Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Ths BCH chất lượng thông tin đối ngoại trên kênh truyền hình TTXVN hiện nay (qua khảo sát các chương trình “thế giới 360”, “nhịp cầu cộng đồng” và “không gian pháp ngữ” từ tháng 12015 đến tháng 122015)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 121 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TTXVN

: Thông tấn xã Việt Nam

KBS

: Korean Broadcasting System

CCTV News : China Central Television News
RT

: Russia Today



DANH MỤC HÌNH SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Danh mục hình ảnh
Ảnh 2.1. Chương trình Thế giới 360
.........................................................................................................................
44
Ảnh 2.2. Chương trình Nhịp cầu cộng đồng
.........................................................................................................................
49
Ảnh 2.3. Chương trình Khơng gian Pháp ngữ
.........................................................................................................................
55

Danh mục bảng


Bảng 2.1. Thứ tự chương trình Thế giới 360 số ra ngày 24/01/2015
...................................................................................................................
45
Bảng 2.2. Thứ tự chương trình Nhịp cầu cộng đồng phát sóng ngày
17/06/2015
...................................................................................................................
50
Bảng 2.3. Thứ tự chương trình Cộng đồng Pháp ngữ ngày 13/12/2015
...................................................................................................................
56
Bảng 2.4: Đánh giá về chất lượng thơng tin đối ngoại trên truyền hình
TTXVN
...................................................................................................................
63



5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào đầu thế kỉ XX, truyền hình lần đầu tiên xuất hiện và đã nhanh
chóng phát triển nhờ sự tiên tiến trong lĩnh vực khoa học – cơng nghệ. Kể từ
đó, truyền hình dần trở thành một kênh thông tin vô cùng quan trọng trong
đời sống con người và xã hội. Tuy truyền hình xuất hiện từ rất sớm trên thế
giới, nhưng tại Việt Nam, đến những năm 1960 truyền hình mới ra đời dưới
sự kiểm soát của Mỹ tại miền Nam. Đến năm 1970, miền Bắc mới có
chương trình truyền hình đầu tiên được phát sóng.
Mặc dù ra đời muộn nhưng truyền hình tại Việt Nam đã thu hút được
một số lượng đông đảo công chúng theo dõi. Đồng thời, chất lượng của

truyền hình tại Việt Nam cũng ngày một được nâng cao qua thời gian.
Tính đến tháng 12/2015, cả nước có 857 cơ quan báo chí, trong đó có
199 cơ quan báo chí in (86 báo trung ương, 113 báo địa phương), 658 tạp chí
(521 tạp chí trung ương, 137 tạp chí địa phương), 01 hãng thông tấn quốc
gia. Về phát thanh, truyền hình, hiện cả nước có 67 đài phát thanh – truyền
hình. Truyền hình tại Việt Nam hoạt động dưới đủ các loại hình như truyền
hình cáp, truyền hình kĩ thuật số, truyền hình Internet hay truyền hình
Analog. Ngồi ra, số lượng thuê bao truyền hình số mặt đất đạt 7.000.000
th bao, tăng gấp đơi so với cùng kì năm 2013. Những số liệu này chứng tỏ
nhu cầu xem truyền hình của người dân Việt Nam đang ở mức cao.
Trong đời sống ngày nay, xã hội ngày càng phát triển thì u cầu thơng
tin ngày càng đa dạng và phong phú. Với xu thế tồn cầu hóa, việc giao lưu
quốc tế trở thành một nhân tố quan trọng trong nhiệm vụ phát triển mỗi quốc
gia. Thông tin dần trở thành một chiếc cầu nối giúp các quốc gia giao lưu và
hội nhập, giúp các cộng đồng ngày một hiểu biết lẫn nhau. Trong quan hệ
quốc tế, thông tin đối ngoại là một cơng cụ quan trọng và có ảnh hưởng to


6

lớn đến lĩnh vực ngoại giao của mọi quốc gia trên thế giới. Ranh giới giữa
thành công hay thất bại trong việc thực hiện chính sách đối ngoại phụ thuộc
vào việc có đảm bảo được chất lượng thơng tin hay không. Thực hiện tốt
thông tin đối ngoại sẽ giúp các bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình một cách
chính xác, giúp họ hiểu đúng về quan điểm lẫn hình ảnh con người Việt
Nam. Qua đó phục vụ cho chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa hay
đa dạng hóa nhằm thu hút các nguồn lực bên ngồi như nguồn vốn, đầu tư,
chất xám hay công nghệ. Đồng thời, việc nâng cao chất lượng thơng tin đối
ngoại cũng góp phần làm hạn chế các thông tin sai lệch, thiếu chính xác về
Việt Nam nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau.

Cho tới nay, nhiều kênh truyền hình đã xây dựng một nền tảng thông tin
đối ngoại với những mục tiêu cụ thể về định hướng, hình thức và nhóm cơng
chúng đối tượng. Thơng tin đối ngoại được xây dựng để kết hợp với nhiều
chương trình phát sóng, qua đó tạo thành nền tảng nhằm duy trì sự vận hành
của của kênh truyền hình. Việc đảm bảo được chất lượng thông tin đối ngoại
giúp khán giả tiếp nhận một cách chính xác, hấp dẫn, phục vụ cho chiến
lược của kênh.
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính
phủ, thực hiện chức năng thơng tấn Nhà nước trong việc phổ biến thơng tin
bằng các loại hình báo chí phục vụ các đối tượng có nhu cầu ở trong và ở
nước ngồi. Kênh truyền hình TTXVN là kênh truyền hình thơng tin thời sự
chính luận đầu tiên tại Việt Nam, ra đời vào ngày 25 tháng 8 năm 2010.
Ngồi nhiệm vụ chính trị tun truyền thiết yếu của quốc gia, kênh truyền
hình TTXVN cịn có rất nhiều chuyên mục về lĩnh vực ngoại giao và đối
ngoại phổ biến kiến thức trong nước lẫn quốc tế. Với 30 cơ quan đại diện
nước ngoài ở cả 5 châu lục, cùng nguồn thông tin trao đổi trực tuyến liên tục
24/24 giờ với 42 hãng thông tấn và tổ chức báo chí quốc tế, TTXVN có một


7

nền tảng lớn mạnh để xây dựng thông tin đối ngoại phục vụ cho các chương
trình truyền hình. Việc nhiệm vụ của Đảng đặt ra cho lĩnh vực đối ngoại là
“tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc”; đồng
thời góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng, phát triển nền văn hóa truyền
thống của dân tộc, tiếp thu một cách có chọn lọc văn hóa thế giới khi mở
rộng giao lưu quốc tế - đó là yêu cầu đồng thời là nhiệm vụ với cơng tác
thơng tin đối ngoại.
Chính vì những lí do này, việc đánh giá thơng tin đối ngoại trên truyền
hình TTXVN là việc rất cần thiết. Từ đó đưa ra những khuyến nghị nâng cao

chất lượng thông tin đối ngoại , nghiên cứu và xây dựng chiến lược triển
khai có hiệu quả cơng tác thơng tin đối ngoại. Do đó, luận văn lựa chọn chủ
đề “Chất lượng thông tin đối ngoại trên kênh truyền hình TTXVN hiện nay
(Qua khảo sát các chương trình “Thế giới 360”, “Nhịp cầu cộng đồng” và
“Không gian Pháp ngữ” từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2015)” để tiến hành
nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1.Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu khoa
học giá về vấn đề thông tin đối ngoại, trước tiên phải kể đến cuốn “Thông
tin đối ngoại Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả
Phạm Minh Sơn. Trong đó, tác giả phân tích rõ những khái niệm cơ bản và
đặc thù của thông tin đối ngoại, qua đó nêu bật lên được tầm quan trọng
cũng như nhu cầu bức thiết của lĩnh vực này. Có thể nói cuốn sách này là
nền tảng vững chắc phát triển thêm các nghiên cứu về thông tin đối ngoại.
Cũng về lĩnh vực đối ngoại, tác giả Phạm Minh Sơn còn có hai tác
phẩm khác mang tên “Đẩy mạnh hoạt động thơng tin đối ngoại trong q
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay” và “Đẩy mạnh hoạt động


8

đối ngoại công chúng của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”. Cả
hai tác phẩm này đều thực hiện các nghiên cứu sâu rộng, qua đó đề xuất các
phương án thúc đẩy công tác đối ngoại trên nhiều mặt trận của đất nước Việt
Nam. Tác giả không chỉ đề cập đến việc nâng tầm thông tin đối ngoại, mà
cịn phải xem xét đến những tác động đến cơng chúng và xã hội, phản ứng ra
sao, có hiệu quả như thế nào.
Để có những hiểu biết cụ thể về công tác ngoại giao, nguyên Giám đốc
Học viện Ngoại giao Vũ Dương Huân đã cho ra đời cuốn “Ngoại giao và

công tác ngoại giao”. Cuốn sách này giới thiệu một cách có hệ thống các
nội dung của ngoại giao như các khái niệm, văn kiện, tiếp xúc hay đàm
phán. Tác phẩm này là một giáo trình quan trọng phục vụ cho việc giảng dậy
và học tập trong ngành quan hệ quốc tế.
Nhằm tìm hiểu mục tiêu của Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại, Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã cho ra đời
các cuốn sách “Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn
mới” và “Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020”. Trong cả
hai cuốn sách này tác giả phân tích rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại;
lợi ích quốc gia; trường phái ngoại giao của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Với định hướng đến năm 2020, tác giả nêu bật những mục tiêu mà công tác
đối ngoại của Việt Nam phải đạt được, bên cạnh đó phải chú tâm khắc phục
những bất cập và trở ngại.
Để có những hiểu biết cụ thể về thực trạng công tác đối ngoại của đất
nước ta, Học viện Ngoại giao đã xuất bản cuốn “Hỏi – Đáp về tình hình thế
giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”. Cuốn sách này
chủ trương phân tích tình hình thế giới, liệt kê những vấn đề phức tạp, nổi
cộm của các nước trên thế giới. Đặc biệt, cuốn sách này đi sâu vào tình hình
đối ngoại của Việt Nam với các nước lớn, hay từng khu vực cụ thể như Châu


9

Á, Châu Âu, Châu Mỹ hay Châu Phi. Đây là những thơng tin rất hữu ích cho
chiến lược nâng cao thơng tin đối ngoại đối với các nhóm đối tượng khác
nhau trên thế giới.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có tương đối nhiều các
nghiên cứu khoa học về lĩnh vực truyền thông. Cuốn “Truyền thông đại
chúng” của tác giả Tạ Ngọc Tấn cung cấp những hiểu biết cơ bản, có hệ
thống về phương tiện truyền thơng đại chúng hiện đại, các nguyên tắc,

phương pháp cụ thể nhằm quản lý cũng như phát huy tốt vai trò của các loại
hình phương tiện truyền thơng đại chúng. Ngồi ra, cuốn sách cịn đáp ứng
như thơng tin liên quan đến hoạt động của hệ thống các phương tiện truyền
thông đại chúng.
Nhằm hiểu rõ khái niệm về truyền hình, cuốn “Báo chí truyền hình”
của tác giả Dương Xn Sơn đưa ra những khái niệm cơ bản của lĩnh vực
báo hình. Tác phẩm này tập trung trình bày các vấn đề của báo chí truyền
hình như: vị trí, vai trị; lịch sử ra đời phát triển của truyền hình; khái niệm,
đặc trưng; nguyên lý của truyền hình; chức năng xã hội của truyền hình;
kịch bản và kịch bản truyền hình; quy trình sản xuất chương trình truyền
hình; các thể loại báo chí truyền hình; các thuật ngữ truyền hình; phần phụ
lục kèm theo các dạng kịch bản theo thể loại và chương trình truyền hình. Đi
đơi với các khái niệm là những tài liệu nước ngồi của một số nước có lĩnh
vực truyền hình tương đối phát triển như Mỹ, Anh, Pháp hay Nhật Bản.
Đi sâu hơn vào lĩnh vực truyền hình, cuốn “Sản xuất chương trình
truyền hình” của tác giả Trần Bảo Khánh đưa ra các khái niệm cơ bản về
truyền hình, nguyên lý truyền hình, đặc thù của truyền hình, vị trí, vai trị,
chức năng xã hội của truyền hình, lịch sử ra đời và phát triển của truyền hình
thế giới và Việt Nam, phương thức sản xuất chương trình, cơ cấu tổ chức sản
xuất chương trình. Ngồi ra cuốn sách này còn giúp người đọc nắm được


10

quy trình sản xuất chương trình truyền hình, vận dụng các phương pháp và
kỹ thuật vào việc sáng tạo tác phẩm, chương trình truyền hình.
2.2.Những nghiên cứu nước ngồi
Trên thế giới có một số lượng đáng kể tài liệu về thông tin đối ngoại.
Được viết bởi chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực truyền thông, cuốn
“Global Television and the Shaping of World Politics” (Truyền hình tồn

cầu và sự định hình chính trị thế giới) của tác giả Royce Ammon, cung cấp
những kĩ năng chiến lược hiện đại và thường được sử dụng nhất trong công
tác xây dựng thông tin đối ngoại trên truyền hình. Cuốn sách phản ánh
những chiến lược phát triển thơng tin điển hình trong thực tiễn những mơ tả
và ví dụ trực quan nhất. Cuốn sách cũng chỉ ra những mục tiêu và yêu cầu
đối với thông tin đối ngoại, hướng dẫn thực hiện đánh giá thông tin trên
nhiều tiêu chí. Ngồi ra, cuốn sách cịn cung cấp những ví dụ thực tiễn từ
quan điểm của các nhà quản lý cùng với các chú giải về thuật ngữ chuyên
dụng. Nhìn chung, cuốn sách này sẽ rất hữu dụng trong việc giúp người đọc
nhận thấy sự ảnh hưởng của chính trị đối với cơng tác thơng tin trên truyền
hình, vốn nằm trong phạm vi của luận văn.
Trong “The practice of public diplomacy: Confronting Challenges
Abroad” (Thực hành đối ngoại cơng chúng: Đối mặt với các thử thách từ
nước ngồi), tác giả William Rugh đã nêu làm rõ những thách thức nổi bật
trong việc xây dựng thông tin đối ngoại trước sức ép từ bên ngoài. Cuốn
sách đề cập tới nhiều tiêu chí mà thơng tin đối ngoại phải đáp ứng nếu muốn
đạt chất lượng mong muốn. Xét trên tổng thể, cuốn sách này sẽ giúp tác giả
luận văn nhận thức được những yêu cầu hay thử thách từ phía cơng chúng
đón nhận thơng tin đối ngoại.
Để hiểu rõ về cơng tác thơng tin đối ngoại trên truyền hình, tác giả
James Larson của cuốn “Global Television and Foreign Policy” (Truyền


11

hình tồn cầu và chính sách đối ngoại) phân tích cho người đọc mối liên
hệ giữa truyền hình và chính sách đối ngoại. Trong đó làm thế nào để cả hai
lĩnh vực kết hợp với nhau để mang lại kết quả cao nhất. Ngồi ra, tác giả
cũng giải thích cho người đọc vì sao các phóng viên cũng chính là một lực
lượng quan trọng làm công tác đối ngoại. Mặc dù cuốn sách này dẫn chứng

một số kênh truyền hình lớn trên thế giới nhưng nhìn chung vẫn ở mức độ
tồn cầu, khơng hồn tồn nhắm vào một kênh truyền hình ở trong một thể
chế chính trị cụ thể nào.
Với mục tiêu nghiên cứu về thông tin đối ngoại trên truyền hình, tác giả
Lynda Hammes đã cho ra đời cuốn “Foreign Affairs on Television” (Đối
ngoại trên truyền hình). Tác phẩm trên đã nêu lên cụ thể hình thái và đặc
điểm thơng tin đối ngoại trên truyền hình một cách có hệ thống, với những
ví dụ hay dẫn chứng thực tế. Không chỉ đưa ra các khái niệm cơ bản, tác
phẩm cịn phân tích thái độ, hành vi của người xem sau khi nhận được thông
tin đối ngoại từ kênh truyền hình, để từ đó rút ra được mức độ hiệu quả của
công tác thông tin.
Cuốn sách “New Public Diplomacy in the 21st Century: A
comparative study of policy and practice” (Đối ngoại công chúng trong
thế kỉ 21: Một nghiên cứu so sánh về chính sách và thực hành) của tác giả
James Pamment viết năm 2013 phân tích chi tiết về xu hướng xây dựng
thông tin đối ngoại trong thế kỉ 21. Trong tác phẩm, người viết đã đặt ra vấn
đề về việc đưa ra chính sách đến khâu áp dụng, trong q trình đó sẽ gặp
phải những vấn đề như thế nào. Luận điểm của tác giả cho rằng hiệu quả
thực hiện công tác đối ngoại đôi khi không nằm ở trong tầm kiểm sốt của
người làm, mà cịn phụ thuộc vào chính sách của quốc gia ra sao. Đây là một
tác phẩm mang tính tư duy cao, khơng bị nặng về tính triết lý và hồn tồn


12

có thể sử dụng làm thước đo việc đúng định hướng chính trị của thơng tin
đối ngoại.
Yoel Cohen, tác giả cuốn sách “Media Diplomacy” (Đối ngoại truyền
thông) đã tiếp cận lĩnh vực thông tin đối ngoại qua ý kiến từ cơng chúng. Từ
đó tác giả đưa ra một góc nhìn đa chiều về những ảnh hưởng của thông tin

đối ngoại tác động lên xã hội. Theo tác giả, tần suất khán giả đón nhận thơng
tin đối ngoại từ truyền thơng không quan trọng bằng việc thay đổi nhận thức,
quan điểm hay góc nhìn của họ trên các vấn đề truyền tải. Tuy tác phẩm
hưởng đến truyền thơng nói chung chứ khơng phải truyền hình, nhưng vẫn
rất hữu dụng để nghiên cứu về tâm lý và ý thức của bộ phận công chúng tiếp
nhận thông tin đối ngoại.
Cuốn sách “Real Time Diplomacy: Politics and Power in the Social
Media Era” (Đối ngoại ngày nay: Chính trị và sức mạnh của thời đại
truyền thông xã hội) của tác giả Philip Seib nghiên cứu về cuộc cách mạng
chính trị và truyền thơng, từ đó đưa ra những dự đoán về tương lai trong lĩnh
vực đối ngoại. Theo tác giả Seib, các phương tiện truyền thơng hiện nay như
truyền hình trong tương lai sẽ bị thất thế đối với mạng xã hội. Tác giả đưa ra
những dự đốn rằng cơng chúng sẽ chủ động hơn trong việc tìm kiếm thơng
tin đối ngoại, thay vì chờ truyền hình đưa đến cho họ. Tác phẩm này có thể
sử dụng để tìm ra những phương án khắc phục hạn chế của truyền hình trong
Mặc dù truyền hình là khái niệm chung trên toàn thế giới, tuy nhiên
mỗi quốc gia và mỗi khu vực lại có góc nhìn khác nhau về chủ đề này. Cuốn
“An Introduction to Television Studies” (Giới thiệu về nghiên cứu truyền
hình) của tác giả Jonathan Bignell không chỉ đưa ra những khái niệm cơ bản
của truyền hình, mà cịn muốn độc giả có cái nhìn xa hơn đằng sau mỗi hình
ảnh hay thơng tin tiếp nhận. Điều đặc biệt là tác giả cuốn sách đã vạch ra
những hệ thống truyền hình khác nhau, vốn dĩ có tác động như thế nào đến


13

hiệu quả q trình truyền tải thơng tin nói chung đến người xem. Đây là tác
phẩm có thể sử dụng để tham khảo trong q trình nâng cao tính tương tác
với người xem.
Để hiểu về tâm lý người xem truyền hình, tác giả Barrie Gunter đã

viết cuốn “The Cognitive Impact of Television News” (Nhận thức tác động
của tin tức truyền hình). Trong cuốn sách người viết cho rằng thơng tin có
tác động đến nhận thức của người đọc hay khơng cịn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố khác, trong đó hình ảnh, màu sắc hay âm thanh cũng đóng một
vai trò cốt yếu. Đây là tác phẩm chuyên sâu nhằm tham khảo cách nâng cao
hình thức thể hiện thơng tin cho người xem truyền hình nói chung.
Bài luận “TV Content Analysis: Techniques and Applications”
(Phân tích nội dung truyền hình: Các kỹ thuật và ứng dụng) của các tác
giả Yiannis Kompatsiaris, Bernard Merialdo và Shiguo Lian phân tích các
vấn đề về kết cấu chương trình truyền hình cũng như các kĩ thuật sắp xếp
các chương trình truyền hình. Đây là một tác phẩm có giá trị trong việc
nghiên cứu đề xuất điều chỉnh lại thời lượng và thời điểm phát sóng của các
chương trình thơng tin đối ngoại.
Như vậy, có thể nói đề tài tác giả nghiên cứu là tương đối phổ biến
về cả lý luận cũng như thực tiễn báo chí tại Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng chất
lượng thơng tin đối ngoại trên kênh truyền hình TTXVN qua khảo sát các
chương trình “Thế giới 360”, “Nhịp cầu cộng đồng” và “Không gian Pháp
ngữ” từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2015, luận văn đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại trên kênh truyền hình TTXVN
hiện nay.


14

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng thông tin đối ngoại trên
kênh truyền hình

- Làm rõ thực trạng chất lượng thơng tin đối ngoại trên kênh truyền
hình TTXVN qua khảo sát các chương trình “Thế giới 360”, “Nhịp cầu cộng
đồng” và “Không gian Pháp ngữ” từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2015.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thơng tin đối
ngoại trên kênh truyền hình TTXVN nói riêng và truyền hình nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng thông tin đối ngoại trên kênh truyền hình TTXVN
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát chất lượng thông tin đối ngoại trên 3
chương trình tiêu biểu: “Thế giới 360”, “Nhịp cầu cộng đồng” và “Không
gian Pháp ngữ” trogn khoảng thòi gian từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2015.
Đây là những chương trình phát sóng hàng tuần truyền hình TTXVN, có
chức năng, mơ hình và kết cấu nội dung tổng hợp về thông tin đối ngoại.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, luận văn được thực hiện
dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về báo chí nói chung và truyền
hình nói riêng, về vấn đề phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cơng cụ
- Phương pháp phân tích tài liệu, văn bản tiếng Việt và tiếng Anh: xem
xét, phân tích, tổng hợp thơng tin, từ đó rút ra những thơng tin cần thiết phục
vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tài


15

liệu, tác giả kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có, sử dụng nó để so sánh,
minh họa cho các kết quả khảo sát của mình, từ đó khẳng định những đóng

góp mới của luận văn.
- Phương pháp phân tích nội dung: phân tích chất lượng thơng tin đối
ngoại 3 chương trình truyền hình khảo sát, những câu trả lời thu được qua
việc khảo sát ý kiến hay phỏng vấn sâu. Từ kết quả phân tích nội dung, tác
giả sẽ mô tả được đặc trưng, đặc điểm của các hoạt động, thơng điệp, có
được những dẫn chứng cụ thể, những số liệu mang tính định lượng.
- Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê tài liệu, con số, sự kiện, dữ
liệu… có được trong q trình khảo sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để phân tích, đánh giá
và tổng hợp những kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những luận cứ, luận
điểm khái quát.
- Phương pháp điều tra: Khảo sát 300 công chúng về mức độ sử dụng
và đánh giá chất lượng thông tin đối ngoại qua các chương trình “Thế giới
360”, “Nhịp cầu cộng đồng” và “Không gian Pháp ngữ” từ tháng 1/2015 đến
tháng 12/2015.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn 04 nhà báo là lãnh đạo, biên
tập viên, cán bộ phụ trách bộ phận xây dựng thơng tin đối ngoại trên kênh
truyền hình TTXVN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thơng tin đối ngoại đóng một vai trị quan trọng trên truyền hình và
báo chí. Nghiên cứu lý luận về vấn đề này sẽ giúp nhận diện vai trò, sự cần
thiết và các giải pháp phát triển thơng tin đối ngoại trên kênh truyền hình
TTXVN.


16

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với ba chương trình truyền hình được khảo sát: Luận văn dự

kiến sẽ mơ tả và chỉ ra điểm mạnh, yếu của việc đưa thơng tin đối ngoại trên
kênh truyền hình TTXVN. Từ đó xây dựng lên một số đề xuất chiến lược
trong việc nâng cao chất lượng thơng tin. Ngồi ra, luận văn sẽ cung cấp một
cái nhìn cụ thể hơn nhằm nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại.
- Đối với hệ thống các đài truyền hình tại Việt Nam: Luận văn cung
cấp cái nhìn đầy đủ hơn, cụ thể hơn về hoạt động thơng tin đối ngoại. Luận
văn có thể là tài liệu tham khảo cho các đài, kênh truyền hình khác, những
người sản xuất chương trình truyền hình. Đây cũng là mảng kiến thức cần
thiết đối với công tác lãnh đạo, quản lý báo chí.
- Là tài liệu tham khảo có ý nghĩa mới mẻ cho các nghiên cứu viên, giảng
viên, học viên, sinh viên về vấn đề thông tin đối ngoại trên truyền hình.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.


17

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN
ĐỐI NGOẠI TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Thơng tin đối ngoại
Có thể nói, khái niệm “Thơng tin đối ngoại” vẫn cịn tương đối mới mẻ
ở nước ta mặc dù đã xuất hiện thường xuyên trong hơn một thập kỉ trở lại đây.
Cho đến nay nhiều học giả, các nhà nghiên cứu hay các nhà quản lý vẫn
nghiên cứu và tranh luận để thống nhất được nội hàm và phạm vi của khái
niệm trên.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngơn ngữ học thì “Thơng tin là truyền
cho nhau để biết [33, tr.953]. Trong khi đó, đối ngoại là đối với nước ngồi,

bên ngồi, đường lối, chính sách hay sự giao thiệp của Nhà nước, của một tổ
chức” [33, tr.338]. Mặc dù chưa thể tạo nên sự gắn kết nhằm thống nhất một
định nghĩa hoàn chỉnh và mang tính khoa học, tuy nhiên cách giải thích trên
đã chỉ ra nội hàm cũng như phạm vi của hai khái niệm riêng rẽ “Thông tin” và
“Đối ngoại”
Trong cuốn Thông tin đối ngoại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, tác giả Phạm Minh Sơn rút ra khái niệm thông tin đối ngoại như
sau: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng
và đối ngoại của Đảng. Nhà nước và nhân dân ta nhằm làm cho thế giới hiểu
rõ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công
cuộc đổi mới của Việt Nam, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, những giá
trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam; đấu tranh chống lại những
luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; làm cho nhân dân ta hiểu rõ về thế
giới; đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của bạn bè


18

quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước ngoài đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại được ban hành kèm
theo Nghị định số 72/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 09 năm 2015
của Thủ tướng Chính phủ nói rõ thơng tin đối ngoại là “Thông tin đối ngoại
bao gồm thông tin chính thức về Việt Nam, thơng tin quảng bá hình ảnh Việt
Nam và thơng tin tình hình thế giới vào Việt Nam.”
Như vậy, định nghĩa trên đã rất bao quát và đầy đủ về nội dung của
thông tin đối ngoại, khẳng định thông tin đối ngoại là bộ phận không thể tách
rời của công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng nhằm làm cho nhân dân
trong nước và quốc tế biết và hiểu về Việt Nam, qua đó thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới đất nước.

Trong bối cảnh hiện nay, công nghệ thông tin đang trở thành động lực,
công cụ để thúc đẩy phát triển xã hội. Thông tin không chỉ dừng lại ở các sản
phẩm báo chí, sách báo, ấn phẩm, sản phẩm cụ thể, mà còn được đưa lên
mạng Internet, xóa nhịa ranh giới giữa đối nội và đối ngoại.
Xác định rõ làm cách nào để thực hiện thông tin, tuyên truyền, quảng bá
và phản bác lại thông tin sai trái của các thế lực thù địch phản động trong và
ngồi nước một cách có hiệu quả là một việc làm vô cùng cần thiết và cấp
bách hiện nay. Trong đó, xác định đúng, trúng đối tượng thơng tin, tuyên
truyền là một nhiệm vụ tiên quyết, góp phần quan trọng, tạo nên hiệu quả của
công tác thông tin đối ngoại.
1.1.2. Khái niệm Kênh truyền hình
Theo cách hiểu thơng thường, Kênh truyền hình là một kênh vật lý hoặc
kênh ảo, nơi một đài truyền hình hoặc một mạng lưới truyền hình được phân
bổ. Các kênh truyền hình được chia sẻ bởi các đài truyền hình hoặc các đơn vị


19

phân phối truyền hình cáp khác nhau, tùy thuộc vào vị trí và đơn vị cung cấp
dịch vụ. Kênh truyền hình analog thường có dải tần rộng 6, 7 hoặc 8 MHZ.
Theo từ điển Oxford, Kênh truyền hình là “một dải tần số sóng vơ
tuyến được sử dụng để phát các chương trình truyền hình hoặc chương trình
phát thanh”.
Với truyền hình vệ tinh, các kênh được chia bằng cách để ít nhất một dải
tần trống giữa dải tần của hai kênh liền kề nhau. Có thể có nhiều dải tần trống
giữa các kênh. Với truyền hình cáp, có thể sắp xếp dải tần của các kênh liền
nhau. Với các kênh truyền hình kỹ thuật số, dải tần của các kênh được sắp xếp
liên tục.
Như vậy, có thể hiểu “Kênh truyền hình” là một “dải tần số sóng vơ
tuyến được ấn định để phát các chương trình truyền hình của một hoặc

nhiều đơn vị sản xuất truyền hình”.
1.1.3. Khái niệm Chương trình truyền hình
Trong Truyền thơng đại chúng, Tạ Ngọc Tấn cho rằng, “thuật ngữ
chương trình truyền hình thường được sử dụng trong hai trường hợp. Trường
hợp thứ nhất, người ta dùng chương trình truyền hình để chỉ tồn bộ nội
dung thông tin phát đi trong ngày, trong tuần hay trong tháng của mỗi kênh
truyền hình hay của cả đài truyền hình. Trường hợp thứ hai, chương trình
truyền hình dùng để chỉ một hay nhiều tác phẩm hoàn chỉnh hoặc kết hợp với
một số thông tin tài liệu khác được tổ chức theo một chủ đề cụ thể với hình thức
tương đối nhất quán, thời lượng ổn định và được phát đi theo định kỳ” [8, tr.
142].
Đồng thuận với ý kiến trên nhưng qua góc nhìn “chu trình khép kín
những mắt xích trong chuỗi giao tiếp”, Trần Bảo Khánh cho rằng “chương
trình – đó là hình thức thực tế hóa. Hình thức vật chất hóa sự tồn tại của
truyền hình trong đời sống xã hội để truyền tải thông tin đối với công chúng.


20

Nếu khơng có chương trình thì khơng có truyền hình… Chương trình truyền
hình là sản phẩm truyền hình, là kết quả hoạt động của truyền hình, trong đó
bao hàm cả q trình sáng tạo ra nó từ nhiều cơng đoạn khác nhau, tồn tại ở
nhiều mức độ khác nhau, quá trình tạo dựng kế hoạch và sắp đặt tác phẩm,
chuyên mục, mục được gọi là chương trình truyền hình. Cho dù thuật ngữ
chương trình có thể được hiểu theo nghĩa chương trình của đài, chương trình
tháng, chương trình tuần, chương trình ngày và thậm chí một tác phẩm cụ thể
cũng được gọi là chương trình” [5, tr. 30-32]
Trong cuốn Báo chí truyền hình, Dương Xn Sơn đưa ra khái niệm cụ
thể hơn về chương trình truyền hình như sau:“Chương trình truyền hình là sự
liên kết, sắp xếp, bố trí hợp lý các tin bài, bảng biểu, tư liệu bằng hình ảnh và

âm thanh được mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào
tạm biệt, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình
nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả” [27, tr 113]. Chương trình
truyền hình được hiểu gồm các chương trình như: chương trình “Thời sự”,
chương trình “Chào buổi sáng”, chương trình “Cuộc sống thường ngày”,
chương trình “Sự kiện và bình luận”, chương trình “Tồn cảnh thế giới”…
Như vậy có thể hiểu chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp bố
trí hợp lý các tin bài, bảng tư liệu, hình ảnh, âm thanh trong một thời gian
nhất định được mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào
tạm biệt, đáp ứng yêu cầu tun truyền của cơ quan báo chí truyền hình nhằm
mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả. Chương trình truyền hình là sản
phẩm lao động của một tập thể bao gồm các nhà báo, cán bộ kỹ thuật, bộ phận
tài chính. Chương trình truyền hình chính là sự gặp nhau giữa nhu cầu, thị
hiếu của công chúng với mục đích, ý tưởng sáng tạo của những người làm
chương trình thơng qua phương tiện truyền hình. Chất lượng của một chương
trình truyền hình được đánh giá bằng mức độ như thu hút sự quan tâm của


21

khán giả đối với chương trình đó và mức độ đạt được mục đích của những
người làm chương trình.
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán giả, các đài
truyền hình khơng ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình theo
hướng vừa đa dạng phong phú vừa chuyên sâu. Việc sắp xếp các chương trình
trong ngày hay trong tuần luôn được cân nhắc kỹ lưỡng, bố trí sao cho tạo
được sự thu hút liên tục đối với công chúng. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy,
muốn xây dựng được các chương trình truyền hình thu hút người xem và xác
định được giờ phát sóng phù hợp, việc nghiên cứu cơng chúng – đối tượng
của chương trình đó phải được đầu tư thực hiện một cách bài bản.

Đối với một đài truyền hình, quá trình sản xuất bắt đầu bằng việc sáng
tạo các tác phẩm truyền hình. Một đài truyền hình thường bao gồm có các bộ
phận: lãnh đạo quản lý, biên tập viên, phóng viên, kỹ thuật viên. Trong đó
phóng viên là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm báo chí truyền hình. Các tác
phẩm báo chí truyền hình này thể hiện bản lĩnh chính trị, năng lực và trách
nhiệm xã hội của nhà báo truyền hình. Uy tín, ảnh hưởng của một đài truyền
hình trước hết được quy định bởi khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện những
vấn đề nổi cộm, có ý nghĩa và phản ánh chúng một cách kịp thời tới công
chúng khán giả, góp phần nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết và định
hướng tư tưởng cho công chúng.
Mặt khác, chương trình theo cách hiểu của truyền thơng như là một
thếgiới phong phú, vô tận những biểu hiện trong bản chất vốn có của nó. Các
loại hình truyền thơng đại chúng như báo in, phát thanh, truyền hình, báo
mạng có sự khác biệt trong phương thức phản ánh và tái tạo hiện thực. Bởi
mỗi loại hình báo chí ngồi những nét chung đều có những đặc thù riêng. Đặc
thù đó tạo ra những nét riêng từ việc sản xuất, tiếp nhận và tiêu dùng sản


22

phẩm. Có thể nói chương trình truyền hình “là kết quả cuối cùng của q
trình giao tiếp với cơng chúng” [8, tr. 30].
1.2 Những điểm cơ bản về thông tin đối ngoại trên Kênh truyền hình
1.2.1 Đặc điểm về nội dung
Về đặc điểm nội dung thông tin đối ngoại trên trên Kênh truyền hình,
thứ nhất, thơng tin phải phổ biến rộng rãi đường lối của Đảng và Nhà nước.
Việc tăng cường thông tin đối ngoại giúp bạn bè quốc tế nắm được chủ trương
hay các chính sách của Đảng và Nhà nước khơng chỉ trên lĩnh vực đối ngoại,
mà cịn ở du lịch, kinh tế, đầu tư, văn hóa…Nêu bật được những thành tựu
trong công cuộc phát triển đất nước, nâng cao tình hữu nghị, tăng cường hợp

tác cùng có lợi giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, thơng tin đối ngoại trên Kênh truyền hình phải giới thiệu,
quảng bá hình ảnh đất nước, con người, lịch sử và văn hóa của Việt Nam ra
thế giới. Chủ trương của thơng tin đối ngoại của Kênh truyền hình là chuyển
tải một thông điệp tới bạn bè quốc tế, trong đó Việt Nam là một đất nước tươi
đẹp, mến khách với bề dày lịch sử và nhiều di sản văn hóa giá trị. Ngồi ra
cũng tạo nên một hình ảnh đẹp về con người Việt Nam luôn thân thiện, sẵn
sàng hội nhập.
Thứ ba, thông tin đối ngoại trên Kênh truyền hình ln đấu tranh với
những thơng tin sai lệch, xun tạc nhằm bôi xấu đất nước. Song hành cùng
với sự phát triển của đất nước luôn đi kèm những thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách chống phá đất nước bằng cách tung những thông tin sai lệch.
Thông tin đối ngoại của Kênh truyền hình phải phê phán, đính chính những
những thông tin sai trái, khai thông những điều mà cộng đồng quốc tế hiểu sai
về Việt Nam.


23

1.2.2 Đặc điểm về hình thức
Đối với hình thức thơng tin đối ngoại trên Kênh truyền hình, đầu tiên cần
phải đảm bảo hình ảnh phải phản ánh đúng nội dung thơng tin. Nói một cách cụ
thể, hình ảnh và thơng tin đưa ra trên Kênh truyền hình cần phải đảm bảo tính
liên quan, hình ảnh thể hiện rõ những gì mà thông tin đang truyền tải. Yếu tố
này vô cùng quan trọng trong cơng tác làm truyền hình bởi nếu không thông tin
sẽ trở nên nhầm lẫn, vô giá trị.
Tiếp theo, hình thức của thơng tin đối ngoại trên Kênh truyền hình phải
mang tính kết nối, với dụng ý và thơng điệp rõ ràng. Tiêu chí này địi hỏi hình
thức của thông tin phải trở nên rõ ràng, rành mạch và không bị trùng lặp. Nếu
như thông tin đối ngoại trên Kênh truyền hình khơng có có kết cấu khoa học,

người xem sẽ khó nắm bắt nội dung.
Cuối cùng, hình ảnh và âm thanh của thông tin đối ngoại trên Kênh truyền
hình cần phải đảm bảo đúng tính thẩm mỹ. Cần nhớ tựu chung lại thông tin đối
ngoại nhằm truyền tải những thơng điệp đẹp và có ý nghĩa cho người xem. Việc
hình ảnh và âm thanh khơng đáp ứng đúng tiêu chuẩn sẽ dễ tạo cho người xem
cảm giác tiêu cực, về lâu dài dễ tạo cảm giác hoài nghi về thông tin đối ngoại.
1.2.3 Đặc điểm về công chúng tiếp nhận
Đối với mỗi chương trình thơng tin đối ngoại, Kênh truyền hình ln
vạch ra rõ nhóm đối tượng hướng đến. Có thể nói, xác định đúng và trúng đối
tượng cần thông tin sẽ mang lại hiệu quả thông tin cao nhất cho công tác làm
thông tin đối ngoại. Nghiên cứu này tạm thời chia đối tượng thông tin đối
ngoại thành 2 nhóm cơng chúng chính:
Nhóm cơng chúng ở ngồi nước
Đây là nhóm đối tượng rất quan trọng, gồm các tổ chức, định chế quốc
tế, chính giới, học giả, báo chí, nhà kinh doanh, bạn bè quốc tế, nhân dân các


24

nước và người Việt Nam đang sinh sống, học tập, lao động và cơng tác ở nước
ngồi.
Thứ nhất là nhóm đối tượng người nước ngồi , hay cịn gọi là nhân dân
thế giới sống ở các nước, bao gồm bộ máy nhà nước của các quốc gia, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các nhà hoạt động xã hội và đồng
đảo tầng lớp quần chúng nhân dân trên thế giới.
Đây là nhóm đối tượng rất quan trọng, chiếm số lượng đơng đảo trên thế
giới. Nhóm đối tượng này có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước ta. Và cũng chính nhóm đối tượng này ngày nay
vẫn ra sức ủng hộ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân
Việt Nam, để từng bước Việt Nam khẳng định vị thế, vai trị của mình trong

cơng cuộc hội nhập.
Trong các hoạt động nhân đạo hàng năm, rất nhiều đoàn chuyên gia của
các nước trên thế giới đã vào giúp đỡ Việt Nam theo con đường viện trợ phi
Chính phủ với số tiền lên tới hàng trăm triệu USD cho các dự án nhân đạo và
phát triển trong những năm gần đây. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, nhóm đối
tượng này cũng được xem là nhóm đối tượng trọng điểm của thông tin đối
ngoại trên Kênh truyền hình. Tuy nhiên tùy từng nhóm đối tượng cụ thể mà có
cách thức, nội dung thơng tin, tun truyền phù hợp để tác động đến nhận
thức, và tình cảm của họ, nhằm làm cho bạn bè thế giới ngày càng hiểu ta hơn
và tiến tới ủng hộ ta hơn.
Thứ hai là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (bao gồm kiều bào
ta ở nước ngoài; giới học giả nghiên cứu; du học sinh, sinh viên, người Việt
Nam lao động ở nước ngồi…)
Có thể nói, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi là một bộ phận
khơng thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhìn chung, đại đa số
người Việt Nam ta ở nước ngoài đều hướng về quê hương đất nước. Theo số


25

liệu do Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngồi cung cấp, hiện có
khoảng 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống, lao động và học tập tại 109
nước và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 400.000 người có trình độ đại học trở
lên. Hàng năm có khoảng hơn 500.000 lượt kiều bào về thăm quê hương,
đóng góp chun mơn, đầu tư, kinh doanh, giao lưu văn hóa, nghệ thuật, từ
thiện, nhân đạo…
Kiều hối những năm gần đây tăng trung bình 10 - 15%. Theo một báo cáo
mang tên "Migration and remittances factbook 2016" về di cư và kiều hối do
Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây, Việt Nam đón lượng kiều hối
12,25 tỷ USD trong năm 2015, tăng 0,25 tỷ USD so với năm 2014, qua đó

đứng thứ 11 thế giới. Có thể nói những người Việt Nam sinh sống và làm việc
ở nước ngồi vẫn là một nguồn lực đóng góp to lớn cho sự phát triển đất nước.
Trong những năm qua, thông tin đến với kiều bào ta ở nước ngồi nhìn
chung còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của bà con Việt kiều. Thông
tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng đa phần chưa đến được với bà
con Việt kiều, các sản phẩm thông tin đối ngoại của ta cịn manh mún, chưa
hấp dẫn cả về hình thức lẫn nội dung. Nhận thức được vấn đề này, Kênh
truyền hình ln chủ động phát triển các chương trình thơng tin dành cho kiều
bào, nâng cao tinh thần gắn bó của những người xa xứ.
Nhóm cơng chúng ở trong nước
Nhóm đối tượng này gồm người nước ngoài sinh sống, học tập, làm
việc tại Việt Nam, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế, các hãng
thông tấn báo chí, các nhà đầu tư, khách du lịch nước ngồi (gọi tắt là người
nước ngồi ở Việt Nam) và đơng đảo tầng lớp nhân dân trong n ước.
Người nước ngoài ở Việt Nam là nhóm đối tượng đặc biệt quan trọng, là
những “nhà thông tin, tuyên truyền trực tiếp” về hình ảnh của một đất nước
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Tùy theo từng nhóm đối tượng


×