Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

THỪA kế THEO DI CHÚC của bộ LUẬT dân sự năm 2015. LIÊN hệ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.43 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

TÊN ĐỀ TÀI: THỪA KẾ THEO DI CHÚC CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
NĂM 2015. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Luật Dân sự Việt Nam
Mã phách:…………………………………

Hà Nội –22/08/2021


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..................................................................................................................2
CHƯƠNG I. THỪA KẾ THEO DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM
2015........................................................................................................................................2
1.1.Cơ sở pháp lý...............................................................................................................2
1.2.Phân tích.......................................................................................................................2
1.2.1.Di chúc...................................................................................................................2
1.2.2.Người lập di chúc...................................................................................................7
1.2.3.Cá nhân, tổ chức liên quan..................................................................................12
1.3. Nhận xét, đánh giá.....................................................................................................15
1.3.1.Điều kiện về người làm chứng cho việc lập di chúc...........................................15
1.3.2.Chi phí cho người làm chứng cho việc lập di chúc miệng..................................20
CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN.....................................................................................20
2.1.Ví dụ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng...................................................20
2.2. Một số kiến nghị về thừa kế theo di chúc tại BLDS năm 2015.................................22
PHẦN III: KẾT LUẬN................................................................................................................23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................24


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Luật dân sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp những quy
phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân
sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham
gia các quan hệ dân sự.
Luật Dân sự là một nhánh pháp luật giải quyết các tranh chấp giữa các cá
nhân và/hoặc các cơ quan tổ chức, theo đó bên bị thiệt hại có thể được đền bù cho
những thiệt hại đó.
Một quy phạm mà tôi đặc biệt dành nhiều sự quan tâm, chú ý đi sâu vào
nghiên cứu, tìm hiểu đó là: thừa kế theo di chúc trong Bộ luật Dân sự 2015. Vấn đề
về thừa kế tài sản đang ngày càng được nhiều người quan tâm và được tìm hiểu
rộng rãi vì mức độ cần thiết trong cuộc sống, đây cũng chính là một trong những lí
do tơi lựa chọn đề tài nghiên cứu là thừa kế theo di chúc.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I. THỪA KẾ THEO DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015.
1.1.

Cơ sở pháp lý
Chương XXII: Thừa kế theo di chúc, Bộ luật Dân sự năm 2015 từ Điều 624

đến Điều 648.


1.2.

Phân tích

1.2.1. Di chúc
Được quy định tại các Điều 624, 627, 628, 629, 630, 631, 638, 642, 643,
645, 648 của BLDS năm 2015.

1.2.1.1. Khái niệm di chúc
Quan điểm lập pháp ở Việt Nam qua các thời kỳ đều cho rằng, di chúc là sự
thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
chết. Khái niệm về di chúc được giữ nguyên từ lần ghi nhận đầu tiên tại BLDS năm
1995 cho đến hiện tại. Mặc dù việc sử dụng từ ngữ có thể khác nhau nhưng đều xác
định di chúc là mong muốn, là ý chí dịch chuyển di sản của người trước khi chết
cho người còn sống sau khi họ chết. Khái niệm về di chúc được quy định tại Điều
624 BLDS năm 2015 như sau:
“ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết ”.
1.2.1.2. Phân loại di chúc
Theo quy định tại Điều 627, 628 BLDS năm 2015 thì di chúc được chia làm
2 loại: di chúc bằng văn bản hoặc di chúc miệng. Với mỗi hình thức lập di chúc thì
để một di chúc được xác định là hợp pháp, có hiệu lực trên thực tế, pháp luật đều
yêu cầu di chúc đã lập phải đáp ứng các điều kiện nhất định về mặt hình thức.
a, Di chúc miệng

2


Căn cứ theo Điều 629 BLDS năm 2015 thì di chúc miệng chỉ được thừa nhận
là hợp pháp khi nó được lập trong trường hợp một người đang bị cái chết đe dọa về

tính mạng, khơng có đủ thời gian cũng như điều kiện để lập di chúc bằng văn bản.
Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Văn bản ghi
lại nội dung di chúc miệng của người lập di chúc thì phải được công chứng, hoặc
chứng thực hợp pháp trong thời gian 05 ngày kể từ ngày người lập di chúc miệng
thể hiện ý chí cuối cùng để nhằm mục đích xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của
người làm chứng trong nội dung di chúc.
Khác với việc lập di chúc bằng văn bản, di chúc miệng khơng có hiệu lực
ngay mà theo quy định, nếu một người vẫn còn sống, minh mẫn và sáng suốt sau 03
tháng kể từ thời điểm người này lập di chúc miệng thì nội dung di chúc miệng đã
được lập sẽ bị hủy bỏ, đương nhiên hết hiệu lực.
b, Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng: khi một người quyết định
lập di chúc bằng văn bản và không có người làm chứng thì di chúc này phải có đầy
đủ nội dung của một di chúc thông thường theo quy định tại Điều BLDS năm 2015.
Di chúc này, theo quy định tại Điều 633 BLDS năm 2015, phải do người lập di chúc
tự viết và tự ký chữ ký của mình vào nội dung di chúc. Trường hợp di chúc có nhiều
trang, nhiều tờ thì người lập di chúc phải ghi đầy đủ số thứ tự và đồng thời ký vào
từng trang của di chúc. Đồng thời và di chúc không được viết tắt, cũng không được
viết hay chú thích bằng ký hiệu. Người lập di chúc, nếu có sửa chữa, tẩy xóa một
nội dung nào của di chúc thì phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa đó để xác
minh việc họ tự sửa chữa, tẩy xóa chứ khơng phải do người khác thực hiện, đảm
bảo tính hợp pháp của di chúc.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: việc lựa chọn lập di chúc bằng
văn bản có người làm chứng, theo quy định tại Điều 634 BLDS năm 2015, được áp
dụng trong trường hợp người lập di chúc tự mình viết di chúc và có yêu cầu người

3



làm chứng hoặc thuộc trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết di chúc,
nhưng tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc. Đối
với di chúc được lập trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật thì di chúc
phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc còn phải ký tên hoặc điểm
chỉ vào nội dung di chúc trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Những
người làm chứng sau khi đã chứng kiến về việc ký tên hay điểm chỉ của người lập
di chúc thì phải xác nhận về chữ ký, hay điểm chỉ của người lập chúc vào nội dung
di chúc. Đồng thời, người làm chứng cũng phải ký tên dưới nội dung xác nhận về
chữ ký, điểm chỉ nêu trên để đảm bảo tính chất pháp lý.
Di chúc bằng văn bản được cơng chứng: việc lập di chúc bằng văn bản được
công chứng có thể thực hiện qua việc người lập di chúc đến Văn phịng cơng chứng,
hoặc Tổ chức hành nghề cơng chứng để lập hoặc yêu cầu công chứng viên đến tận
chỗ ở của mình để lập di chúc.
Việc lập di chúc có cơng chức được thực hiện theo đúng thủ tục như sau:
Người lập di chúc sẽ phải tuyên bố nội dung, nguyện vọng của mình về việc định
đoạt tài sản, cũng như các nội dung khác của di chúc định lập trước mặt của công
chứng viên. Công chứng viên sẽ phải lắng nghe, ghi chép lại nội dung mà người lập
di chúc, chủ sở hữu tài sản đã đọc, tuyên bố. Sau khi đọc, kiểm tra nội dung bản di
chúc được công chứng viên ghi chép lại xem đã chính xác, đúng với nguyện vọng, ý
chí, mong muốn của mình hay chưa thì người lập di chúc sẽ phải trực tiếp ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc này. Công chứng viên sẽ trực tiếp ký vào bản di chúc và
thực hiện việc công chứng di chúc. Trong trường hợp đặc biệt, khi người lập di chúc
có khuyết tật, khiếm khuyết một số chức năng nhất định như không đọc được, hoặc
không nghe được bản di chúc; hoặc không ký hay điểm chỉ được vào nội dung di
chúc thì để đảm bảo tính khách quan, đảm bảo quyền lợi của người lập di chúc,
pháp luật yêu cầu việc lập di chúc sẽ phải có sự tham gia của người làm chứng.
Người làm chứng này sẽ phải xác nhận về nội dung di chúc, chữ ký, điểm chỉ của
người lập di chúc, và ký xác nhận trước mặt công chứng viên. Sau đó, cơng chứng
viên sẽ cơng chứng di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng này.


4


Di chúc bằng văn bản được chứng thực: đối với việc lập di chúc bằng văn
bản được chứng thực thì người lập di chúc sẽ trực tiếp đến Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi mình cư trú để thực hiện việc lập di chúc. Về trình tự, thủ tục lập di chúc có
chứng thực sẽ được thực hiện tương tự như trường hợp lập di chúc ở Văn phịng
cơng chứng, tổ chức hành nghề công chứng.
1.2.1.3. Nội dung di chúc
Điều 631 của BLDS năm 2015 quy định về nội dung của di chúc như sau:
“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các
nội dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm
nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc
người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
1.2.1.4. Thời hạn, hiệu lực của di chúc
Hiệu lực pháp luật của di chúc là vấn đề đặc biệt quan trọng trong quan hệ
thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo di chúc. Việc xác định di chúc có hiệu lực hay
khơng, một phần hay tồn bộ có ảnh hưởng cơ bản đến việc phân định di sản thừa
kế, quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế. Di chúc có hiệu lực pháp luật về
nguyên tắc phải được thực hiện trên thực tế theo đúng nội dung của di chúc, phù
hợp với các quy định của pháp luật.

Đối với hiệu lực của di chúc miệng thì vấn đề này được quy định rõ tại
Khoản 2 Điều 629 BLDS năm 2015: “ Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng

5


mà người lâp di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thi di chúc miệng mặc nhiên bị
hủy bỏ.”
Chế định về hiệu lực của di chúc được ghi nhận tại Điều 643 BLDS năm
2015:
“ Điều 643. Hiệu lực của di chúc
1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc khơng có hiệu lực tồn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau
đây:
a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc;
b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế khơng cịn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được
chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì
chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này khơng có hiệu lực.
3. Di chúc khơng có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế khơng cịn
vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ cịn một phần thì
phần di chúc về phần di sản cịn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần khơng hợp pháp mà khơng ảnh hưởng đến hiệu lực
của các phần cịn lại thì chỉ phần đó khơng có hiệu lực.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di
chúc sau cùng có hiệu lực.”
Di chúc vô hiệu do không đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp

luật:
Xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, nhiều trường hợp di chúc do
người chết để lại không được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Đó là các trường
hợp di chúc vi phạm các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự được quy

6


định tại Điều 117 BLDS năm 2015 và Điều 630 BLDS năm 2015 về di chúc hợp
pháp.
Di chúc khơng có hiệu lực do khơng cịn điều kiện để thi hành (di chúc hợp
pháp nhưng bị mất hiệu lực pháp luật hay còn gọi là di chúc bị thất hiệu). Bao gồm
các trường hợp sau:
Người lập di chúc thay thế hoặc hủy bỏ di chúc. Khi một người để lại nhiều
bản di chúc đối với một tài sản thì bản di chúc sau cùng sẽ có hiệu lực pháp luật,
các bản di chúc khác khơng có hiệu lực pháp luật.
Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc. Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế khơng cịn vào thời
điểm mở thừa kế. Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có
người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều
cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế thì di chúc khơng cịn vào thời điểm
mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, tổ chức này khơng có
hiệu lực pháp luật.
Trong những trường hợp nêu trên, chỉ phần di chúc có liên quan đến những
chủ thể đó mới khơng có hiệu lực pháp luật, các phần khác vẫn có hiệu lực pháp
luật: Người được hưởng di sản theo di chúc bị tước quyền hưởng di sản theo quy
định của BLDS. Di sản để lại cho người thừa kế khơng cịn vào thời điểm mở thừa
kế, nếu đi sản để lại cho người thừa kế chỉ cịn một phần thì phần di chúc liên quan
đến phần di sản còn lại vẫn còn hiệu lực. Khi di chúc có phần khơng hợp phap mà
khơng ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần này có hiệu lực

pháp luật.

1.2.2. Người lập di chúc
Người lập di chúc quy định tại các Điều 625, 626, 633, 634, 635, 639, 640,
641 của BLDS năm 2015.
“Điều 625. Người lập di chúc
1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

7


2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc,
nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.”
Di chúc thể hiện ý chí định đoạt tài sản của người chết cho những người còn
sống khác. Tài sản được định đoạt trong di chúc là tài sản thuộc quyền sở hữu của
người lập di chúc đó. Các quyền của người lập chúc được quy định trong các Bộ
luật dân sự trước đây cho đến Bộ luật dân sự năm 2015 khơng có gì thay đổi.
Điều 626 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
“ Điều 626. Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”
Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản
của người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định cho cá nhân là người thân thích với
mình (trong quan hệ hơn nhân, huyết thống hay nuôi dưỡng) được hưởng di sản
thừa kế mà họ để lại. Song trong nhiều trường hợp họ chỉ định người không nằm

trong các quan hệ trên được hưởng di sản hoặc có thể lập di chúc cho tổ chức, Nhà
nước hưởng di sản của họ. Ngoài ra, quyền định đoạt của người lập di chúc còn
được thể hiện thông qua việc truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp
luật, như: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột, ông, bà, cháu...) mà không
buộc phải nêu rõ lý do.Nếu người bị truất quyền thừa kế thì người thừa kế khơng
cịn quyền hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật. Nếu người thừa kế không
được chỉ định trong di chúc chưa hẳn đã bị truất quyền hưởng di sản.
Người lập di chúc có quyền phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
Quyền này cho phép người lập di chúc có thể phân định phần di sản cho từng người
thừa kế trong nội dung di chúc.Thực hiện quyền phân định tài sản trong di chúc
chính là việc người để lại tài sản thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở

8


hữu của mình cho từng người thừa kế khi nhiều người cùng được thừa kế. Những
phần di sản này có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau, từng hiện vật khác nhau
phụ thuộc vào ý chí định đoạt của người lập chúc với tư cách là chủ sở hữu tài sản,
không bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào như đe dọa, cưỡng ép, lừa dối. Nếu bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố đó thì di chúc được lập sẽ khơng có hiệu lực thi hành. Nếu
khơng phân định phần của từng người mà chỉ nêu những người được hưởng, những
người đó sẽ được hưởng các kỷ phần thừa kế ngang nhau.
Người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để di
tặng, thờ cúng. Người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản
để di tặng. “Di tặng” được tách ra để hiểu theo ngữ nghĩa của nó thì “tặng có nghĩa
là cho, trao cho để làm kỷ niệm ”, "di" trong trường hợp này được xem xét là di sản.
Với ý nghĩa này thì “di tặng” được hiểu là dùng một phần di sản để tặng cho người
khác sau khi người di tặng qua đời. Luật xưa gọi là “Di tặng nhân tử” và được hiểu
là một người lấy một phần tài sản của mình để cho người khác thông qua việc lập di
chúc. Quy định trên cho phép người lập chúc có quyền định đoạt một phần di sản để

di tặng cho người khác hưởng. Thông thường là người có mối quan hệ thân quen,
bạn bè, đồng nghiệp, người sống nương nhờ... Họ được hưởng di sản của người chết
để lại nhưng không với tư cách là người thừa kế, có quyền xác lập quyền sở hữu đối
với phần di sản di tặng kể từ khi nhận di sản. Người lập di chúc có quyền dành một
phần tài sản trong khối di sản để thờ cúng. Di sản thờ cúng có ý nghĩa cả về mặt vật
chất và cả về mặt tinh thần mà tục lệ gọi là “hương hỏa”. Khơng một ai bị buộc phải
trích một phần di sản dành cho việc thờ cúng, nhưng một khi người lập chúc đã thể
hiện ý chí định đoạt phần di sản cho thờ cúng thì phải được pháp luật tôn trọng và
bảo đảm thực hiện.
Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế. Người thừa kế
có quyền hưởng phần di sản được thừa kế và thực hiện nghĩa vụ của người để lại di
sản trong phạm vi di sản được hưởng. Nghĩa vụ ở đây là những nghĩa vụ về tài sản,
nhưng người thừa kế không phải thực hiện những nghĩa vụ về tài sản gắn liền với
nhân thân của người để lại di sản.Việc thực hiện nghĩa vụ của người thừa kế có thể

9


này xảy ra các trường hợp sau: Người để lại di sản có để lại một nghĩa vụ về tài sản
nhưng trong di chúc khơng nói rõ người thừa kế nào phải thực hiện nghĩa vụ đó thì
theo quy định của pháp luật, người nào hưởng thừa kế thì người đó phải thực hiện.
Tuy nhiên, người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại
trong phạm vi di sản thừa kế đối với toàn bộ nghĩa vụ mà người chết để lại. Nếu có
nhiều người thừa kế theo di chúc thì tất cả những người đó phải thực hiện nghĩa vụ.
Khi di sản đã được chia cho từng người thì mỗi người thừa kế phải thực hiện một
phần nghĩa vụ tương ứng. Trong trường hợp người để lại thừa kế đã xác định rõ tỷ
lệ nghĩa vụ mà từng người thừa kế phải thực hiện thì mỗi người phải thực hiện phần
đó trong phạm vi di sản mà mình được hưởng. Nếu nghĩa vụ vượt quá số di sản
người này được hưởng sẽ chia đều cho những người thừa kế khác thực hiện tương
ứng với phần di sản mà họ đã nhận. Trong trường hợp tồn bộ di sản mà người chết

để lại khơng đủ để thực hiện nghĩa vụ thì người có quyền yêu cầu với người để lại
di sản trong quan hệ trước đó chấp nhận rủi ro và đồng thời nghĩa vụ chấm dứt. Nếu
người lập di chúc đã giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế nhưng không chỉ định
người này hưởng di sản, thì khơng bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực
hiện nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, nếu người được giao thực hiện nghĩa vụ tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ thì dùng một phần di sản mà người chết để lại để thanh tốn
nghĩa vụ đó.
Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Chỉ
định người giữ di chúc: Quy định này nhằm đảm bảo ý chí của người lập chúc thể
hiện trong nội dung di chúc được thi hành trên thực tế khi họ qua đời. Chỉ định
người giữ di chúc để tránh việc thất lạc, hư hỏng di chúc, hủy hoại di chúc, người
lập di chúc có thể gửi lại di chúc ở cơ quan Công chứng hoặc gửi cho bất kỳ người
nào mà mình tin tưởng. “Người” giữ bản di chúc có nghĩa vụ phải bảo quản giữ gìn
bản di chúc theo quy định của pháp luật.Nếu người giữ di chúc đồng thời là người
mà người lập di chúc chỉ định là người công bố di chúc thì khi người lập di chúc
chết, người đó phải công bố di chúc trước những người thừa kế theo đúng thủ tục
như trường họp cơ quan Công chứng là người công bố di chúc. Chỉ định người quản

10


lý di sản: Quy định này nhằm bảo đảm cho di sản không bị mất mát, hư hỏng, huỷ
hoại pháp luật quy định về việc người lập chúc có quyền chỉ định người quản lý di
sản. Người được chỉ định việc quản lý di sản có thể là một trong những người thừa
kể của người đó nhưng cũng có thể là một người, cơ quan tổ chức bất kỳ nào đó.
Người quản lý di sản có quyền hưởng thù lao đối với công việc quản lý di sản và
mức thù lao được xác định theo sự thỏa thuận giữa người đó với người thừa kế. Chỉ
định người phân chia di sản: Người quản lý di sản có thể đồng thời là người phân
chia di sản cũng có thể hai người khác nhau tùy thuộc vào người lập di chúc chỉ
định hoặc mọi người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người phân chia di sản là người

đứng ra phân chia di sản khi người để lại di chúc chết. Việc phân chia di sản phải
tôn trọng sự định đoạt việc phân chia theo di chúc. Nếu di chúc không xác định
cách phân chia di sản thì phải chia theo sự thỏa thuận của tất cả người thừa kế.
Người phân chia di sản có thể được hưởng thù lao đối với cơng việc chia di sản và
theo mức mà người để lại di sản đã xác định. Nếu người lập chúc không xác định
điều này trong di chúc nhưng tất cả những người thừa kế có thỏa thuận thì người
phân chia di sản vẫn được hưởng thù lao theo sự thỏa thận đó. Việc xác định trong
di chúc của cả ba trường hợp trên chỉ thể hiện ý chí đơn phương của một bên trong
việc thiết lập giao dịch dân sự về thừa kế. Vì thế, người quản lý di sản, người giữ di
chúc, người được xác định phân chia di sản có thể từ chối cơng việc đó. Trường hợp
cần thiết những người thừa kế tự thỏa thuận để cử ra người quản lý và người phân
chia di sản.
Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc. Lập
di chúc là giao dịch dân sự (hành vi pháp lý đơn phương) nhằm xác lập giao dịch
dân sự về thừa kế. Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực khi người lập ra nó qua đời. Vì
thế, khi còn sống người lập di chúc, sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc bất cứ lúc
nào. Mặc dù, Điều 626 BLDS năm 2015 không quy định về các quyền này của
người lập chúc nhưng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc được dự liệu
tại Điều 640 Bộ luật dân sự chỉ thuộc quyền của người lập di chúc, Theo đó, người
lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế di chúc đã lập. Sửa đổi di chúc

11


là việc người lập di chúc bằng ý chí của mình làm thay đổi một phần di chúc đã lập,
sau khi sửa đổi thì những phần di chúc khơng bị sửa đổi vẫn có hiệu lực pháp luật,
phần di chúc đã bị sửa đổi sẽ khơng cịn hiệu lực. Bổ sung di chúc là việc người lập
di chúc thêm vào một hoặc nhiều nội dung mà di chúc trước đó khơng có. Người
lập di chúc bổ sung di chúc bằng nhiều phương thức như lập một di chúc khác có
nội dung bổ sung cho di chúc đã lập đồng thời ghi rõ. Đây là di chúc bổ sung cho di

chúc đã lập hoặc ghi thêm nội dung vào di chúc đã lập trước đó. Huỷ di chúc là việc
người để lại thừa kế lập di chúc mới có nội dung tuyên bố huỷ di chúc đã lập. Việc
hủy bỏ di chúc có thể được người lập di chúc thực hiện bằng nhiều cách khác như:
đốt, xé, tiêu hủy... hoặc là người này có thể tuyên bố trước mọi người về việc hủy
bỏ di chúc mà mình đã lập... Nhà soạn luật Việt Nam không quy định về các
phương thức hủy bỏ di chúc là một bất cập trong việc thực hiện và áp dụng pháp
luật liên quan đến vấn đề này. Thay thế di chúc là việc người lập di chúc đã bằng ý
chí tự nguyện của mình truất bỏ (phủ nhận) một ý chí tự nguyện trước đó về việc
định đoạt di sản thừa kế trong di chúc. Nói cách khác, thay thế di chúc là việc lập di
chúc khác thay thế di chúc đã lập. Việc thay thế di chúc có thể ghi rõ trong nội dung
của di chúc hoặc lập một di chúc khác có nội dung phủ nhận nội dung di chúc đã lập
trước đó. Nếu một người lập nhiều di chúc cùng định đoạt một tài sản cho nhiều
người khác nhau, thì di chúc cuối cùng có giá trị, những di chúc trước đó được coi
là đã bị thay thế.

1.2.3. Cá nhân, tổ chức liên quan
1.2.3.1. Cá nhân
a, Người được thừa kế: không được làm chứng cho người lập di chúc
Quy định về người thừa kế, tại Điều 613 BLDS 2015 quy định như sau :
"Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người
để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế".
Người thừa kế:

12


Không được làm chứng cho người lập di chúc căn cứ khoản 1 Điều 633
BLDS năm 2015:

“Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.”
Không được công chứng, chứng thực di chúc căn cứ khoản 1 Điều 637
BLDS năm 2015:
“1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.”
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, kể cả thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật thì những người sau đây khơng có quyền hưởng thừa kế (Điều 643
BLDS):
Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó.
Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại sản.
Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế có quyền.
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một
phần hoặc tồn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên, người có những hành vi này vẫn được hưởng di sản nếu người để
lại di sản đã biết hành vi của họ nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Người thừa kế có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức. Nếu người thừa kế là
cá nhân thì cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại
di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức
phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
b, Người làm chứng
Tại Điều 632 BLDS năm 2015 quy định về người làm chứng cho việc lập di
chúc như sau:
“Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc

13



Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Người làm chứng cho việc lập di chúc là người hỗ trợ cho người để lại di sản
trong quá trình lập di chúc, là người chứng kiến cho q trình lập di chúc, thơng qua
đó, họ sẽ xác nhận năng lực nhận thức của người lập di chúc và bảo đảm nội dung
di chúc là ý nguyện thực của người để lại di sản thông qua việc ký tên hay điểm chỉ
vào bản di chúc.

1.2.3.2. Cơ quan, tổ chức
Điều 636 BLDS năm 2015 quy định:
“Điều 636. Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy
ban nhân dân cấp xã
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước cơng chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Cơng chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác
và thể hiện đúng ý chí của mình. Cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản
di chúc, không ký hoặc khơng điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và
người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Cơng chứng viên hoặc người có thẩm


14


quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt
người lập di chúc và người làm chứng.”
Uỷ ban Nhân dân cấp xã, phường thực hiện. Việc tiến hành thủ tục công
chứng di chúc có thể thực hiện tại Phịng cơng chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định thành lập. Hoặc thực hiện tại Văn phịng cơng chứng (tư nhân). Thủ tục
cơng chứng di chúc theo quy định của pháp luật là khơng phải bắt buộc. Trừ trường
hợp đó là di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi khi xảy ra tranh chấp vẫn có rất nhiều người lựa
chọn thực hiện thủ tục công chứng di chúc.

1.3. Nhận xét, đánh giá
Di chúc có thể được hiểu một cách khái quát nhất là phương tiện ghi nhận ý
chí của cá nhân về việc định đoạt tài sản của mình sau khi chết.
Người làm chứng cho việc lập di chúc là người hỗ trợ cho người để lại di sản
trong quá trình lập di chúc, là người chứng kiến cho q trình lập di chúc, thơng qua
đó, họ sẽ xác nhận năng lực nhận thức của người lập di chúc và bảo đảm nội dung
di chúc là ý nguyện thực của người để lại di sản thông qua việc ký tên hay điểm chỉ
vào bản di chúc.
Về những loại di chúc yêu cầu phải có người làm chứng: Bên cạnh di chúc
do người lập di chúc tự viết tay và ký tên là hợp pháp thì pháp luật quy định một số
loại di chúc yêu cầu phải có sự hỗ trợ của người làm chứng mới được xem là hợp
pháp như: Di chúc do người lập di chúc tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác
viết hộ hoặc đánh máy bản di chúc; di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc
của người không biết chữ và di chúc miệng. Điều kiện để các loại di chúc này phát
sinh hiệu lực là phải được làm chứng bởi ít nhất hai người làm chứng đủ điều kiện
theo luật định.


1.3.1. Điều kiện về người làm chứng cho việc lập di chúc
Di chúc là hình thức thể hiện ý chí của chủ sở hữu về việc định đoạt tài sản
của mình sau khi chết. Thời điểm di chúc phát sinh hiệu lực là người lập di chúc đã

15


chết nên không thể xác minh được nội dung di chúc có phải là ý chí thực sự của họ
và được lập khi người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép hay không. Do đó, trong một số trường hợp nhất định, để bảo đảm tính
khách quan, chính xác và phản ánh đúng ý chí của người lập di chúc, pháp luật địi
hỏi phải có người làm chứng cho việc lập di chúc theo luật định. Người làm chứng
là một trong những yếu tố quan trọng để di chúc có thể phát sinh hiệu lực trên thực
tế, nếu người làm chứng không đáp ứng điều kiện thì sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là
di chúc vô hiệu. Để làm chứng cho việc lập di chúc đòi hỏi người làm chứng cũng
phải thỏa mãn những điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, người làm chứng không phải là người thừa kế.
Pháp luật loại trừ quyền làm chứng của những người thừa kế (khoản 1 Điều
632 Bộ luật Dân sự năm 2015) để bảo đảm tính khách quan của di chúc, tránh
trường hợp những người này chỉnh sửa, giả mạo di chúc hoặc làm cho di chúc vô
hiệu. Người thừa kế bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo
pháp luật.
Đối với người thừa kế theo di chúc thì việc khơng cho phép họ làm chứng về
việc định đoạt tài sản cho chính bản thân mình là điều hồn tồn hợp lý, vì việc làm
chứng để định đoạt tài sản cho chính mình của họ khơng bảo đảm tính khách quan,
độ tin cậy. Tuy nhiên, đối với quy định người làm chứng khơng phải là người thừa
kế theo pháp luật thì cịn chưa hợp lý vì người thừa kế theo pháp luật gồm ba hàng
thừa kế là rất rộng, nhưng trong một số trường hợp khẩn cấp, việc tìm kiếm một
người làm chứng rất khó khăn. Ví dụ như đối với loại di chúc miệng được lập trong

tình trạng “khẩn cấp” thì rất khó để tìm người làm chứng đủ điều kiện. Thiết nghĩ,
nếu pháp luật hạn chế quyền làm chứng của tất cả những người thừa kế theo pháp
luật thuộc ba hàng thừa kế thì q rộng, thơng thường, người thừa kế được hưởng di
sản thường dừng lại ở hàng thừa kế thứ hai, do đó, có lẽ nên xem xét cân nhắc để
hàng thừa kế thứ ba được làm chứng bởi lẽ có những trường hợp người lập di chúc
khơng thể tìm được hai người làm chứng có đủ điều kiện làm chứng cho việc lập di
chúc miệng. Trong trường hợp này, người lập di chúc thường lập dưới dạng lời dặn

16


dò những người thân trước khi chết, những người này lại không đủ điều kiện trở
thành người làm chứng nên làm cho di chúc vô hiệu mặc dù họ rất khách quan,
mong muốn thực hiện đúng di chỉ của người chết. Vì vậy, pháp luật nên sửa đổi là
trong một số trường hợp thì người thừa kế theo pháp luật cũng có thể trở thành
người làm chứng nếu có căn cứ cho rằng họ khách quan khi làm chứng cho di chúc.
Thứ hai, người làm chứng không phải là người có quyền, nghĩa vụ tài sản
liên quan tới nội dung di chúc.
Người có quyền và nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc không
được quyền làm chứng có thể là những chủ thể như người nhận thế chấp di sản;
người thuê mướn di sản; con nợ, chủ nợ của người lập di chúc… nếu cho họ làm
chứng có thể làm di chúc khơng khách quan, thay đổi nội dung di chúc theo hướng
có lợi cho họ (ví dụ như nhằm trốn tránh nghĩa vụ) nên không cho phép những
người này làm chứng cho việc lập di chúc là hợp lý.
Bên cạnh đó, pháp luật về thừa kế một số nước có quy định khơng cho phép
vợ và chồng cùng làm chứng cho một di chúc (Điều 980 Bộ luật Dân sự Cộng hịa
Pháp), vì theo pháp luật dân sự về thừa kế, tất cả loại di chúc yêu cầu người làm
chứng tối thiểu là hai người làm chứng để họ có thể kiểm sốt việc lập di chúc, đối
chất với nhau khi cần thiết. Thế nhưng vợ, chồng là mối quan hệ hơn nhân và gia
đình rất khăng khít, nên việc họ cùng làm chứng cho một di chúc dễ dẫn đến việc họ

thống nhất ý chí, bảo vệ nhau nếu một trong hai bên làm sai, do đó, pháp luật thừa
kế Việt Nam nên tiếp thu kinh nghiệm về vấn đề này. Đặc biệt, đối với hình thức di
chúc miệng được lập trong tình trạng nguy cấp của người lập di chúc, có thể sau khi
“trăn trối” thì người lập di chúc chết và người làm chứng phải ghi chép lại di chúc,
công chứng hoặc chứng thực di chúc. Vì vậy, nếu chỉ có hai vợ chồng họ có mặt tại
thời điểm lập di chúc và cùng ghi chép lại, mang di chúc đi công chứng hoặc chứng
thực thì khó thuyết phục những người liên quan.
Tuy nhiên, đối với trường hợp di chúc miệng thì về quy định người có quyền,
nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc không được làm chứng cũng cần
được xem xét nghiên cứu cho phù hợp. Bởi lẽ, trong trường hợp lập di chúc miệng

17


thì rất khan hiếm khi tìm người làm chứng, hơn nữa, có những trường hợp mà bản
thân người làm chứng cũng khơng biết mình là người có quyền hay nghĩa vụ tài sản.
Thứ ba, người làm chứng không phải là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Quy định điều kiện về độ tuổi và nhận thức của người làm chứng có sự khác
biệt giữa Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015.
Quy định tại khoản 3 Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 có sự tiến bộ khi
khơng cho phép “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” làm chứng
cho việc lập di chúc. Quy định như vậy là hợp lý vì những chủ thể này có vấn đề
trong nhận thức nên việc làm chứng của họ khơng chính xác và độ tin cậy kém. Tuy
nhiên, quy định này vẫn còn thiếu trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự và người khiếm khuyết về thể chất ảnh hưởng đến khả năng nhận thức (như
mù, câm, điếc...) hay người nước ngồi khơng thành thạo tiếng Việt, những người
khơng nghe, nói, đọc, viết được tiếng dân tộc của nhau thì khơng nên làm chứng
cho một loại ngơn ngữ mà mình khơng thành thạo, việc hạn chế quyền làm chứng
của những người đó là hợp lý vì khả năng xác nhận, kiểm tra việc lập di chúc và nội

dung di chúc của họ thiếu khả thi.
Thứ tư, người làm chứng cho di chúc miệng phải là người biết chữ.
Hiện nay chưa có bất kỳ một khái niệm chính xác nào về “người biết chữ”
trong tiếng Việt. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu về “người biết chữ” theo phương
pháp loại trừ trong cuốn “Từ điển tiếng Việt”, đó là từ “mù chữ” được giải thích là
tình trạng “khơng biết đọc, biết viết (tuy ở tuổi đáng lẽ đã được học)”. Vậy “biết
chữ” là khái niệm ngược lại với “mù chữ”, ta có thể khái quát: Người biết chữ là
người có khả năng đọc, hiểu và khả diễn đạt ý chí bằng cách viết.
Đối với di chúc miệng thì người làm chứng có nghĩa vụ sau khi nghe di
nguyện của người chết phải ghi chép lại bằng văn bản thì di chúc mới có thể hợp
pháp, nên đòi hỏi người làm chứng phải biết chữ mới diễn đạt lại ý chí người lập di
chúc thơng qua chữ viết. Tuy nhiên, pháp luật dân sự không quy định rõ điều kiện
này mà chỉ được rút ra từ việc suy luận quy định về di chúc miệng tại khoản 5 Điều

18


630 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo quan điểm tác giả, điều kiện đó là hồn tồn
hợp lý vì tính chất của di chúc là chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết, không
thể đối chất nên địi hỏi người làm chứng phải có khả năng xác nhận nội dung bản
di chúc bằng khả năng nhận thức của mình.
Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị bổ sung những đối tượng sau đây
không được làm chứng cho việc lập di chúc:
Người bị hạn chế về thể chất đến mức ảnh hưởng đến khả năng nhận thức,
quá trình truyền đạt và thu nhận thơng tin dẫn đến hạn chế khả năng xác nhận, kiểm
tra việc lập di chúc hoặc ghi chép lại di chúc.
Người nước ngồi khơng đọc, nói, viết thành thạo tiếng Việt (nếu di chúc
được lập bằng tiếng Việt) và người khơng đọc, nói, viết được tiếng dân tộc khác
(nếu di chúc được lập bằng tiếng dân tộc thiểu số).
Người không biết chữ không được phép làm chứng cho việc lập di chúc. Đối

với di chúc miệng thì điều kiện người làm chứng phải biết chữ mới có thể ghi chép
lại di chúc miệng mặc dù trong tình trạng khẩn cấp. Trong điều kiện thơng thường
thì việc tìm kiếm một người làm chứng biết chữ dễ dàng hơn, người làm chứng biết
chữ mới có thể tự đọc lại bản di chúc và xác minh nó đúng với những gì mình nghe.
Vì vậy, cần bổ sung yêu cầu về người làm chứng cho di chúc phải là người biết chữ.
Cả hai vợ chồng không được cùng làm chứng cho một di chúc. Pháp luật dân
sự yêu cầu đối với loại di chúc phải có người làm chứng thì phải có ít nhất là hai
người làm chứng nhằm mục đích tránh sai lệch nội dung di chúc, những người làm
chứng này sẽ kiểm soát hành vi của nhau bảo đảm tính khách quan của di chúc. Tuy
nhiên, vợ chồng là mối quan hệ mật thiết, gần gũi với nhau, nên dễ dẫn đến thống
nhất ý chí và bao che cho nhau nếu một trong hai bên có sai sót. Vì vậy, đối với di
chúc miệng được lập trong điều kiện cấp bách, người lập di chúc trong tình trạng
nguy kịch, họ khơng thể tự mình tìm kiếm được người làm chứng đủ điều kiện thì
để bảo vệ quyền lập di chúc miệng thì nhà làm luật nên mở rộng hơn chủ thể được
làm chứng cho di chúc miệng.

19


1.3.2. Chi phí cho người làm chứng cho việc lập di chúc miệng
Trong các loại di chúc có người làm chứng thì đối với di chúc miệng, vai trị
của người làm chứng rất quan trọng và những công việc họ phải làm để di chúc
miệng phát sinh hiệu lực khá phức tạp và tốn kém về thời gian, công sức, tiền bạc.
Họ là người trực tiếp nghe, thấy, chứng kiến việc người lập di chúc miệng tuyên bố
ý nguyện, đồng thời phải ghi chép lại nội dung di chúc, ra cơ quan công chứng,
chứng thực để làm thủ tục công chứng, chứng thực đảm bảo tính hợp pháp, có hiệu
lực của di chúc miệng. Do đó, người làm chứng cho di chúc miệng cần được hưởng
một khoản phí hợp lý tương xứng với thời gian, công sức mà họ bỏ ra để làm
chứng. Vì vậy, pháp luật cần bổ sung điều khoản về chủ thể yêu cầu công chứng,
chứng thực di chúc miệng và khoản phí mà người yêu cầu cơng chứng, chứng thực

nhận, khoản phí đó bao gồm những chi phí cần thiết (như phí di chuyển tàu xe, ngày
cơng lao động bị mất, phí cơng chứng, chứng thực, những chi phí liên quan khác),
một khoản thù lao cho việc làm chứng và thực hiện nhiệm vụ công chứng, chứng
thực di chúc miệng. Khoản phí này sẽ được trích từ di sản của người lập di chúc
miệng. Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung khoản phí này vào Điều 658 Bộ luật Dân sự
năm 2015 về thứ tự thanh toán và phân chia di sản theo thứ tự thanh tốn tương
đương vị trí với chi phí bảo quản di sản. Theo đó, bổ sung khoản 3 Điều 658 Bộ luật
Dân sự năm 2015 như sau: “Chi phí cho việc bảo quản di sản; chi phí cho việc làm
chứng cho việc lập di chúc miệng.”

CHƯƠNG II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1.

Ví dụ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng
Vụ tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn Hoàng Quang Văn và bị đơn

Hoàng Quang Ân, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Hồng Thị
Hạnh, Hoàng Thị Ương, Hoàng Thị Đường, Hoàng Thị Đời, Hồng Thị Đành.
Cụ Sóc có 3 vợ, vợ cả là cụ Út, con là bà Hạnh; vợ hai là cụ Ngậy, con là ông
Ân và bà Ương; vợ ba là cụ Lặng, con là bà Đường, Đời, Đành. Ông Văn là con
riêng khi 5 tháng tuổi (1959) theo mẹ về ở với cụ Sóc, được cụ Sóc và họ hàng thừa

20


nhận. Cụ Sóc chết năm 1982 khơng có di chúc, cụ Lặng chết năm 2008 có di chúc
15/08/2005 để ruộng đất và ngôi nhà gỗ nghiến cho ông Văn thừa kế để thờ cúng.
Di chúc do ông Việt ghi chép, ông Vớt là người làm chứng, được Ủy ban nhân dân
xã xác nhận.
Ơng Ân cho rằng ngơi nhà do bố ông tạo dựng, ông Văn không có huyết

thống nên không được hưởng thừa kế. 24/04/2010 ông Ân dỡ lấy căn nhà gỗ, ông
Văn khởi kiện. Những người liên quan bà Đành, Đời, Đường nhất trí cho ơng Văn
thừa kế theo di chúc, bà Hạnh đề nghị xử lý theo pháp luật, bà Ương không yêu cầu
được chia nhưng không nhất trí với di chúc, đề nghị cho ơng Ân hưởng thừa kế.
Bản án DSST ngày 29/12/2010 công nhận di chúc ông Văn được thừa kế
toàn bộ đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Lặng và đất thổ cư
mang tên ơng Ân. Ơng Ân phải trả cho ông Văn giá trị ngôi nhà gỗ là 8.237.000
đồng, ông Ân và bà Hạnh kháng cáo.
Bản án DSPT ngày 22/04/2011 xác định: tồn bộ đất đai cụ Sóc đã đưa vào
hợp tác xã, cụ Sóc chết 1982, năm 1989 hợp tác xã giải thể, gia đình đã nhận lại đất
và đã chia cho ông Văn, ông Ân và cụ Lặng. Theo đó cụ Lặng được 66m 2 đất 5% và
739m2 đất nông nghiệp, nay cụ cho ông Văn thừa kế là đúng pháp luật. Phần đất thổ
cư 850m2 và ngôi nhà gỗ là tài sản chung của cụ Sóc và cụ Lặng nên di chúc của cụ
Lặng không hợp pháp, phần này cần được chia theo pháp luật.
Giá trị ngôi nhà và đất là 21.012.400 đồng, ơng Văn được tính 8.000.000
đồng tiền mai tang, còn lại 13.012.400 đồng. Phần di sản của cụ Sóc và cụ Lặng
mỗi người là 6.006.200 đồng. Phần của cụ Sóc chia thành 08 kỷ phần (cụ Lặng, bà
Ương, Hạnh, Đường, Đành, Đời và ông Ân, Văn) mỗi phần là 750.000 đồng. Ông
Văn được hưởng nhà và đất của hai cụ để lại và được nhường tất cả là 05 kỷ phần +
di sản của cụ Lặng là 9.760.000 đồng. Ông Ân được 2.252.000 đồng và phải trả cho
ông Văn 5.984.000 đồng do đã lấy khung nhà gỗ.
Nhận xét: Bản di chúc được 01 người viết hộ và 01 người làm chứng, so với
quy định tại Điều 656 BLDS năm 2005 là “ Phải có ít nhất 02 người làm chứng” thì

21


chưa đảm bảo về câu chữ nhưng đã thể hiện được ý chí thực của người lập di chúc
và được Tịa án các cấp cơng nhận là hợp lý.
Tuy nhiên án sơ thẩm đã đánh đồng nội dung và hình thức của di chúc là hợp

pháp nên bản án đã bị sửa về phần tài sản của cụ Sóc trong khối di sản chung và
chia thừa kế theo pháp luật. Việc giải quyết như vậy dường như không đúng với quy
định tại điểm 2.4 tiểu mục 2, mục I Nghị quyết 02/2004 ngày 10/08/2004 của HĐTP
TAND Tối cao, cụ Sóc chết năm 1982, kể từ đó các thừa kế khơng có văn bản nào
xác nhận là đồng thừa kế và di sản do cụ Sóc để lại chưa chia, lẽ ra phải giải quyết
về yêu cầu chia tài sản chung nhưng Tòa án vẫn chưa chia thừa kế theo pháp luật và
thực tế cho thấy phương pháp này lại tỏ ra có hiệu quả.

2.2. Một số kiến nghị về thừa kế theo di chúc tại BLDS năm 2015
Pháp luật nên quy định hình thức di chúc đa dạng, phù hợp hơn trong điều
kiện xã hội hiện nay như: di chúc ghi hình, di chúc dưới dạng văn bản có chứng
nhận của tổ chức đoàn thể mà người lập di chúc là thành viên ( Hội cựu chiến binh,
Hội liên hiệp phụ nữ,…) nếu di chúc đó đáp ứng điều kiện là sự thể hiện ý chí của
chính người lập di chúc.
Nếu trong trường hợp chỉ có một người làm chứng nhưng có kèm theo băng
ghi âm, ghi hình hoặc có 01 người vừa làm chứng vừa là người viết hộ di chúc thì
cũng được coi là di chúc hợp pháp.
Trong trường hợp một người đã lập di chúc bằng văn bản nhưng di chúc cuối
cùng là di chúc miệng thì di chúc này được coi là hợp pháp.
Về di chúc chung của vợ hoặc chồng nên quy định thời điểm có hiệu lực của
di chúc chung của vợ chồng như Điều 671 BLDS năm 1995 và cần quy định nguyên
tắc xác định phần tài sản của một bên trong khối tài sản chung khi một bên chết
trước.
Nếu di chúc không chỉ rõ phần di sản dùng để di tặng thì xác định tỉ lệ di sản
dùng cho việc di tặng không quá một suất thừa kế theo pháp luật.

22


Trong trường hợp đặc biệt, người thừa kế theo pháp luật và người viết hộ nội

dung di chúc đồng thời có thể là người làm chứng cho việc lập di chúc nếu di chúc
không ghi nhận quyền lợi cho họ và khơng có tranh chấp về vấn đề này.
Người có thẩm quyền công chứng, chứng thực di chúc chỉ đồng thời là người
làm chứng cho việc lập di chúc nếu di chúc được lập tại cơ quan công chứng.

PHẦN III: KẾT LUẬN
Thừa kế theo di chúc là một chế định quan trọng trong pháp luật Dân sự Việt
Nam. Trong khoa học pháp lý những quy định về thừa kế theo di chúc là một trong
những phương thức thực hiện quyền định đoạt tài sản của chủ thể, được nhà nước
thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Về mặt xã hội những quy định này cịn thể hiện
được tình cảm tốt đẹp, sự tôn trọng truyền thống của con người Việt Nam qua các
quy định cụ thể.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo di chúc là
công việc phức tạp và lâu dài, là một trong những yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra cho
những người làm công tác xét xử hiện nay. Nền công lý trong tiến trình cải cách tư
pháp địi hỏi mỗi cán bộ tòa án phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ
chun mơn.

23


×