinh

hoạt truyền thống của đồng bào các dân tộc. Cồng chiêng gắn liền với các tín ngưỡng,
lễ nghi nên nó được “thiêng hố”. Cồng chiêng cịn thể hiện sự giàu nghèo của mỗi gia
đình, của từng dịng họ. Cồng chiêng khơng chỉ có giá trị vật chất mà cịn có giá trị
trong đời sống văn hố tinh thần. Giá trị này có tính chất trường tồn và được đồng bào
khẳng định bằng cách đã tổ chức giữ gìn các dàn chiêng từ mùa rẫy này sang mùa rẫy
khác, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Âm hưởng nhạc cồng chiêng cứ da
diết suốt vịng đời người khiến dẫu ai có tha hương cũng không thể nào quên được cái
âm vang của cồng chiêng, làm sao mà quên được cái âm hưởng nhạc cồng chiêng đi
suốt vòng đời người, từ lúc còn trong bụng mẹ tới lúc trưởng thành.
Tiếng cồng chiêng nổi lên cúng thần linh, cầu xin cho mẹ con bình n khi thai
nhi vừa trịn ba tháng.
Tiếng cồng chiêng gióng lên khi Amí, Ama hứng những giọt sương tinh chất của
đất trời, làm lễ thổi tai mời thần linh và cộng đồng chứng giám cho sự ra đời của một
đứa con.
Tiếng cồng chiêng trong lễ M’Puh (lễ mừng chàng trai Ê-Đê khôn lớn trưởng
thành), khi chàng bắt đầu biết dùng rìu chặt cây, biết làm rẫy.
Tiếng cồng chiêng trong lễ trao cồng đính ước cầu hơn, trong lễ cưới của đôi trai
gái như sự chứng giám thiêng liêng cao quý của một đời người.
Tiếng cồng chiêng rộn rã tưng bừng trong lễ đâm trâu, lễ mừng mùa thu hoạch, lễ
rước Kpan, lễ sang nhà mới.
Tiếng cồng chiêng thôi thúc, dồn dập xua đuổi thú dữ về phá buôn, phá rẫy, cổ
vũ trai làng chống lại những trở lực khó khăn, bảo vệ làng buôn, sự sống.
Tiếng cồng chiêng buồn bã báo tin cho dịng họ, cho cộng đồng có người vừa
mới qua đời, nỗi buồn được chia sẻ theo rộng, dài của tiếng chiêng lan toả tới các buôn
xa bn gần như nhắc nhở mọi người xích lại gần nhau hơn, góp sức chung tay tiễn
biệt người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng.

17



Tiếng cồng chiêng náo nức tưng bừng trong lễ bỏ mả cho hồn người chết được tự
do về với thế giới bên kia.
Có thể nói cả cuộc đời một con người, lúc nào cũng mang theo âm hưởng nhạc
cồng chiêng. Nếu chiêng M’nông cường độ không lớn, giai điệu trôi chảy như suối
nước, chiêng Gia Rai sôi động, ồn ào, chiêng BaNa trữ tình dịu lắng, chiêng Sêđăng
thì say sưa như men rượu cần huyền thoại, trong khi cồng chiêng Ê-Đê có giai điệu
phức hợp hơn, tiết tấu nhanh cường độ lớn và dồn dập hơn. Cồng chiêng Ê-Đê có tiếng
nói riêng, âm thanh riêng, ngơn ngữ riêng. Khi tiếng chiêng vang lên thì các thành viên
trong bn nhận biết được thơng điệp vui buồn từ đó. Dường như cồng chiêng là tiếng
nói để người hiểu nhau hơn, thơng cảm gắn bó yêu thương nhau hơn, cộng đồng này
gắn bó với cộng đồng kia hơn. Cao hơn nữa tiếng chiêng là gạch nối giữa đất – trời,
thông điệp giữa những người trần gian với các vị thần linh. Tiếng chiêng cất lên là tín
hiệu giao cảm giữa con người với con người, giữa con người với muôn trùng sông núi.
Chúng ta hãy nghe lời người xưa nói: “Ơi các con, hãy đánh lên cho tiếng chiêng bay
xa chín tầng trời, lọt qua sàn nhà, tới tận bảy tầng đất, cho lan qua phía Tây đến với
người Lào, bn Voi; cho vọng sang phía Đơng lọt tai người Kinh bn muối, báo cho
mọi người biết nhà Đăm San có việc lớn”(Bài ca chàng Đăm Săn: Klei Khan Đăm
Săn, sử thi- Khan Êđê; NXB Văn hóa Dân Tộc;2012) và cho đến hơm nay, có tiếng
cồng chiêng thì lịng người rạo rực, dù đang làm một việc gì, dù trong đêm mưa gió,
đặc biệt các cụ già đã nghe tiếng chiêng thì có khó khăn thế nào thì cũng phải tìm đến
như một món ăn tinh thần mang đầy nét truyền thống của đồng bào.
Năm tháng cứ qua đi, vòng đời người cứ tiếp tục xoay theo thuyết luân hồi nhưng
ý nghĩa xã hội và triết lý nhân sinh về âm nhạc cồng chiêng cứ mãi mãi ngân vang, lan
toả theo chiều rộng của không gian, chiều dài của thời gian và lắng đọng tích luỹ lại
thành bản sắc văn hố truyền thống mang tính đặc thù và độc đáo của người Tây
Nguyên.
2.2. Ảnh hưởng đời sống sinh hoạt của người dân đến văn hóa cồng chiêng hiện
nay
2.2.1. Sự thay đổi trong lao động
Trong những năm gần đây, thực hiện sự phát triển nền kinh tế hàng hố theo cơ

chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lần đầu
tiên phương thức sản xuất, nếp sống văn hoá của các dân tộc thiểu số ở Đaklak nói
18


chung, dân tộc Ê-Đê ở buôn Kọ Thôn và Kọ Sier nói riêng đã được phát triển một cách
tự giác theo định hướng của Đảng. Việc thay đổi phương thức sản xuất sản xuất đã kéo
theo những biến đổi trong nếp sống, sinh hoạt của mọi người.
Trước đây, điểm chung nhất của nông nghiệp ở vùng đất Tây Nguyên là tự cung
tự cấp, theo chế độ luân canh và độc canh cây lúa rẫy. Dân tộc Ê-Đê là cư dân bản địa
ở Đaklak, từ bao đời nay họ gắn bó mật thiết với nền canh tác nương rẫy và đã tạo nên
một hệ thống nghi lễ nông nghiệp khá độc đáo. Có thể coi nghi lễ nơng nghiệp là một
trong những hệ thống lễ hội vô cùng phong phú của đồng bào dân tộc Ê-Đê ở Tây
Nguyên, trong đó có cả đồng bào Ê-Đê ở buôn Kọ Thôn và Kọ Sier. Các nghi lễ này
đều xoay quanh chu kì sinh trưởng của cây lúa, từ khi phát rẫy, gieo hạt cho đến khi
thu hoạch đưa lúa về nhà. Bao gồm một loạt các lễ cúng: cúng khấn đất phát rẫy, đốt
rẫy, trỉa lúa, lễ cùng kết vòng cho lúa, lễ ăn lúa mới, lễ rước hồn lúa, lễ tuốt lúa, lễ đưa
lúa vào kho, lễ cúng bến nước, lễ ăn mừng được mùa rẫy… Các lễ cúng đều có lễ vật
tuỳ theo điều kiện kinh tế gia đình, dịng họ giàu hay nghèo mà làm lễ to hay nhỏ. Nội
dung lễ cúng chủ yếu cầu mong và tạ ơn Yàng, trời đất đã giúp cho người có được một
mùa rẫy bội thu. Các lễ cúng trên chủ yếu được tổ chức từng gia đình, dịng họ rộng
hơn nữa là bn làng nên tính chất “hội” rất hạn chế. Và điều tất yếu là đã có lễ cúng
là đều có âm thanh của cồng chiêng tấu lên để giao tiếp với Yàng, thần linh. Trong các
nghi lễ này con người được giao cảm với thần linh và gởi gắm vào đó một niềm ước
mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn của ngày mai.
Hiện nay, đồng bào dân tộc ở các bn làng tuỳ theo điều kiện cụ thể của gia
đình mình mà bước đầu tách hộ, bỏ nhà dài, làm nhà từng hộ riêng theo kiểu gia đình
hạt nhân, phát triển kinh tế gia đình theo phương thức sản xuất hàng hố. Họ khơng
cịn trồng theo kiểu cũ nữa, chủ yếu trồng theo “khoa học mới”, có nghĩa là bà con tập
trung trồng cà phê, các cây cơng nghiệp có giá trị khác để phục vụ cho việc xuất khẩu.

Từ khi chuyển sang hình thức trồng trọt mới với các loại cây trồng mới thì cuộc
sống của đồng bào Ê-Đê đã có sự thay đổi. Khác với trước đây trồng trọt là tự cung tự
cấp, không trao đổi nhưng từ khi nhà nước ta phát động phong trào chuyển đổi kinh tế
thì đồng thời cũng xuất hiện hình thức trao đổi mua bán, nhằm mang lại lợi ích cho họ.
Có nghĩa là hoạt động sản xuất bây giờ không chỉ là để tự cung tự cấp nữa mà họ đã
bắt đầu tiếp cận hình thức trao đổi mua bán với xã hội bên ngồi, nhờ đó mà cuộc sống
của họ đã được cải thiện và phát triển vượt bậc. Với hình thức canh tác mới, những lễ
19


nghi nông nghiệp theo lịch thời vụ như trước đây đã mất đi trong nhiều gia đình. Bởi
vì, canh tác nương rẫy khơng cịn phổ biến mà chỉ cịn lại trong một số ít gia đình.
Người ta khơng cịn cúng Yàng trước khi phát, đốt rẫy hay tỉa hạt như trước đây.
Từ khi Nhà nước ban hành chính sách “định canh định cư” và nhiều chính sách
khác, thì một số vùng kinh tế mới của vùng đồng bào dân tộc được thiết lập, họ dần
chuyển từ sản xuất cây lúa rẫy sang phương pháp trồng các loại cây lâu năm, cây cơng
nghiệp, cây có giá trị kinh tế cao, đồng thời người Kinh vào sống xen kẽ đem theo
cách trồng mới nhằm trao đổi phương pháp canh tác cũng như tuyên truyền và chỉ bảo
cho cách trồng trọt mới cho bà con, điều này làm cho một số lễ hội truyền thống vốn
có của đồng bào khơng cịn tồn tại nữa là điều khơng tránh khỏi. Tất nhiên khơng có lễ
hội thì cồng chiêng khơng tham gia vào được, dẫn đến mơi trường diễn tấu cồng
chiêng khơng cịn thì liệu bản sắc văn hố dân tộc cịn khơng?. Đây là một điều đáng
lo ngại và mang tính nhất thiết. Mặc dù trong những năm trở lại đây thì Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương khơi phục lại những lễ hội đã mất, để phát huy bản sắc
văn hố dân tộc như: “Văn bản chỉ đạo cơng tác văn hố thể thao” của Bộ Văn Hố
Thơng Tin – 1/1993, hay “Chỉ thị về việc bảo tồn văn hoá cồng chiêng” của UBND
tỉnh Đaklak, năm 1994, Nghị Quyết Hội Nghị Lần thứ V -Ban Chấp Hành Trung
Ương Đảng khoá VIII về việc “ Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”… nhưng do chưa có sự triển khai đồng bộ nên vẫn chưa
đạt hiệu quả cao.

Bên cạnh đó, sự chuyển đổi phương thức canh tác sản xuất đã gây ra tình trạng
nhiều gia đình đã mang bán đi những bộ cồng chiêng quí giá để lấy vốn sản xuất và
giải quyết đời sống khó khăn của mình. Họ bán đi để mua máy cày, máy kéo, máy tưới
nước… Mặt khác, một số gia đình cảm thấy lễ hội văn hố truyền thống của bn
khơng cịn phù hợp đối với cuộc sống đời thường nữa và cịn thấy nó phức tạp, tốn
kém nhiều tiền của, thời gian. Điều này đã làm cho cồng chiêng khơng cịn có vị trí
trong bn làng nữa, nó được xem như một thứ hàng hố để trao đổi, tất cả mọi người
đều cho rằng cồng chiêng được mua bán, trao đổi bằng tiền.
Như vậy, một khi cuộc sống được nâng cao, những nhu cầu của con người được
nâng lên, chính vì vậy mà đồng bào dân tộc Ê-Đê đã từ bỏ hình thức lao động sản xuất
cũ chuyển sang hình thức lao động sản xuất mới. Điều này đồng nghĩa với việc lễ hội
cũng bị mai một dần và cũng bị lãng quên. Một khi cồng chiêng khơng cịn giá trị phi
20


vật thể nữa thì nó sẽ trở về đúng nghĩa của nó là giá trị vật chất. Rõ ràng mơi trường
của cồng chiêng là lễ hội và kèm theo lễ hội là tất cả các hình thức sinh hoạt văn hoá
dân gian tổng hợp của nền văn minh lúa rẫy. Từ những bài ca cúng tế đến âm điệu của
các dàn chiêng, các vũ điệu hỗ trợ cho nghi lễ-không chỉ là phương tiện giao lưu với
các vị thần linh, báo tin cho các cộng đồng xa gần. Nếu tách mơi trường văn hố dân
gian đó thì tính nhân văn giá trị của nghệ thuật cồng chiêng bị giảm thiểu đáng kể.
Tóm lại, khi giá trị phi vật thể của cồng chiêng khơng cịn nữa thì nó sẽ trở lại
đúng nghĩa giá trị vật chất của nó, nghĩa là cồng chiêng sẽ được trao đổi mua bán với
nhau, nó sẽ được đem ra bán như một đồ vật bình thường, khơng cịn là hồn thiêng, là
phương tiện để giao tiếp với thần linh của đồng bào Ê-Đê nữa. Do đó, mơi trường diễn
tấu cồng chiêng cũng vì thế mà mất dần.
2.2.2. Sự thay đổi trong môi trường sinh hoạt
Sinh hoạt cồng chiêng là một loại hình văn nghệ dân gian hết sức độc đáo, lối
sinh hoạt văn nghệ dân gian này địi hỏi phải có một mơi trường diễn tấu riêng. Cồng
chiêng là một di sản văn hố q báu của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

nói chung, ờ Đaklak nói riêng. Nó được coi là một vật thiêng nhất, có giá trị trong mỗi
gia đình, dòng họ và mỗi thành viên trong cộng đồng. Theo quan niệm của các già
làng: cồng chiêng có thể giúp con người thông tin trực tiếp với thần linh, với các yàng.
Cồng chiêng không sử dụng bừa bãi mà chỉ sử dụng trong các lễ hội lớn của buôn làng
mà thơi.
Cồng chiêng có vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào Ê-Đê.
Mỗi chiếc chiêng trong dàn chiêng đều có vai trị, chức năng và tên gọi khác nhau,
thậm chí ý nghĩa của từng chiếc chiêng cũng khác nhau. Ví dụ cái trống H’gơr là bà
nội, cái Char – cái chiêng bằng lớn nhất, có đường kính khoảng 1m – là bậc chú, đến
cái M’đu – cái nhỏ nhất trong 3 cái có núm – là ơng cậu, cịn cái Ana – cái chiêng có
núm lớn nhất là bà mẹ, tiếp đến là 6 cái chiêng bằng thể hiện anh, chị, chúng em, con
cái trong gia đình. Cồng chiêng khơng chỉ là tài sản q giá của mỗi cộng đồng gia
đình mẫu hệ, nó cịn là tài sản chung của mỗi dân tộc họp thành đại gia đình các dân
tộc trên vùng đất cao nguyên này.
Trước đây cồng chiêng chỉ được đánh trong phạm vi buôn làng, nhà dài nhưng
sau này, đặc biệt là từ sau năm 1975 thì cồng chiêng có vai trị quan trọng trong các lễ
hội văn hoá dân gian, trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trong liên hoan văn hố cồng
21


chiêng, trong các hội diễn, hội thi, liên hoan văn nghệ ở địa phương, khu vực miền
Trung - Tây Nguyên và toàn quốc, trong các hội thảo âm nhạc quốc gia và Châu Á –
Thái Bình Dương… gây được sự chú ý mến mộ của công chúng. Như vậy cồng chiêng
đã thốt ra khỏi phạm vi bn làng, đã bước lên sân khấu và đến với công chúng ở mọi
nơi.
Thế nhưng trong những năm gần đây, kể từ khi đất nước thực hiện chính sách đổi
mới đất nước, mở cửa giao lưu hội nhập với thế giới bên ngoài, đặc biệt là sự chi phối
của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của nền văn hoá hiện đại và sự tuyên truyền
mê hoặc của một số kẻ xấu đội lốt tôn giáo đã biến cồng chiêng thành một thứ hàng
hố đơn thuần đồng thời cũng làm cho mơi trường sinh hoạt cồng chiêng Ê-Đê thay

đổi một cách nhanh chóng trên phạm vi tất cả các buôn làng. Sự thay đổi này tuỳ thuộc
vào sự tiếp thu nhanh hay chậm những gì xảy ra trong xã hội.
Đaklak nơi có trên 40 dân tộc anh chúng em cùng chung sống: Kinh, Gia Rai,
Bana, Thái, Tày, Nùng… nhưng hai dân tộc Ê-Đê và M’nơng là hai dân tộc bản địa có
cuộc sống lâu đời trên mảnh đất cao nguyên Đaklak này, đồng thời có nền văn hố
cồng chiêng đa dạng, độc đáo, giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng hiện nay cồng
chiêng đang bị mai một dần, trong tương lai nếu chúng ta khơng có biện pháp xử lí kịp
thời thì văn hố cồng chiêng sẽ khơng cịn chỗ đứng trong đời sống tinh thần của đồng
bào Ê-Đê.
Với tình trạng cồng chiêng ngày càng bị thất thốt nhiều như thế thì trong những
năm qua, thực hiện chỉ thị số 08/CT-UB ngày 21/4/1994 của UBND tỉnh về việc “ Bảo
tồn văn hoá cồng chiêng”, Sở VHTT nói chung và các nhà nghiên cứu đã tổ chức
nhiều đợt khảo sát số lượng cồng chiêng trong các buôn làng dân tộc nhưng do triển
khai thực hiện không đồng bộ nên vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Vào những năm 1991 – 1995 ở Tây Nguyên nói chung và ở tỉnh Đaklak nói
riêng, cụ thể hơn là trong các buôn làng dân tộc, không loại trừ hai buôn Kọ Thôn và
Kọ Sier đã xảy ra nạn “chảy máu cồng chiêng” rất nghiêm trọng.
Một số buôn làng theo đạo Tin Lành nghe theo lời tuyên truyền của bọn xấu đội
lốt tôn giáo, đã đập phá hàng chục bộ chiêng. Mặt khác do đời sống kinh tế còn khó
khăn nên đã mang bán đi những bộ cồng chiêng quí… Điều này cho thấy, hầu hết các
lễ hội sinh hoạt văn hố cồng chiêng ở các bn làng đều bị bỏ quên, ngày càng mai
một và có nguy cơ mất trắng. Lợi dụng cơ hội này, bọn gian thương chuyên buôn bán
22


đồ cổ từ khắp mọi miền đất nước đã kéo đến Tây Ngun, trong đó có cả các bn
làng dân tộc ở Đaklak để tìm mua cồng chiêng. Bọn chúng đến từng gia đình gạ gẫm
mua bán đổi chác bằng hàng hoá để lấy đi hàng trăm bộ cồng chiêng rồi tẩu tán bằng
nhiều con đường khác nhau.
Nguy cơ buôn bán cồng chiêng ở các buôn làng đã xảy ra. Nó đã trở thành nạn “

chảy máu cồng chiêng” thực sự. Mặc dù Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp để khắc
phục nhưng đến nay cồng chiêng vẫn thất thốt. Hiện nay tình trạng này đã giảm
nhưng chưa dứt hẳn. Tuy số lượng cồng chiêng bị mất mát nhiều như vậy nhưng nó
chưa phải là yếu tố quyết định mà phải nói đến mơi trường diễn tấu sinh hoạt cồng
chiêng của đồng bào Ê-Đê: khơng cịn lễ hội thì tất nhiên cũng khơng cịn mơi trường
cho cồng chiêng diễn tấu.
Từ những vấn đề trên, cùng với những nghiên cứu và khảo sát tiêu biểu tại hai
buôn là buôn Kọ Thơn và Bn Kọ Sier để có thể thấy rõ vấn đề hơn. Hai buôn này,
do nằm gần trung tâm thành phố nên chịu ảnh hưởng nhiều tác động từ bối cảnh xã hội
hiện tại và làm cho cồng chiêng cũng như môi trường biểu diễn cồng chiêng bị suy
giảm nhiều. Mặc dù trong những năm gần đây, nhờ vào cơng tác quản lí văn hố của
các ban ngành mà cuộc sống của bà con dân tộc Ê-Đê đã ổn định hơn.
2.2.3. Sự biến đổi thông qua biến đổi xã hội
Từ ngàn đời nay, âm nhạc cồng chiêng gắn liền với tồn bộ sinh hoạt văn hố
tinh thần của người dân Tây Nguyên nói chung và của người Ê-Đê nói riêng. Nó được
tổ chức, được sử dụng, được thâm nhập ở hầu hết các lễ thức văn hoá và tâm linh của
đồng bào. Từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi từ giã cõi trần, nhịp cồng chiêng đều đi qua
một vòng đời người. Cồng chiêng là một loại nhạc cụ phổ biến và độc đáo của đồng
bào dân tộc Ê đê ở vùng Tây Nguyên này. Có thể đối với người Ê-Đê đã “tồn tại một
nền văn hoá chiêng”. Cồng chiêng (ching, cing) có một giá trị phi kinh tế rất cao, là
một loại nhạc cụ đã được “thiêng hố”, bởi vì theo quan niệm của đồng bào Ê-Đê là
chúng có thể giúp con người thơng tin trực tiếp với thần linh, với các giàng. Chiêng có
mặt trong các cuộc lễ, trong đời sống con người. Trong môi trường sinh hoạt văn hố
ấy, mơi trường sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hố đã bộc lộ tồn bộ tính
cộng đồng, dân chủ và bình đẳng tức là giá trị nhân bản cao của văn hoá cồng chiêng
Ê-Đê. Sinh hoạt văn hố cộng đồng, dù của tồn bn nhưng lễ cúng bến nước, cúng
cầu mưa…hay của riêng từng người như lễ đặt tên, cầu sức khỏe, hay của từng gia tộc:
23



×