Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.37 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

TÊN ĐỀ TÀI: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: LUẬT DÂN SỰ
Mã phách:…………………………………

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:..................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................................2
CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ......................3
1.1. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự:.............................................................3
CHƯƠNG II: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015..............................................................4
2.1. Khái niệm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự..................................4
2.2. Các nguyên tắc cơ bản.....................................................................................5
2.2.1. Nguyên tắc bình đẳng.............................................................................................5
2.2.2. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận...........................................6
2.2.3. Nguyên tắc thiện chí, trung thực..........................................................................7
2.2.4. Ngun tắc tơn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác..............................................................................................8
2.2.5. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự..................................................................9


CHƯƠNG III: VAI TRÒ CÙA CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA BỘ LUẬT
DÂN SỰ.....................................................................................................................11
CHƯƠNG IV: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015 VÀO ĐỜI SỐNG..................................................................11
KẾT LUẬN...................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................17



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Xuất phát từ sự quan trọng của các nguyên tắc cơ bản của Pháp luật thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ngun tắc của một ngành luật nói
chung được ví như xương sống của một con người. Nguyên tắc của luật dân
sự là những quy tắc chung được pháp luật quy định có vai trị định hướng và
chỉ đạo tồn bộ các quy phạm của luật dân sự. Các nguyên tắc của luật dân sự
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng đúng luật dân sự, ngồi ra cịn là
cơ sở để áp dụng pháp luật trong những trường hợp các quan hệ xã hội chưa
có sự điều chỉnh bằng pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời
sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở một hệ thống
pháp luật dần chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ quyên nhân dãn, phân
công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do
cá nhân, cơng bằng, bình đắng trong xã hội. Có rất nhiều bộ luật, mỗi bộ luật
đều có một quy tắc riêng và đem lại sự quan trọng vô cùng lớn trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Đây là một đề tài cấp thiết, để làm rõ vấn đề em xin chọn
đề tài số 1: “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2015 và thực tiễn áp dụng”

1



NỘI DUNG
Bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội khóa IX, kì họp thứ 8 thơng qua ngày 28.10.1995, có hiệu lực
từ ngày 1.7.1996. Bộ luật bao gồm lời nói đầu và 7 phần, 838 điều luật với
những nội dung chính sau: Phần thứ nhất - Những quy định chung; Phần thứ
hai - Tài sản và quyền sở hữu; Phần thứ ba - Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng
dân sự; Phần thứ tư - Thừa kế, Phần thứ năm - Những quy định về chuyển
quyền sử dụng đất; Phần thứ sáu - Sở hữu trí tuệ và chuyển giao cơng nghệ;
Phần thứ bảy - Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Sau gần 10 năm thực hiện, Bộ luật dân sự năm 1995 đã bộc lộ nhiều bất
cập, đặc biệt cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội đã đặt ra yêu cầu, sự đòi
hỏi mới để điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ pháp luật dân sự.
Chính vì vậy, Quốc hội khố XI, tại kì họp thứ bảy đã thơng qua Bộ luật dân
sự mới vào ngày 14.6.2005. So với Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự
năm 2005 tiếp tục được chia thành bảy phần với tên gọi như Bộ luật dân sự
năm 1995, đã có sự thay đổi cơ cấu các điều luật, chỉ còn 777 điều, bên cạnh
những điểm mới nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Bộ luật dân sự được xem là nguồn chủ yếu của luật dân sự, là phương
tiện pháp lí quan trọng nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển, bảo đảm sự
bình đẳng và an tồn pháp lí cho các giao dịch dân sự, bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể trong giao lưu dân sự.
Hiện nay, Quốc hội ban hành bộ luật dân sự năm 2015 và đang có giá trị
áp dụng.

2


CHƯƠNG I: ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ

1.1.

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự:
Là quan hệ nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan

hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự
chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự) (Điều 1 Bộ luật dân
sự - BLDS năm 2015). Với quy định này, luật dân sự nói chung và BLDS năm
2015 nói riêng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đến các quan hệ thuộc lĩnh vực
luật tư và trở thành luật chung điều chỉnh các quan hệ tài sản. Trong trường
hợp luật riêng không quy định trực tiếp để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực đó thì các quy định của BLDS năm 2015 sẽ điều chỉnh. Tuy
nhiên, các quy định của luật riêng không được trái với những nguyên tắc cơ
bản được quy định tại Điều 3 BLDS năm 2015. Trường hợp lụật khác có liên
quan khơng quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm nguyên tác trên thì quy
định của BLDS năm 2015 được áp dụng.

3


CHƯƠNG II: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT DÂN
SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
2.1.

Khái niệm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Nguyên tắc của một ngành luật là những khung pháp lý chung, những

quy tắc chung được pháp luật ghi nhận có tác dụng định hướng và chỉ đạo cho
tồn bộ các quy phạm pháp luật cùa ngành luật đó. Các nguyên tắc của một
ngành luật không chỉ là những quy phạm khi điều tiết mà còn là phương châm

chỉ đạo khi áp dụng pháp luật, đặc biệt là áp dụng tương tự pháp luật. Việc
định ra các nguyên tắc của luật dân sự dựa trên cơ sở những nguyên tắc chung
của luật pháp, căn cứ vào đổi tượng và phương pháp điều chỉnh của luật dân
sự.
Các nguyên tắc của luật dân sự được ghi nhận tại Chương I - Phần thứ
nhất của Bộ luật dân sự: “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự”. Trong
luật dân sự còn tồn tại các nguyên tắc riêng cho từng chế định của luật dân sự.
Những nguyên tắc chung được quy định tại Chương I - Phần thứ nhất có giá
trị áp dụng đối với tất cả các chế định, quy phạm pháp luật dân sự. Những
nguyên tắc riêng là những nguyên tắc được quy định trong từng phần, từng
chế định cụ thể, cũng có thể nhắc lại nguyên tắc chung trong các phần, các
chế định riêng biệt của luật dân sự.
Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định các nguyên tắc cơ bản
trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ và dân sự. Đó là những quy
định mang những quan điểm chủ đạo, quán triệt trong toàn bộ nội dung của
Bộ luật. Những nguyên tắc này là sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc
đã được quy định trong các văn bản pháp luật trước đó đồng thời thể hiện rõ
quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân.
4


2.2.

Các nguyên tắc cơ bản

2.2.1. Nguyên tắc bình đẳng

Đây là một nguyên tắc hiến định và được ghi nhận cụ thể tại khoản 1
Điều 3 BLDS 2015: "Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, khơng được lấy

bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các
quyền nhân thân và tài sản". Sự bình đẳng trong quan hệ dân sự thể hiện:
Sự bình đẳng giữa các chủ thể, mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng,
nghĩa là, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau, mọi pháp
nhân đều có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của
mình. Ngun tắc này được áp dụng đối với mọi chủ thể của quan hệ dân sự,
kể cả giữa cơ quan nhà nước với các cá nhân trong quan hệ dân sự.
Sự ngang bằng về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hồn cảnh kinh
tế, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp của các chủ thể. Các
chủ thể không được lấy lý do khác biệt về các yếu tố này để đối xử bất bình
đẳng với nhau. Khơng một chủ thể nào có đặc quyền, đặc lợi so với các chủ
thể khác trong quan hệ dân sự. Pháp luật nghiêm cấm các hành vi mang tính
quyền lực của một bên đối với bên kia trong giao dịch dân sự.
Sự bảo hộ của pháp luật, mọi cá nhân và pháp nhân đều được pháp luật
bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và quyền về tài sản.
Tuy nhiên, bình đẳng khơng có nghĩa là cào bằng, ngang bằng. Trong
một số trường hợp, do ý nghĩa xã hội của vấn đề mà BLDS quy định những
lợi thế, những ưu tiên nhất định cho đối tượng tham gia quan hệ dân sự. Ví
dụ: Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản khơng rõ ràng thì bên đưa
ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó - khoản 2
Điều 405 BLDS 2015.

5


Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự là nguyên tắc có ý nghĩa rất
quan trọng của pháp luật dân sự. Đây là một nguyên tắc cơ bản áp dụng trong
các quan hệ pháp luật dân sự nói chung và trong từng chế định, quy phạm của
pháp luật dân sự. Đây cũng là nguyên tắc tiền đề để được cụ thể hóa trong các
luật chuyên ngành như: Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh

nghiệp trước pháp luật khơng phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh
tế (Điều 5 Luật doanh nghiệp năm 2014), nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật của thương nhân trong hoạt động thương mại (Điều 10 Luật Thương mại
năm 2005)...
2.2.2. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận

Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được ghi nhận tại
khoản 2 Điều 3 BLDS 2015, là nguyên tắc quan trọng bao trùm lên toàn bộ
quan hệ dân sự, ngun tắc này có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc điều
chỉnh các quan hệ dân sự, những quan hệ mang tính chất cá nhân. Nguyên tắc
này được đưa lên là nguyên tắc đầu tiên trong các nguyên tắc cơ bản của luật
dân sự có ý nghĩa nhấn mạnh việc áp dụng nguyên tắc này trong các giao dịch
dân sự của đời sống xã hội, vì phần lớn các quan hệ trong đời sống dân sự
được thực hiện thông qua hình thức cam kết, thỏa thuận.
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận có nội dung cơ bản là:
“Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa
thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực
thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng". Theo đó, các
chủ thể hồn tồn tự quyết định có thể tham gia hay khơng tham gia các giao
dịch dân sự, chủ thể khác không được áp đặt, cấm đốn, cưỡng ép, đe dọa hay
ngăn cản; có quyền thỏa thuận và lựa chọn nội dung và hình thức của cam kết,
6


trừ những nội dung pháp luật bắt buộc các bên phải tuân thủ khi xác lập giao
kết; có quyền thay đổi, tạm đình chỉ hay hủy bỏ việc thực hiện cam kết, thỏa
thuận xuất phát từ lợi ích của mình và phù hợp với lợi ích của đối tác và
người thứ ba; có quyền hịa giải, tự giải quyết các tranh chấp hoặc yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm.

Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn pháp lý và tạo môi trường lành mạnh và
ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa
thuận của các chủ thể được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó
khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nguyên tắc
này còn ghi nhận mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được
chủ thể khác tôn trọng.
Nghĩa là, sự tự do, cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội của các bên trong các giao dịch dân sự có
hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên, trong trường hợp các bên có thỏa
thuận thì phải tn theo, chỉ khi các bên không thỏa thuận hoặc không thỏa
thuận được với nhau thì tuân theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, sự tự do
cam kết, thỏa thuận của các bên còn được pháp luật bảo hộ, nghĩa là những
cam kết, thỏa thuận đó phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tơn trọng.
Trường hợp có vi phạm nguyên tắc này, thì giao dịch dân sự mà các bên
tham gia sẽ bị coi là vô hiệu, song sự vơ hiệu đó chỉ là tương đối, nghĩa là
hiệu lực giao dịch đó phụ thuộc vào sự lựa chọn và tự do ý chí của các bên có
thể thay đổi cam kết, thỏa thuận đó hay khơng.
2.2.3. Ngun tắc thiện chí, trung thực

Trong quan hệ dân sự, các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến
7


quyền và lợi ích của mình mà cịn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Ngồi ra địi hỏi các bên phải
tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên,
trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện chí. Nêu một
bên cho rằng bên kia khơng trung thực, thiện chí phải có chứng cứ (khoản 3

Điều 3 BLDS 2015).
Thiện chí được hiểu là sự thân thiện, mong muốn được thực hiện hoàn
thành, thực hiện hoàn toàn tự nguyện. Trung thực được hiểu là tôn trọng
khách quan, tôn trọng những điều thực tế, không tạo dựng các thông tin hoặc
các yếu tố gây bất lợi trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự. Trong
quan hệ pháp luật dân sự, sẽ có nhiều quan hệ mà nghĩa vụ của người này
tương ứng với quyền của người khác, thế nên, chỉ cần bên có nghĩa vụ thực
hiện đầy đủ, đúng thì sẽ đảm bảo lợi ích cho bên có quyền. Chính vì thế, q
trình thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, chỉ cần mỗi chủ thể ln nỗ lực
thực hiện tốt nhất bằng hành vi của mình để đem lại lợi ích tối đa cho bên
mang quyền đã tạo nên sự lý tưởng trong quan hệ dân sự.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực khơng phải là một ngun tắc mới mà
được ghi nhận trong pháp luật dân sự từ lâu. Ngun tắc này hồn tồn tương
thích với ngun tắc bình đẳng của các chủ thể bởi khi các chủ thể có địa vị
pháp lý ngang nhau thì đương nhiên, sự thiện chí, trung thực của mỗi chủ thể
sẽ góp phần tạo nên hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên.
2.2.4. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,

lợi ích hợp pháp của người khác
Khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 quy định nguyên tắc cơ bản nhất của luật
Việt Nam là quyền và nghĩa vụ dân sự phải được xác lập, thực hiện trong mối
tương quan hài hòa, hợp lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi
8


ích hợp pháp của người khác: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam cũng như hầu
hết các luật dân sự trên thế giới, nguyên tắc này không chỉ được quy định tại

khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 mà còn được cụ thể hóa ở các phần khác của Bộ
luật dân sự.
Ví dụ: trong chế định giao dịch dân sự vô hiệu, chế định bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng,... lợi ích mà nguyên tắc này đề cập được hiểu là lợi
ích nằm ngồi lợi ích được xác lập bởi quan hệ dân sự giữa các chủ thể và các
bên trong quan hệ dân sự có nghĩa vụ tơn trọng, khơng phân biệt là bên có
nghĩa vụ hay bên có quyền, vì đó là những lợi ích mà việc bảo vệ nó là điều
kiện tiên quyết để giữ gìn sự ổn định của cuộc sống cộng đồng, bảo đảm sự
phát triển của xã hội.
Lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội ở đây có thể là lợi ích vật chất
cũng có thể là lợi ích tinh thần, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp việc xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự còn xâm phạm trật tự quản lý hành
chính, kỷ cương xã hội và vi phạm pháp chế bị coi là vi phạm nguyên tắc này.
2.2.5. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự

Về nguyên tắc, khi nghĩa vụ dân sự được xác lập hợp pháp thì các bên
phải tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp
một bên vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải chịu trách nhiệm về hậu
quả do hành vi vi phạm của mình gây ra, việc gánh chịu hậu quả pháp lý trong
trường hợp đó gọi là trách nhiệm dân sự, là biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước được áp dụng đối với người vi phạm nghĩa vụ. Nếu trách nhiệm dân sự

9


phát sinh mà khơng tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện
theo quy định của pháp luật.
Tính cưỡng chế thực hiện là một trong những đặc tính của trách nhiệm
pháp lý nói chung và trách nhiệm dân sự nói riêng. Đặc điểm của tính cưỡng
chế thực hiện, nghĩa vụ dân sự là buộc phải qua trình tự tố tụng dân sự, bắt

đầu từ khởi kiện tại Tòa án và kết thúc bằng việc thi hành bản án dân sự do cơ
quan thi hành án thực hiện.
Trách nhiệm dân sự là một trong những chế định quan trọng của BLDS.
Nguyên tắc này được ghi nhận cụ thể tại khoản 5 Điều 3 BLDS 2015: “Cá
nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”, chủ yếu được áp dụng đối với quan hệ
nghĩa vụ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ, giữa người bị thiệt hại và
người có hành vi trái pháp luật.
Nội dung của nguyên tắc này còn được thể hiện trong trường hợp khi
bên có nghĩa vụ khơng được thực hiện một cơng việc mà lại thực hiện cơng
việc đó thì phải chịu trách nhiệm khơi phục lại tình trạng ban đầu và bồi
thường thiệt hại. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng
ngừa, giáo dục các bên nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự mà mình đã
cam kết hoặc nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định. Trong trường hợp vi
phạm nghĩa vụ thì phát sinh trách nhiệm dân sự. BLDS 2015 quy định các
biện pháp chịu trách nhiệm dân sự với đặc điểm chủ yếu mang tính chất đền
bù bằng tài sản.

10


CHƯƠNG III: VAI TRÒ CÙA CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA BỘ
LUẬT DÂN SỰ
Định hướng và chỉ đạo toàn bộ các quy phạm của luật dân sự. Các
nguyên tắc của luật dân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc áp dụng đúng
luật dân sự, ngồi ra cịn là cơ sở để áp dụng pháp luật trong những trường
hợp các quan hệ xã hội chưa có sự điều chỉnh bằng pháp luật

CHƯƠNG IV: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VÀO ĐỜI SỐNG

Khi nói đến nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, thì việc đầu tiên có
thể xác định các chủ thể của các quan hệ dân sự trong xã hội là cá nhân và
pháp nhân đều bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ dân sự, về cá nhân
bao gồm cả quyền lợi và nghĩa vụ, không phân biệt giàu nghèo, giới tính,
ngành nghề, dân tộc, tơn giáo … về pháp nhân thì sẽ khơng được phân biệt
pháp nhân thương mại hay pháp nhân phi thương mại.
Khi tham gia vào các quan hệ dân sự có thể sẽ xác lập, thực hiện, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của mình thì cả cá nhân và pháp nhân đều có quyền tự
do, tự nguyện cam kết để thực hiện theo thỏa thuận đó. Tuy nhiên, trên thực tế
vẫn có một số giao dịch dân sự làm mất đi tính tự nguyện của các chủ thể như
bị nhầm lẫn, lừa dối, hay bị đe dọa, cưỡng ép… thì lúc này giao dịch dân sự
sẽ khơng cịn giá trị như thỏa thuận ban đầu. Đồng thời, việc cam kết, thỏa
thuận còn phải tuân theo theo một nguyên tắc cơ bản nữa là không vi phạm
điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Cho nên, ở một khía cạnh nào
đó, các chủ thể tham gia giao dịch dân sự chịu sự giới hạn của pháp luật, ví dụ

11


như việc xác lập và thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ khơng được xâm phạm đến
lợi ích quốc gia, dân tộc, …
Với nguyên tắc bình đẳng, trong một số trường hợp do ý nghĩa xã hội
của vấn đề mà BLDS quy định những lợi thế, những ưu tiên nhất định cho đối
tượng tham gia quan hệ dân sự. Ví dụ: Trường hợp hợp đồng theo mẫu có
điều khoản khơng rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi
khi giải thích điều khoản đó ( khoản 2 Điều 405 BLDS 2015).
Ở Việt Nam, nguyên tắc bình đẳng được thể hiện ở nhiều phương diện
của đời sống như: bình đẳng nam nữ, bình đẳng giữa vợ và chồng, bình đẳng
trong quyền thừa kế … Ví dụ trong bình đẳng quyền thừa kế, sự bình đẳng thể
hiện giữa những người để lại thừa kế hoặc giữa những người được nhận di

sản thừa kế.
Với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, tại nước ta được
thể hiện nhiều nhất qua việc ký kết hợp đồng. Mặc dù vậy, nhưng các bên
tham gia giao kết hợp đồng không được thỏa thuận những nội dung mà pháp
luật cấm hay trái với đạo đức xã hội.
Trong thực tiễn, quyền tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng được
thực hiện khá phổ biến, rộng rãi, các bên giao kết hợp đồng hầu hết đều nhận
thức đầy đủ và thực hiện tốt về quyền năng này trong phạm vi có thể, thể hiện
rõ như:
– Trong lĩnh vực thương mại, bên lợi thế trong hợp đồng sẽ có sự lựa
chọn đối tác yếu thế hơn để lấn át ý chí khi giao kết hợp đồng với mục đích
tìm kiếm lợi ích cao nhất trong quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác đó.
– Người sử dụng lao động thường lựa chọn những ứng viên, người lao
động có năng lực và trình độ chun mơn cao để ký hết hợp đồng lao động và
12


ngược lại người lao động có thể tự do lựa chọn những đơn vị, tổ chức phù hợp
với bản thân để xác lập hợp đồng lao động.
Mặc dù đã được quy định khá rõ ràng và cụ thể bởi pháp luật, tuy
nhiên, quyền tự do giao kết hợp đồng gần như không được thực hiện trong
một số lĩnh vực nhất định. Điển hình nhất là các hợp đồng cung cấp, các dịch
vụ công từ các chủ thể là các công ty nhà nước độc quyền phân phối các dịch
vụ như điện, nước. Chủ thể giao kết là người dân sử dụng các dịch vụ này thì
bắt buộc phải ký kết các hợp đồng mẫu đã được soạn sẵn (không được thay
đổi). Như vậy, trong những trường hợp này quyền tự do giao kết hợp đồng
không được thể hiện rõ ràng cụ thể là một bên không thể tự do thỏa thuận nội
dung hợp đồng khi tham gia giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực cũng được thể hiện khá rõ nét qua việc
ký kết hợp đồng lao động. Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm

trong việc giao kết hợp đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái
với ý chí của mình; đồng thời thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự.
Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi phải
bình đẳng với nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế,
thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tơn giáo… để tạo ra sự bất bình đẳng
trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể tham gia
hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương
diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết
thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy
nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý
chí tự nguyện của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một cơng
việc hồn tồn không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan
và khách quan khác nhau.
13


Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ
quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngồi của chủ thể. Chính vì vậy, sự
thống nhất ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong
nội dung hợp đồng mà chủ thể này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để
xác định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói
cách khác, việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của
hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện
vọng của các bên chủ thể tham gia hợp đồng.
Việc phân loại hợp đồng và xác định các nguyên tắc khi giao kết hợp
đồng có một ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp
dụng chế định hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng.
Khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 quy định nguyên tắc cơ bản nhất của luật
Việt Nam là quyền và nghĩa vụ dân sự phải được xác lập, thực hiện trong mối

tương quan hài hịa, hợp lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi
ích hợp pháp của người khác. Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
Việt Nam cũng như hầu hết các luật dân sự trên thế giới, nguyên tắc này
không chỉ được quy định tại khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 mà còn được cụ thể
hóa ở các phần khác của Bộ luật dân sự.
Ví dụ: trong chế định giao dịch dân sự vơ hiệu, chế định bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng,... lợi ích mà nguyên tắc này đề cập được hiểu là lợi
ích nằm ngồi lợi ích được xác lập bởi quan hệ dân sự giữa các chủ thể và các
bên trong quan hệ dân sự có nghĩa vụ tơn trọng, khơng phân biệt là bên có
nghĩa vụ hay bên có quyền, vì đó là những lợi ích mà việc bảo vệ nó là điều
kiện tiên quyết để giữ gìn sự ổn định của cuộc sống cộng đồng, bảo đảm sự
phát triển của xã hội.
14


Cuối cùng là nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự được thể hiện trong và
ngoài hợp đồng.
Chúng ta đều biết, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, mà trong đó
các bên tự thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa vụ
trong hợp đồng có thể sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trong mỗi
loại hợp đồng, các bên đều có thể tự do thỏa thuận những nội dung cụ thể. Và
những thỏa thuận trong hợp đồng này chính là sự ràng buộc đối với cả hai bên
hợp đồng. Hai bên có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận đã có trong hợp đồng
dân sự.
Ví dụ: Theo Khoản 5 Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 đã quy định về
trách nhiệm khi vay quá hạn chưa trả hoặc trả không đầy đủ như sau:
Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay khơng trả hoặc trả
khơng đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng
với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì cịn phải trả lãi

theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp
đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Như vậy, trong trường hợp bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và trả thêm
lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả. Trong hợp đồng, việc không thực hiện đúng
nghĩa vụ có thể sẽ là căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự.
KẾT LUẬN
Việc Thảo Luận Các Nguyên Tắc Cơ Bản Của Pháp Luật Dân Sự Năm
2015 Của Bộ Luật Dân Sự Khơng Chỉ Có Ý Nghĩa Học Thuật Mà Cịn Có
15


Tác Động Rất Lớn Trong Thực Tiễn, Tạo Ra Một Chuẩn Mực Pháp Lý
Chung, Thống Nhất Cho Hành Vi Của Cá Nhân Và Pháp Nhân Trong Các
Quan Hệ Dân Sự. Và Đảm Bảo Tính Minh Bạch Của Pháp Luật, Hạn Chế Tối
Đa Việc Lạm Dụng, Trốn Tránh Pháp Luật, Nhất Là Đối Với Các Hợp Đồng
Có Yếu Tố Nước Ngồi Hoặc Việc Công Nhận Và Thi Hành Phán Quyết Của
Trọng Tài Tại Việt Nam. Trên đây là toàn bộ nội dung bài tập lớn kết thúc học
phần môn Hiến pháp Việt Nam của em. Vì đây là một đề tài khá rộng mà
khn khổ bài tập lớn lại có hạn nên bài làm của em khơng tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cơ để bài làm được
hồn thiện hơn!.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Luật Dương Gia
[2]. Tạp chí điện tử luật Dân sự Việt Nam
[3]. Luật Minh Khuê

[4]. Ánh sang Luật
[5]. Hệ thống Pháp luật Việt Nam

17



×