Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Từ quan hệ chính trị và kinh tế phân tích bài học kinh nghiệm từ công cuộc cải tổ ở liên xô cũ, trung quốc và đổi mới của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.3 MB, 54 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: (10). Từ quan hệ chính trị và kinh tế phân tích bài học kinh
nghiệm từ công cuộc cải tổ ở Liên Xô cũ, Trung Quốc và đổi mới
của Việt Nam

HÀ NỘI – 2021


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………...1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………...6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu…………………………………7
5.
Ý
nghĩa

luận
tiễn…………………………………………………..7



thực

6. Kết cấu của tiểu luận…………………………………………………………7
NỘI DUNG
Chương 1: Công cuộc cải tổ của Liên Xô 1985-1991 và bài học kinh nghiệm
1.1. Cải tổ và tan rã……………………………………………………………...8
1.2. Bài học kinh nghiệm………………………………………………………17
Chương 2: Công cuộc cải cách – mở cửa kinh tế ở Trung Quốc và bài học


kinh nghiệm
2.1. Tình hình Trung Quốc trước cải cách – mở cửa kinh tế………………...20
2.2. Cải cách – mở cửa kinh tế ở Trung Quốc…………………………….......21
2.2.1. Đường lối, chính sách cải cách kinh tế…………………………………
21
2.2.2. Các giai đoạn thực hiện cải cách – mở cửa kinh tế của Trung Quốc…22
2.2.2.1. Giai đoạn bắt đầu cải cách (12/1978 – 10/1984)………………22
2.2.2.2. Giai đoạn mở rộng cải cách kinh tế (10/1984 – 9/1988)………23
2.2.2.3. Giai đoạn chấn chỉnh, sửa chữa và tiếp tục cải cách (10/1988 –
12/1991)………………………………………………………………….23
2.2.2.4. Giai đoạn bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa (1/1991 – 11/2002)…………………………………………...24


2.2.2.5.
Giai
đoạn
từ
nay……………………………………...25

2002

đến

2.3. Bài học kinh nghiệm………………………………………………………26
Chương 3: Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN ở Việt Nam
3.1. Sự cần thiết khách quan hình thành và phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam……………………………………………………...29
3.1.1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó…………………………………..…

29
3.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng XHCN………………………………………………………
30
3.2. Qúa trình hình thành kinh tế thị trường ở nước ta………………………
34
3.2.1. Trước năm 1986…………………………………………………..34
3.2.2.
Sau
1986……………………………………………………..35

năm

3.3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam……………………….36
3.3.1.
Về
chế
hữu………………………………………………….36
3.3.2.
Về
quan
phối…………………………………………….37

độ
hệ

sở
phân

3.3.3. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế………………………...38

3.4. Thực trạng và giải pháp của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam………………………………………..39
3.4.1. Thực trạng của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị
trường……………………………………………………………………39


3.4.2. Giải pháp khắc phục khó khăn phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN………………………………………………………
41

KẾT LUẬN……………………………………………………………………..47
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...49


MỞ ĐẦU
1/. Lý do chọn đề tài.
Sau cách mạng tháng 10 Nga thành công, nước Nga tiến hành xây dựng
đất nước theo con đường XHCN. Đến tháng 12 năm 1992, tại Đại hội Xơ viết
tồn Nga quyết định thành lập Liên Bang Cộng hịa XHCN Xơ Viết (Liên Xơ).
Cong cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả
các lĩnh vực và đã để lại dấu ấn sâu sắc cho lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, từ đầu
những năm 90, cuộc khủng hoảng toàn diện ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã
dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở khu vực này. Nhiều nhà khoa học chính trị Châu
Âu đã cho rằng sự thất bại hoàn toàn của CNXH trên phạm vi thế giới là khơng
thể tránh khỏi, vì ngun nhân của sự sụp đổ này nằm trong bản chất của CNXH,
mà về bản chất CNXH là không thể đổi mới được. Nhưng từ thực tế, chúng ta
thấy rằng nhìn phạm vi toàn thế giới, những nhận xét trên là hoàn toàn khơng có
căn cứ xác đáng bởi ở những nước lựa chọn con đường XHCN như Trung Quốc,
Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại và phát triển. Sau quá trình đổi mới, các nước này
khong những đã thốt khỏi tình trạng khủng khoảng mà chế độ XHCN còn được

cải thiện đáng kể. Rõ ràng chúng ta không thể nhận định rằng CNXH là vô vọng,
không thể đổi mới được như nhiều nhà nghiên cứu phương Tây đã khẳng định.
Như vậy ta thấy ở đây tốt lên vấn đề: Cái gì chi phối thành công hay thất bại
của chế độ XHCN trong điều kiện của khủng hoảng chung của CNXH vào
những năm 80 của thế kỷ XX? Theo dõi diễn biến các sự kiện diễn ra tại các
nước XNCH ở Châu Á lẫn Châu Âu trong những năm 80 cho ta thấy: Để thốt
khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ, hội nhập với thế giới thì hầu hết tất cả các
nước này đều bắt tay vào công cuộc cải cách, mở cửa, đổi mới, cải tổ… đất
nước. Song đường lối cải cách, cải tổ, đổi mới,… ở các nước này đều có sự khác
biệt. Trung Quốc, Việt Nam ưu tiên hàng đầu cải cách kinh tế và coi đó là trọng
tâm của cuộc cải cách cịn đổi mới cải cách chính trị về thực chất chỉ tạo điều
kiện, thúc đẩy cải cách kinh tế mà thôi. Ở Liên Xô và Đông Âu tình hình lại khác
hẳn. Sau một vài năm tiến hành cải cách kinh tế không mấy thắng lợi, các nướ
này đã quay sang tiến hành chính trị và coi đó là khâu then chốt, quyết định cho
công cuộc cải cách. Kết quả đạt được đó là Trung Quốc, Việt Nam đã thốt khỏi
tình trạng khủng khoảng và sụp đổ. Từ luận điểm này chúng ta thấy rằng nguyên
nhân thất bại của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu nằm chính trong đường
lối, bước đi của cơng cuộc cải tổ.
1


Chính vì vậy, nghiên cứu cong cuộc cải tổ ơ Liên Xơ để có những cách
nhìn khách quan về sự thực lịch sử từ đó thấy những sai lầm và có thể rút ra
những kinh nghiệm cho các nước vẫn kiên định con đường CNXH. Mặt khác cả
Liên Xô và Việt Nam đều lựa chọn con đường đi lên XHCN. Ở Liên Xô CNXH
thường đạt được những thành tự to lớn, điển hình nhưng cuối cùng lại đi đến sụp
đổ. Còn ở Việt Nam chúng ta đang trên đường quá độ lên CNXH, Đảng và nhân
dân ta học tập rút ra được kinh nghiệm gì từ thất bại của cơng cuộc cải tổ ở Liên
Xô và các nước Đông Âu? Nghiên cứu và tìm hiểu về cơng cuộc cải tổ ở Liên
Xô phần nào giúp chúng ta tránh khỏi những bước đi sai lầm và vững tin hơn

trên con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Là một sinh viên đại học khi nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp tôi tự tin trong
học tập, trong việc đáng giá, nhận xét một cách khách quan hơn về sự sụp đổ của
CNXH ở Liên Xô và các nước Đơng Âu tránh bóp méo, xun tạc sự thật lịch sử
để chúng ta ln có niềm tin vào CNXH và vững bước đi lên con đường XHCN
mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Cho đến nay, công cuộc cải tổ đã diễn ra trên 20 năm, nhưng cho đến nay
vẫn có rất nhiều ý kiến tranh luận xung quanh vấn đề về công cuộc cải tổ ở Liên
Xơ (1985-1991). Tuy nhiên mỗi nhà nghiên cứu đều có cách nhìn, cách đánh giá
riêng trong đó tiêu biểu nhất là các bài viết của các học giả đã từng là nhân
chứng sống của công cuộc cải tổ này. Học đã hồi tưởng lại và viết thành các tác
phẩm, những tác phẩm này là nguồn tài liệu khá chân thực về cong cuộc cải tổ:
(1) V.I Bô Din, sự sụp đổ của thần tượng – những nét chấm phá chân dung
M.X.Goocbachop, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội – 2002. Tác giả là người thân
cận của Goocbachop nên ông được chứng kiến trực tiếp những sự kiện diễn ra ở
thời điểm đó. Cuốn sách là những suy nghĩa của ơng về Goocbachop. Lúc đầu
ơng có ấn tượng tốt về Goocbachop thế nhưng dần dần thần tượng đó đã bị sụp
đổ.
(2) V.A Metvedep (1996), Êkíp Goocbachop nhìn từ bên trong, NXB chính
trị Quốc gia, Hà Nội. Metvedep là một nhân vật chủ chốt trong ê kíp
Goocbachop trong thời kỳ những năm cải tổ. Thông qua các cuộc tranh luận
trong giới thân cận Goocbachop qua các cuộc luận chiến với các lực lượng chính
trị khác nhau, tác giả đã đánh giá, xem xét, lý giải những mốc chính trong thời
kỳ cải tổ.
2


(3) Vichto Aphaniep – Quyền lực thứ tư và bốn đời tổng thống, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Trong cuốn sách tác giả giành một phần viết
về “Goocbachop và cơng cuộc cải tổ”. Tác giả trình bày quan điểm của mình về

cơng cuộc crai tổ, về con người và phẩm chất Goocbachop.
(4) Ruscop Nhicolai Ivanovich, cải tổ: Lịch sự của những người phản bội,
Tổng cục 2, Bộ quốc phòng 1992. Là một người được được cử làm chủ tịch hội
đồng bộ trưởng Liên Xô trong 6 năm “cải tổ chính thức”, Ơng có điều kiện tiếp
xúc trực tiếp với những gì đang diễn ra trong thời điểm cải tổ. Chủ đề xuyên suốt
tác phẩm là: Cải tổ, các sự kiện diễn ra trong thời kỳ cải tổ, sự phản bội của
Goocbachop, qua đó tác giả dưa ra một loạt hệ thống quan điểm của mình.
(5) Trong cuốn, Sự phản bội của Goocbachop, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội năm 1978. Do tập thể các tác giả biên soạn trong đó có phần “Sự phản
bội của Goocbachop” ở đây tác giả dường như lần theo các sự kiện bắt đầu từ
tháng 3 năm 1985 khi Goocbachop chính thức làm tổng bí thư tiến hành cải tổ và
đến tháng 8 năm 1991 thì cải tổ bị sụp đổ, qua quá trình đó cuối cùng đi đến kết
luận về sự phản bội của Goocbachop.
(6) V.Paplop, A.Lakianop, V.Criuscop: Goocbachop – Bạo loạn, sự kiện
tháng Tám nhìn từ bên trong, NXB Chính trị Quốc gia, 1994. Ba tác giả là những
thành viên của ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, trực tiếp tham gia công
cuộc cải tổ, cuốn sách cung cấp cho chúng ta những tư liệu về nguyên nhân dẫn
đến công cuộc cải tổ đi chệch quỹ đạo XHCN, các tư liệu văn bản, chứng cứ, lập
luận có tính phản biện xung quanh sự liện 19/8/1991.
(7) A.Dobrunhin – Đặc biệt tin cậy, vị đại sứ ở Oasington qua 6 đời tổng
thống Mỹ, NXB Chính trị Quốc gia 2001. Tác giả cuốn sách nguyên là bí thư
Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, nhà ngoại giao chuyên nghiệp kỳ cựu, cựu
đại sứ Liên Xô tại Mỹ qua 6 đời Tổng thống Mỹ. Cuốn sách chứa đựng những
thông tin tư liệu chưa hề cơng bố, trình bày lịch sử quan hệ ngoại giao giữa Liên
Xô và Mỹ trong những năm 1960 đến năm 1990, thơng qua đó trình bày đẩy đủ
mối quan hệ Xô – Mỹ đầy phức tạp
(8) Osepov.G.V – Những huyền thoại của cuộc cải tổ và hiện thực sau cải
tổ đăng trên tài liệu phục vụ nghiên cứu, số TN 93-13, Hà Nội 1993. Tác giả là
viện sĩ, viện trưởng viện nghiên cứu chính trị thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga.
3



Bài viết là sự mổ xẻ thực tiễn, đólà sự suy ngẫm về những sự kiện có tầm quan
trọng trong xã hội về công cuộc cải tổ và sau cải tổ.
Ngồi những tư liệu trên đây cịn có một số tư liệu khác của các nhà
nghiên cứu Liên Xô như Iu.N.A Phanaxiep – (1989), Khơng có con đường nào
khác, NXB Sự Thật, Hà Nội; X.X. Satalin – Chương trình 500 ngày chuyển sang
kinh tế thị trường, Viện Kinh tế, Viện thông tin khoa học xã hội, 1991 …
Các nhà học giả phương Tây:
(1) Suman Son có tác phẩm “Những ơng chủ Kremlin, quyền lực và số
phận” trong đó giành một phần viết về Goocbachop với cái nhìn mới mẻ về con
người này
(2) Peter J.Boettke, Wy perestroika failed? – NXB London and New York
1993. Tác giả lý giải tại sao công cuộc cải tổ của Goocbachop lại bị thất bại
(3) Các nhà khoa học phương Tây với công cuộc cải tổ ở các nước XHCN
là hai bài được đăng trên tạp chí “Thơng tin khoa học xã hội”, số 1, số 2 1991.
Bài thứ nhất chủ yếu phản ánh ý kiến của các nhà khoa học phương Tây thuộc
nhiều khuynh hướng khác nhau về công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước
XHCN. Bài thứ hai phản ánh thái độ của Đảng Cộng sản Pháp với công cuộc cải
tổ
(4) Geard Duchene – Một số ý liến đánh giá đường lối cải tổ ở Liên Xô –
Bản tin tham khảo nội bộ số 20 – 1990. Tác giả là nhà kinh tế học người Pháp đã
điểm lại treen nhiều khía cạnh tình hình phát triển kinh tế của Liên Xơ từ khi
phát động cơng cuộc cải tổ và cũng từ đó đưa ra những kết luận, đánh giá về nó
(5) A.I. ldum mob – Nền kinh tế Liên Xô dưới con mất phương Tây đăng
trên bản tin chọn lọc, số 6, 1989. Tác phẩm này trình bày tỏng quát cách nhìn
nhận về cải tổ kinh tế ở Liên Xô của các nhà Xơ viết phương Tây. Trong bài này
có sử dụng tư liệu được nghe ở Quốc hội Mỹ, các thông tin đánh giá của các
chuyên gia chính phủ, các sách chuyên đề và các bài viết của các nhà nghiên cứu
nổi tiếng ở phương Tây, thông tin của các báo, tạp chí, các tư liệu qua các cuộc

thảo luận của tác giả với chuyên gia phương Tây.
Các học giả Trung Quốc:
4


(1) Đào Lộc Bình – Nói chuyện về cơng cuộc cải tổ ở Liên Xô, NXB Sự
Thật, 1988. Trong cuốn sách này tác giả đề cập đến các vấn đề cải tổ như vấn đề
khoa học kỹ thuật quản lý kinh tế, cải tổ nơng nghiệp, dân chủ hóa xã hội, chăm
lo đời sống nhân dân. Đây là một tác phẩm viết vào thời điểm công cuộc cải tổ
đang diễn ra, được dịch năm 1987 nên chỉ dừng lại nghiên cứu ở giai đoạn một
của công cuộc cải tổ này.
(2) Năm 1988, Viện kinh tế thế giới có xuất bản thông tin chuyên đề “Cải
tổ ở Liên Xô”. Cuốn sách giới thiệu một số bài viết và trả lời phỏng vấn của các
viện sĩ, viện trưởng về công cuộc cải tổ đang diễn ra.
(3) Sóng Tùng, Vì sao chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 2, 1992. Bài viết có đề cập đén sự sụp đổ
của CNXH ở Liên Xơ trong đó ngun nhân trực tiếp của nó là cơng cuộc cải tổ
(1985-1991) gây ra.
(4) Nguyễn Thị Hoa, Nhìn lại cơng cc cải tổ ở Liên Xơ trước đây đăng
trên tạp chí cộng sản số 114, 2006. Bài viết tổng hợp nguyên nhân thất bại của
cải tổ và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của công cuộc cải tổ.
(5) Quang Lợi, tác giả của bài bút kí “Cải tổ - vùng mắt bão”. Bài viết
được ghi lại từ những cảm nhận của tác giả khi ông trực tiếp sang thăm Liên Xô
vào thời gian cuối của cuộc cải tổ, khi đất nước Liên Xơ lâm vào tình trạng
khủng hoảng. Bài viết cung cấp cho ta số liệu về cuộc khủng hoảng kinh tế ở
Liên Xơ
Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu công cuộc cải tổ ở Liên Xô từ 19851991 với nhiều góc độ khác nhau. Hầu hết trước đây các quan điểm đều nhằm
chỉ trích Goocbachop và cho rằng nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp
đổ của CNXH ở Liên Xô là do ông. Ngày nay, sau gần 30 năm nhìn lại có lẽ mỗi
chúng ta cần có một cách nhìn, cách suy nghĩ, đánh giá khách quan hơn về tổng

thể của cuộc cải tổ này và đồng thời qua đó cũng rút ra được bài học kinh
nghiệm hết sức quý báu để đất nước ta vững bước trên con đường CNXH mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy nhiên hầu hết các cơng trình nghiên cứu
chỉ mới chú ý đề cập đến từng hiện tượng, từng khía cạnh mà chưa có sự đanh
giá một cách tổng qt. Chính vì vậy chúng tơi mong muốn được đi sâu hơn nữa
trong luận văn này.
5


Trung Quốc
Lịch sử kinh tế Trung Quốc thời kỳ hiện đại để lại dấu ấn sâu đậm những
bước thăng trầm trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, thành cơng nhiều
nhưng thất bại cũng khơng ít, thậm chí có giai đoạn Trung Quốc đã rơi vào tình
trạng hỗn loạn, cùng cực. Tuy nhiên, trong vòng ba thập kỉ trở lại đây công cuộc
cải cách và mở cửa đã khiến đất nước này đã có những bước tiến kỳ diệu trên
con đường phát triển kinh tế.
Giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn
hóa, kinh tế - xã hội cũng như định hướng chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu
những thành công hay hạn chế trên đường cải cách, mở cửa của Trung Quốc sẽ
cho chúng ta những bài học sâu sắc và bổ ích.
Tiểu luận này sẽ cho chúng ta cái nhìn cận cảnh hơn về công cuộc cải
cách, mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc. Từ đó rút ra những bài học, cả về kinh
nghiệm thành công, lẫn kinh nghiệm thất bại cho q trình kinh tế nước nhà.

2/. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm tìm hiểu cơng cuộc cải tổ của Liên Xô và
Trung Quốc và bài học lịch sử sau gần 30 năm nhìn lại. Chính vì vậy cần làm rõ
hồn cảnh ra đời của cơng cuộc cải tổ, q trình thực hiện và kết quả của công
cuộc cải tổ từ đó đánh giá, nhận xét và rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình
xây dựng CNXH ở Việt Nam

- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hoàn cảnh lịch sử và đường lối của cuộc cải tổ
+ Qúa trình thực hiện và kết quả của công cuộc cải tổ
+ Đánh giá, nhận xét về cơng cuộc cải tổ và từ đó rút ra bài học

3/. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

6


- Đối tượng nghiên cứu: Công cuộc cải tổ của Liên Xô, Trung Quốc và bài học
lịch sử
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian:
+ Về nội dung: Đề tài nghiên cứu công cuộc cải tổ của Liên Xô và Trung Quốc
qua 3 giai đoạntrên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, đối ngoại và kết quả
của nó từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá và bài học kinh nghiệm.

4/. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận:
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật
lịch sử, phản ánh một cách trung thực q trình cải tổ ở Liên Xơ và Trung Quốc,
nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan và rút ra những bài học kinh nghiệm.

5/. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Ý nghĩa lý luận:
- Ý nghĩa thực tiễn: Tiểu luận trình bày những nét chính về hồn cảnh lịch sử để
hình thành đường lối cải tổ, nội dung, kết quả và những đánh giá của công cuộc
cải tổ giúp người đọc có những suy nghĩ nhìn nhận khách quan hơn về một giai
đoạn lịch sử quan trọng ở Liên Xô và Trung Quốc. Từ công cuộc cải tổ ở Liên

Xô để so sánh, đối chiếu với các nước XHCN khác. Từ đó giúp chúng ta rút ra
được những sai lầm đáng tiếc xảy ra trên con đường xây dựng XHCN ở Việt
Nam.

6/. Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm chương:
Chương 1: Công cuộc cải tổ của Liên Xô 1985-1991 và bài học kinh nghiệm
7


Chương 2: Công cuộc cải cách – mở cửa kinh tế ở Trung Quốc và bài học kinh
nghiệm
Chương 3: Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở Việt Nam

NỘI DUNG
Chương 1: Công cuộc cải tổ của Liên Xô 1985-1991 và bài học kinh nghiệm
1.1. Cải tổ và tan rã.
Năm 1982, Brezhnev qua đời. Hai người kế nhiệm ông cũng không tại vị
được lâu. Yuri Andropov lên nắm quyền vào năm 1982 và chết hai năm sau
đó. Konstantin Chernenko trở thành Tổng bí thư vào năm 1984 và qua đời chỉ
sau đó một năm. Năm 1985 Mikhail Sergeyevich Gorbachev được bầu làm Tổng
bí thư mới. Gorbachev và những người cùng chí hướng với ơng như Aleksandr
Nikolayevich Yakovlev bắt đầu tiến hành chính sách cải tổ và cơng khai hóa để
thúc đẩy các tiềm năng chưa được khai thác của xã hội. Cải tổ tìm cách nới lỏng
sự kiểm soát tập trung của Đảng và nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội, tự do hóa ngơn luận, bầu cử cạnh tranh và tiến đến loại bỏ sự
can thiệp của các cơ cấu đảng vào kinh tế và một số mặt của đời sống chính trị
xã hội. Theo Gorbachev hồi tưởng - trích dẫn bởi Sputnik - "Niềm tin sâu sắc
của tơi nằm ở con đường dẫn đến chủ quyền chính trị của các nước cộng hòa,

đưa đến sự độc lập kinh tế, giữ gìn bản sắc của họ, cũng như phát triển văn hóa
thơng qua cải tổ liên bang, chuyển đổi thành một nhà nước liên bang dân chủ,
thực chất, hiệu quả, mà các nước cộng hòa được ủy quyền”. Nhưng những nỗ
lực cải cách đã không thu được kết quả như mong đợi. Sự tích cực của dân
chúng dâng cao nhưng lại đi chệch hướng, khiến khủng hoảng chính trị trở nên
sâu sắc: các tổ chức phi chính phủ, các nhóm dân tộc chủ nghĩa xuất hiện ngày
càng nhiều và ngày càng có xu hướng chống chính quyền trung ương, địi ly
khai độc lập.
Tốc độ và quy mơ của các sự kiện làm những người chủ xướng cải cách
không cịn kiểm sốt được tình hình. Nền kinh tế chưa có chuyển biến đáng kể
thì khủng hoảng chính trị đã trở nên trầm trọng: các lực lượng ly khai dần dần
8


nắm các vị trí lãnh đạo của các nước cộng hòa và ra các tuyên bố về đòi ly khai
độc lập. Xung đột sắc tộc trở nên phức tạp có đổ máu, thậm chí có nơi chính
quyền nước cộng hịa thành viên lại xung đột với các nước cộng hòa lân cận.
Mâu thuẫn dân tộc rất lớn trong lòng Liên Xơ trước đây được kiềm chế thì nay
đã bộc lộ và tiến triển khơng thể kiểm sốt được. Một khi tình hình hỗn loạn thì
các mối liên hệ kinh tế giữa các vùng miền và các nước cộng hòa cũng bị gián
đoạn làm tình hình kinh tế trở nên sa sút, tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Các
đảng viên cộng sản khơng cịn chịu sự kiểm sốt và không tuân thủ kỷ luật của
Đảng, nhiều người quay sang trở thành các lực lượng dân tộc chủ nghĩa đòi ly
khai. Ngay cả cộng hịa Xơ viết Nga, nước trụ cột của Liên Xô, cũng ra nghị
quyết đặt luật pháp nước cộng hịa Xơ viết Nga cao hơn hiến pháp Liên Xô,
quyền lực của nhà nước trung ương Liên Xô dần dần bị tan rã.
Trong bối cảnh đó, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô lại dần bị khống chế
bởi những nhân vật do Gorbachev bổ nhiệm. Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi
các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115
ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự viết đơn xin nghỉ hưu vì tin rằng

đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa. Đây chính là sai lầm của
những người cộng sản trung thành với các nguyên tắc Marx-Lenin trong Đảng
Cộng sản Liên Xô. Chỉ trong ba năm 1987-1989, đã có 8 ủy viên Bộ Chính trị và
Ban Bí thư Trung ương Đảng, hơn 20 bộ trưởng, 92,5% trong 150 bí thư tỉnh ủy
đã bị cách chức hoặc thay thế; khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong
quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch - chiến lược và 30% tướng lĩnh
bị cách chức hoặc loại khỏi quân đội với lý do “tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ
cải tổ”, thay thế họ là những phần tử “cấp tiến” Sức kháng cự của những Đảng
viên trung thành dần suy yếu và cuối cùng đã tê liệt.
Năm 1988, Gorbachev cử Vadim Bakatin làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ
(MVD). Bakatin đã làm tê liệt Lực lượng Cảnh sát Liên Xô khi biệt phái nhiều sĩ
quan sang các cơ quan, tổ chức khác và xóa bỏ mạng lưới đặc tình của lực lượng
này. Sau đó, Bakatin đã hủy bỏ chính MVD, khi cho tách lực lượng này thành 15
cơ quan riêng biệt cho các nước Cộng hịa tự trị. Như vậy, về cơ bản Bakatin đã
xóa sổ lực lượng cảnh sát của Nhà nước trung ương Liên Xô.
Những nhân vật ủng hộ Gorbachev cũng được bổ nhiệm tại các cơ
quan truyền thơng, báo chí, tun truyền lớn của Liên Xô. Tháng 7/1985,
9


Gorbachev bổ nhiệm A. Yakovlev làm Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xơ. Yakovlev có sự thù hận đặc biệt đối với Cách mạng
Tháng Mười và luôn muốn phủ định chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô. Từ 1986
đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo lớn tại Liên Xô được
Yakovlev thay thế bởi những người có tư tưởng giống như Yakovlev, mặt trận
báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xơ dần bị "đánh chiếm". Từ đó, báo chí Liên
Xơ liên tục gây khuynh đảo dư luận khi ngấm ngầm (rồi sau đó cơng khai) viết
bài chỉ trích lịch sử cách mạng, xét lại lịch sử, trong khi lại tán dương phương
Tây. Ảnh hưởng từ báo chí, tư tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao
động dữ dội, ngày càng có nhiều người bi quan về đất nước trong khi lại ảo

tưởng về "thiên đường giàu có" ở phương Tây.. Được sự che đỡ của Yakovlev,
truyền thông Liên Xô cũng bắt đầu khai thác các mặt trái về kinh tế xã hội, gồm
điều kiện nhà ở xuống cấp, nạn nghiện rượu, sử dụng ma tuý, ô nhiễm, các nhà
máy từ thời Stalin đã quá cũ kỹ và tình trạng tham nhũng trong bộ máy Nhà
nước, những sai lầm của chính phủ Liên Xô dưới thời Stalin, đây vốn là những
điều mà truyền thơng chính thức đã cố tình bỏ qua. Hơn nữa, cuộc chiến tranh
đang diễn ra tại Afghanistan và việc xử lý kém trong thảm hoạ Chernobyl năm
1986, càng làm xấu đi hình ảnh của chính phủ Xơ viết ở thời điểm sự bất mãn
đang gia tăng.
Gorbachev cũng khuyến khích đẩy mạnh sự tiếp xúc giữa cơng dân Liên
Xơ và thế giới phương Tây, đặc biệt là vớ i Hoa Kỳ. Hạn chế về du lịch, việc
kinh doanh và giao lưu văn hố với nước ngồi được nới lỏng. Chính sách này
đã góp phần làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cá nhân kiểu phương Tây
tràn vào Liên Xô dễ dàng, khiến nhiều người dân Liên Xô bị dao động về tư
tưởng, ngày càng mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội cũng như Đảng và chính
phủ Liên Xơ. Hàng hóa phương Tây dần được người dân ưa chuộng hơn là hàng
hóa ở trong nước, khiến cho các ngành công nghiệp nhẹ đặc biệt là công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng của Liên Xơ gặp nhiều khó khăn. Lối sống phương
Tây được du nhập ồ ạt thông qua phim ảnh, sách báo... đã gây ảnh hưởng ngày
càng sâu sắc về tư tưởng, đặc biệt là trong giới trẻ. Chúng đã khiến tâm lý sùng
bái phương Tây ngày càng gia tăng, làm suy yếu lý tưởng chính trị và tinh thần
phấn đấu vì tập thể của người dân, đồng thời kích động tư tưởng chống lại Đảng
và nhà nước Xô viết.

10


Trong giáo dục, mơn triết học Marxist bị báo chí chế nhạo và năm 1989,
chính phủ Liên Xơ ra lệnh bãi bỏ môn học Chủ nghĩa Marx - Lenin trong trường
đại học. Năm 1994, nhà văn Yuri Boldarev khi nhìn lại sự biến chất của báo chí,

truyền thơng Liên Xơ trong thời kỳ này đã nói: “Trong sáu năm, báo chí Liên Xơ
đã thực hiện được mục tiêu mà qn đội Đức Quốc xã với hàng triệu quân tinh
nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta, đó là đánh đổ
Nhà nước Liên Xơ. Qn đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng thiếu một
thứ, đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân dân
Liên Xô”.
Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô (từ 28/6
đến 1/7/1988), Gorbachev đã giải tán 23 ủy ban trực thuộc Trung ương Đảng,
như vậy là gần như xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng
7/1990, Gorbachev công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, điều lệ
Đảng chính thức xóa bỏ nguyên tắc quan trọng nhất của Đảng mà Vladimir
Ilyich Lenin đã lập ra.
Bất bình trước những chính sách của Gorbachev, ngày 19 tháng
8 năm 1991, một số nhà lãnh đạo theo đường lối cứng rắn (Chủ tịch Quốc hội
Lukyanov, Chủ tịch KGB Kryuchkov, Phó Tổng bí thư Yanaev, Thủ tướng
Pavlov) tiến hành đảo chính với mục tiêu chấm dứt sự hỗn loạn do Gorbachev
gây ra, bảo toàn sự thống nhất của Liên bang Xô viết, lập Uỷ ban nhà nước về
tình trạng khẩn cấp, đưa qn đội vào thủ đơ Moskva để phế bỏ chức vụ của
Gorbachev. Thế nhưng phe đảo chính đã thất bại khi khơng thể giành được sự
ủng hộ của quần chúng. Người dân Moscow đã tập trung gần Tòa nhà Quốc hội
Liên bang Nga để bày tỏ sự ủng hộ cho Yeltsin và Gorbachev, họ cùng nhau xây
các chướng ngại vật xung quanh Tòa nhà Quốc hội để chặn xe tăng của phe đảo
chính. Phe đảo chính đã cố gắng bắt giữ Yeltsin nhưng thất bại, và chính Yeltsin
đã huy động người dân tham gia chống lại cuộc đảo chính. Một đơn vị xe tăng
rời bỏ hàng ngũ qn đảo chính đến bảo vệ tịa nhà quốc hội. Hơn 200.000 người
dân ở thành phố Leningrad đã tổ chức tuần hành để phản đối cuộc đảo chính.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Ryzhkov nhận xét rằng các
thành viên Ủy ban khẩn cấp đã lập kế hoạch một cách thiếu nghiêm túc: "Tất cả
những chuyện đó, có cái gì đó giống như trị chơi của trẻ thơ vậy. Khơng nghiêm
túc... nếu như những người đó suy nghĩ một cách nghiêm túc thì họ đã khơng

11


hành động như vậy. Họ đưa xe tăng vào, mọi người chắc cịn nhớ rất rõ cảnh
các cơ gái ngồi trên đùi các anh lính tăng và trên tháp pháo. Như thế là thế
nào? Tất cả những cái đó thật là gàn dở. Tôi biết là cùng thời gian ấy Elsin
đang ở Kazakhstan và đã uống ở đấy kha khá... Nhưng những người ở đấy (dân
Kazakhstan) là những con người thơng minh và tìm cách đuổi khéo... Như vậy là
ơng ta đã bay tới (Matxcova), đi đến nhà nghỉ ngoại ô, thế thì bắt ông ta đi, ai
ngăn cản anh làm việc đó? Cả một nhóm KGB ngồi trong bụi cây và nhìn Elsin
ngất ngưởng đi về nhà ngủ". Sau 3 ngày, ngày 21 tháng 8 năm 1991, đại đa số
quân đội được gửi tới Moskva công khai đứng về phía những người phản đối
cuộc đảo chính, ủng hộ Yeltsin, như vậy cuộc đảo chính đã hồn tồn thất bại.
Những người cầm đầu cuộc đảo chính bị bắt giữ. Cuộc đảo chính khơng đạt
được mục tiêu mà càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước cộng hòa thành
viên và các nhà nước trung ương.
Sau đảo chính, ngày 24/8/1991, Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và từ chức Tổng bí thư và tự phong mình là "Tổng
thống Liên Xơ". Ngày 29/8/1991, Gorbachev ra lệnh giải thể các cơ quan chính
trị, chấm dứt các hoạt động Đảng trong quân đội. Hồng quân Liên Xô, thành trì
quan trọng nhất bảo vệ nhà nước Xơ Viết và Đảng Cộng sản Liên Xơ, dù có lực
lượng hùng mạnh nhưng đã hồn tồn bị Gorbachev vơ hiệu hóa do khơng cịn
cơng tác chỉ huy chính trị.
Khơng cịn phải e ngại sự chống trả của Hồng quân Liên Xô, tổng thống
Cộng hịa Xơ viết Nga là Boris Yeltsin ra sắc lệnh quốc hữu hóa tất cả các tài
sản, trụ sở của Đảng Cộng sản Liên Xô ở Nga. Yeltsin cũng ra sắc lệnh cấm tất
cả các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô ở Nga (dù bản thân ông ta cũng
từng là đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô). Đầu năm 1991, chính phủ 6 nước
cộng hịa thành viên nhỏ (gồm Armenia, Estonia, Georgia, Latvia, Lithuania, và
Moldova), chiếm 3,5% dân số Liên Xô, tuyên bố tẩy chay và không tổ chức cuộc

trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên Xơ (tuy nhiên các điểm bỏ phiếu vẫn được
chính phủ Trung ương tổ chức, cử tri tại các nước này không bị cấm đi bầu cử
nếu muốn và phiếu của họ vẫn được tính, ví dụ như Moldova vẫn có 841.507 cử
tri đi bầu và 98,7% ủng hộ duy trì Liên Xơ) Sau cuộc đảo chính, ngày 24/8/1991,
Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chính phủ
Liên Xơ về cơ bản đã tan vỡ từ cuối tháng 8/1991. Tâm lý người dân Liên Xô và
các nước cộng hòa thành viên bị khủng hoảng dữ dội khi hệ thống chính trị đầu
12


não của đất nước đã khơng cịn tồn tại. Ngay lập tức trong ngày hơm đó, Xơ viết
tối cao Ukraine tuyên bố độc lập, đổi tên thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
viết Ukraine. Trong cuộc trưng cầu dân ý tại Ukraine vào đầu tháng 12 năm 1991
với câu hỏi "Bạn có ủng hộ Đạo luật Tun ngơn Độc lập của Ukraine không?",
92.3% cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập (kết quả này hoàn toàn trái ngược với
kết quả của cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 3 năm đó khi đa số cử
tri vẫn ủng hộ duy trì tư cách của Ukraine là một nước cộng hịa thành viên
thuộc Liên Xơ). Một số nước thành viên khác cũng tổ chức các cuộc trưng cầu
dân ý về việc ly khai, kết quả là đa số đều ủng hộ độc lập và tách khỏi Liên Xô
(ở Estonia tỉ lệ ủng hộ độc lập là 78,4%, ở Litva là 93%, ở Georgia là 99,5%, ở
Latvia là 74,9%, ở Armenia là 99,5%) Liên Xô được thành lập dựa trên sự đồn
kết các nước cộng hịa thành viên có chung ý thức hệ là chủ nghĩa cộng sản, khi
ý thức hệ này bị lãnh đạo các nước cộng hịa thành viên từ bỏ thì Liên Xơ cũng
tan rã.
Đến tháng 10, do khủng hoảng chính trị và việc chính phủ trung ương bị
giải thể, kinh tế đất nước không cịn được điều phối và lâm vào đình đốn. Lương
thực thực phẩm khan hiếm trên diện rộng, nhiều nông dân từ chối thanh tốn
bằng tiền rúp Liên Xơ, trong khi tỉ lệ lạm phát đã lên tới hơn 300%, các nhà máy
giờ đây khơng cịn đủ khả năng để trả lương cho công nhân, nguồn nhiên liệu dự
trữ ở một số nơi thì chỉ đáp ứng 50-80% nhu cầu cho mùa đơng đang đến. Ước

tính kinh tế Liên Xơ đã sụt giảm 20% do cuộc khủng hoảng chính trị năm 1991.
Tổng thống Gorbachev kêu gọi sự hỗ trợ từ các nước phương Tây nhưng bị từ
chối. Các tổ chức kinh tế- tài chính tồn cầu như IMF và WB cũng tuyên bố rằng
nền kinh tế của Liên Xô hiện đã tê liệt và mọi sự giúp đỡ của họ vào thời điểm
này là vơ ích. Chính phủ Liên Xơ đã buộc phải nhận viện trợ lương thực và
thuốc men từ Ấn Độ - một nước còn kém phát triển.
Ngày 8 tháng 12 tại Minsk, thủ đô của Belarus, lãnh đạo ba nước cộng
hòa Nga, Belarus và Ukraina ra tuyên bố ký thỏa thuận thành lập Cộng đồng các
quốc gia độc lập, chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
Xơ viết. Ngày 21 tháng 12 tại Alma Alta, thủ đô của Kazakhstan, tất cả các nước
cộng hòa trừ ba nước vùng biển Baltic ký tuyên ngơn tơn trọng các tơn chỉ và
mục đích của thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Vào thời
điểm 19 giờ 32 phút ngày 25 tháng 12 năm 1991, lá cờ của Liên Xơ trên nóc
điện Kremlin bị hạ xuống và thay bằng lá cờ của Liên Bang Nga, tiếng chuông
13


của tháp Đấng cứu thế vang lên, đánh dấu sự kiện Liên bang Xơ Viết chính thức
chấm dứt tồn tại. Khi Liên bang Xô-viết tan rã, tương ứng với Công ước Viên
năm 1983, phân định tỷ lệ lãnh thổ của từng quốc gia trên cơ sở phân tích đóng
góp và phần của các nước Cộng hòa được phân chia như sau: Nga có 61,34 %,
Ukraina - 16,37%, Belarus - 4,13%, Kazakhstan - 3,86%, Uzbekistan - 3,27%,
Gruzia - 1,62%, tiếp theo ít dần đến Estonia với 0,62%.
Ngày 17/3/1991, tại Liên Xô đã có một cuộc trưng cầu dân ý tồn Liên
bang về việc có duy trì Liên bang Xơ Viết nữa hay không. Tổng cộng
148.574.606 cử tri tại các nước cộng hòa thành viên đã tham gia bỏ phiếu, với
kết quả là 113.512.812 phiếu (76%) ủng hộ duy trì Liên Bang Xơ Viết. Tại hai
nước cộng hịa lớn nhất là Nga và Ukraine, chiếm 70% dân số của Liên Xô, đa
số cử tri vẫn ủng hộ duy trì Liên bang. Như vậy, phần lớn người dân Liên Xô vẫn
muốn đất nước tồn tại. Nikolai Ivanovich Ryzkov, nguyên Thủ tướng Liên Xô từ

năm 1985 đến 1991 cho rằng: "Sự tan rã của Liên Xô không bắt nguồn từ ý
nguyện của đa số nhân dân, mà thực chất nó là quyết định của giới lãnh đạo cấp
cao Liên Xơ: thay vì cải cách mơ hình kinh tế thì những nhà lãnh đạo này đã
quay sang đập phá hệ thống chính trị, làm suy yếu bộ máy Nhà nước, rồi chính
họ tự ý ra quyết định giải tán Nhà nước Liên Xô (dù điều này trái với kết quả
trưng cầu dân ý trước đó chỉ vài tháng)"
Theo báo Quân đội nhân dân:"Từ khi dựng nước, Liên Xơ đã trải qua rất
nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên
Bolshevik đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa
hoàng, cùng nhân dân đánh bại sự can thiệp vũ trang của 14 nước phương Tây
để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân
dân chiến thắng quân đội phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, rồi
sau đó lãnh đạo cơng cuộc xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường thế giới. Vậy
nhưng, năm 1991, Liên Xô lại sụp đổ, không phải do quân đội kẻ thù tấn công,
cũng không phải do kinh tế hay khoa học kỹ thuật yếu kém, mà chính là vì các
quan chức cấp cao bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước Liên Xơ".
Có nhiều ngun nhân dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô, bao gồm cả nguyên nhân
khách quan lẫn chủ quan:
- Đường lối cải cách sai lầm: Những cải cách của Gorbachev đã đẩy nhanh
sự sụp đổ của Liên Xơ hơn là cứu vãn tình hình. Những cải cách nới lỏng quyền
14


kiểm sốt đối với người dân và cải cách chính trị và kinh tế lại khiến chính phủ
Liên Xơ trở nên ngày một yếu đuối và dễ bị tổn thương do họ khơng cịn quyền
lực mạnh mẽ như trước đây. Nhiều người Liên Xô đã sử dụng quyền hạn mới
của mình để tổ chức phê phán chính phủ và vào năm 1991, những người này đã
thành công trong việc khiến chính quyền Liên Xơ tan rã. Nhóm cải cách
do Mikhail Sergeyevich Gorbachyov đứng đầu đã mắc những sai lầm mới: biến
phản biện xã hội thành một q trình khơng kiểm soát được, nhiều khi thành một

hoạt động bừa bãi, mang tính vơ chính phủ. Khơng cịn bị kiểm sốt, các lực
lượng chống Xô Viết đã tiến hành những hoạt động "diễn biến hịa bình", gây
mâu thuẫn giữa các sắc tộc của Liên Xô. Các biện pháp bao gồm: bôi nhọ Chủ
nghĩa Mác-Lênin, gây mất lòng tin của người dân vào chính quyền bằng các biện
pháp chụp mũ, tạo tin đồn giả.
- Diễn biến hịa bình của phương Tây: Chính sách của Gorbachev khiến
Nhà nước Liên Xô dần mất đi sự kiểm sốt với truyền thơng, báo chí và giới lý
luận. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội, phủ
nhận vai trò của Cách mạng Tháng Mười trên báo chí mà khơng bị ngăn chặn và
xử lý. Các "tổ chức phi chính phủ" xuất hiện rất nhiều (hơn 30.000 tổ chức vào
năm 1987), trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngồi, vận động ngầm hoặc
công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xô. Nhiều đơn vị xuất
bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch
sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở
nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng.
- Sự tha hóa trong nội bộ Đảng và nhà nước: những năm 1960 và 1970
chứng kiến sự tha hóa của một bộ phận Đảng viên có chức vụ cao trong Đảng
Cộng sản. Thời kỳ Lenin và Stalin, kỷ luật Đảng được thi hành nghiêm khắc,
tham nhũng bị trừng trị rất nặng nên phần lớn Đảng viên các cấp đều liêm chính.
Từ thời Khrushchev, do kỷ luật đảng bị buông lỏng nên một phận đảng viên trở
nên tha hóa, họ khơng cịn sợ bị xử phạt nghiêm khắc nên đã tham nhũng để
sống xa hoa, gây ra sự bất bình cho người dân Liên Xơ. Trong thế hệ trẻ có nhiều
người khơng cịn cảm tình với Đảng khi thấy có những đảng viên biến chất,
khơng cịn tư cách mẫu mực như dưới thời cha mẹ của họ. Khi Liên Xô rơi vào
khủng hoảng trong những năm 1980, những người trẻ tuổi này không muốn
đứng lên bảo vệ một nhà nước mà họ khơng có cảm tình. Ngay cả bộ phận Đảng
viên tha hóa này cũng muốn phá bỏ Liên Xô, gạt bỏ những Đảng viên trung kiên
15



và sự ràng buộc của điều lệ Đảng để họ có thể trục lợi được nhiều hơn. Trước khi
Đảng Cộng sản Liên Xơ sụp đổ khơng lâu đã có một cuộc điều tra xã hội học với
câu hỏi: “Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho ai?”. Kết quả là, số người cho
rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho nhân dân chiếm 7%, đại diện cho
công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó,
có tới 85% số người được hỏi cho rằng: Đảng Cộng sản Liên Xô đại diện cho
quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước”. Theo ông Tạ Ngọc Tấn, nhiều phần
tử cơ hội, phẩm chất đạo đức kém đã xâm nhập vào hàng ngũ Đảng viên, dùng
mưu mẹo vụ lợi để thăng tiến, những Đảng viên thực sự tài năng và đạo đức thì
lại bị cản trở phát triển. Goóc-ba-chốp là một nhân vật đặc trưng cho điều đó, khi
ơng ta lên tới vị trí Tổng Bí thư thì đã quay sang phản bội chế độ.[148]
- Sức ép từ chiến tranh kinh tế của Phương Tây: Sự lãnh đạo của Ronald
Reagan đã dẫn đến sự gia tăng lớn trong chi tiêu quân sự của Mỹ, cũng như
nghiên cứu và phát triển nhiều vũ khí mới và tốt hơn. Điều này khiến cho Liên
Xô cũng phải gia tăng chi tiêu của họ dành cho quốc phòng trong bối cảnh nền
kinh tế đang dần rơi vào tình trạng trì trệ. Hoa Kỳ ủng hộ các phong trào phản
kháng ở Đông Âu cùng lực lượng Hồi giáo tại Afghanistan buộc Liên Xơ phải
đưa qn can thiệp làm tăng chi phí quân sự, đồng thời họ phải tăng viện trợ cho
các chính phủ ở đây nhằm duy trì ảnh hưởng tại các nơi này. Reagan không chỉ
tấn công Liên Xô bằng chi tiêu quân sự; ông cũng tấn công nền kinh tế của
họ. Hoa Kỳ đã phối hợp với Ả Rập Saudi tăng xuất khẩu dầu mỏ sang Châu Âu
để đẩy giá dầu xuống và hạn chế sản lượng xuất khẩu của Liên Xơ sang phương
Tây, bên cạnh đó họ cịn hạn chế Liên Xô tiếp cận công nghệ cao của phương
Tây. Khơng có nguồn thu từ dầu mỏ, nền kinh tế Liên Xơ bắt đầu lâm vào trì trệ.
- Các sự kiện trong nước và ngoài nước: cuộc chiến tại Afghanistan của
Liên Xô cũng là một yếu tố quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô. Hồng
quân Liên Xơ, đội qn từng đánh bại phát xít Đức trong Thế chiến II, từng dập
tắt thành công các cuộc nổi dậy tại Hungary và Tiệp Khắc, đã sa lầy trong cuộc
chiến khốc liệt tại đây. Có tới một triệu binh lính Liên Xơ đã tham gia cuộc
chiến, với khoảng 14.000 người đã thiệt mạng và hàng ngàn người khác bị

thương, đồng thời đã khiến ngân sách Liên Xô hao tổn nhiều cho cuộc chiến này.
Đến năm 1986, vụ tai nạn hạt nhân Chernobyl xảy ra cũng khiến Liên Xô bị tổn
thất nặng về kinh tế.
16


- Chính sách kinh tế cứng nhắc: Nền kinh tế của Liên Xô tập trung quá
nhiều vào công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự, mà không chú trọng phát
triển công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng. Điều này đã dẫn đến sự thiếu hụt
hàng hóa tiêu dùng, điều kiện để duy trì mức sống cao. Trong những năm 19601970, kinh tế tăng trưởng nhanh, sức mua của người dân Liên Xô tăng mạnh,
nhưng công nghiệp nhẹ không tăng đủ nhanh, nên đến thập niên 1980 các mặt
hàng tiêu dùng như quần áo hay giày dép bị thiếu nguồn cung, nhiều cơng dân
của Liên Xơ có tiền nhưng lại khơng có hàng để mua. Sự thiếu hụt đã dấy lên
những nghi ngờ về tính ưu việt của hệ thống Xơ viết, khiến cho nhiều người mất
niềm tin vào chính phủ và hi vọng về một sự thay đổi về hệ thống chính trị.
- Chủ nghĩa dân tộc và phong trào ly khai: Năm 1989, phong trào dân tộc
chủ nghĩa ở Đông Âu đã mang lại sự thay đổi chế độ ở Ba Lan và phong trào này
nhanh chóng lan sang Tiệp Khắc, Nam Tư và các nhà nước vệ tinh của Liên Xô
ở Đông Âu. Điều này đã thúc đẩy các phong trào ly khai ở nhiều nước Cộng hịa
thuộc Liên Xơ, đặc biệt là ở Ukraina, Belarus và các nước vùng Baltic. Khi các
nước Cộng hịa Xơ viết này tuyên bố độc lập và tách khỏi Liên Xô, quyền lực
của nhà nước trung ương bị suy yếu nghiêm trọng và đến năm 1991, Liên Xô bị
giải thể.

1.2. Bài học rút ra.
Một là, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đảng để giữ vững vai trò
cầm quyền của Đảng, bộ máy chính quyền trong sạch vững mạnh và gắn bó với
nhân dân. Xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, ln ln
gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm chắc quần chúng và động viên được sức
mạnh của nhân dân.

Đảng lãnh đạo bằng đường lối, có đường lối lãnh đạo đúng đắn nhưng đường lối
đó chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi quần chúng nhân dân hiện thực hóa trong
đời sống xã hội. Do vậy, đòi hỏi mỗi đảng cộng sản phải trung thành với lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo các nguyên lý cách mạng để đề ra
đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn và phù hợp với thực tiễn. Để lãnh đạo,
quản lý điều hành đất nước có hiệu quả, Đảng cầm quyền, bộ máy chính quyền
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được lịng dân, nắm chắc dân và quy tụ được
17


sức mạnh của nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi Đảng và chính quyền bị tha hóa biến chất, xa dân và sách nhiễu dân, mối
quan hệ với nhân dân bị rạn vỡ cũng đồng nghĩa với Đảng sẽ mất quần chúng,
nhà nước và chế độ sẽ đánh mất cơ sở xã hội chính trị thì tất yếu bị lật đổ.
Đảng ln ln phải giữ vai trị cầm quyền, có nghĩa là Đảng Cộng sản phải thể
hiện quyền lực chính trị, quyền lãnh đạo về chính trị và khơng bao giờ chia sẻ
quyền lực đó cho bất kỳ lực lượng nào khác. Đảng mất là mất hết, vì Đảng lãnh
đạo tồn bộ các mặt, các lĩnh vực của xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân
sự cán bộ… Lãnh đạo Nhà nước thực hiện tốt chức năng, cụ thể hóa đường lối
của Đảng, quản lý tốt xã hội, kiến tạo xã hội mới, định ra chính sách xã hội đúng
đắn đáp ứng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực sự dân chủ, lắng nghe và tơn
trọng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng và bộ máy chính
quyền là “xương sống” của chế độ nên phải vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả, thực sự vì nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ
lãnh đạo, quản lý điều hành xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân thì
mới bảo đảm cho sự tồn tại của chế độ xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Hai là, vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định là xây dựng và thực hiện tốt
chiến lược công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì và xây dựng nguồn cán bộ lãnh
đạo, quản lý kế cận, kế tiếp ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. Trong công
tác tổ chức sắp xếp cán bộ, nhất là những vị trí chủ chốt cần lựa chọn đúng

những người thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng
lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn, gần gũi nhân dân và được tín nhiệm, bảo
đảm sự vững vàng về chính trị. Kiên quyết loại khỏi bộ máy lãnh đạo của Đảng
và cơ quan Nhà nước những phần tử cơ hội thực dụng, tha hóa về chính trị tư
tưởng và đạo đức, lối sống, sách nhiễu dân và xa dân, khơng được tín nhiệm.
Thực hiện tốt cơng tác quản lý cán bộ, đánh giá và sử dụng cán bộ vì đó là gốc
của mọi cơng việc, khơng để mất cảnh giác để các thế lực thù địch cài cắm các
phần tử cơ hội, phần tử chống đối phản bội chui sâu, leo cao trong bộ máy của
Đảng và Nhà nước.
Ba là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được độc
lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Sự ổn định và phát triển
vững chắc của nền kinh tế là nền tảng vật chất bảo đảm sự ổn định và phát triển
18


bền vững của đất nước. Khi kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái, đất nước dễ
lâm vào mất ổn định chính trị, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lơi kéo, kích
động nhân dân chống lại Đảng và chính quyền, làm chuyển hóa chế độ xã hội
theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Cần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, bảo đảm đúng định hướng phát triển của
quốc gia, không để cho bất kỳ một thế lực nào điều khiển và thao túng nền kinh
tế. Cần duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý và ổn định, phát huy tốt năng lực
nội sinh, tạo được nhiều việc làm để tăng thu nhập của người dân, bảo đảm công
bằng xã hội, an sinh xã hội, tạo cơ sở vật chất để đất nước ổn định và phát triển
bền vững. Mở rộng hội nhập quốc tế trong điều kiện tồn cầu hóa, đặc biệt là
hợp tác về kinh tế là xu thế khách quan mà các nước XHCN phải tham gia, nếu
khơng thì khó có thể tồn tại và phát triển được. Vấn đề đặt ra là các nước XHCN
mở rộng hội nhập quốc tế để tận dụng được những thành tựu khoa học cộng
nghệ, tận dụng được nguồn lực tài chính của các nước phát triển làm cho sản

xuất của đất nước ngày càng lớn mạnh đủ sức canh tranh, lợi ích quốc gia - dân
tộc và cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
Bốn là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phịng, chống có
hiệu quả chiến lược “diễn biến hịa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Cơng tác tư tưởng, lý luận phải trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong điều
kiện Đảng cầm quyền, trước hết phải quan tâm thường xuyên đến công tác giáo
dục lý luận chính trị cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ,
đảng viên phải là những người nắm vững bản chất các nguyên lý cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới trở thành những người
tiên phong. Nhận thức sâu sắc nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên
xô và Đông Âu, với những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Giáo dục mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, quán triệt kịp thời những nghị quyết đến cán bộ, đảng
viên. Tuyên truyền, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù
địch chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. Củng cố niềm tin
có cơ sở khoa học của cán bộ, đảng viên, của nhân dân vào con đường đi lên
CNXH trong giai đoạn hiện nay. Cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và tồn xã hội trong tiến hành cơng tác chính trị tư tưởng, đặc
biệt là phải phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ chuyên trách từ Trung ương
đến cơ sở.
19


Năm là, Đảng cầm quyền phải nắm chắc lực lượng vũ trang, đặc biệt chăm
lo xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy
về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt
trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Việc nắm chắc và chăm lo xây dựng lực lượng
vũ trang, nhất là quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh, thực sự
trung thành và tin cậy về chính trị là một nguyên tắc chiến lược của đảng cầm
quyền, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của quốc gia dân tộc và chế độ. Đảng

cầm quyền phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn
luyện bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang, luôn trung thành với
Đảng, với nhân dân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, quyết
tâm chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, sẵn sàng nhận và thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong các tình huống khơng để bất ngờ
xảy ra. Đảng ln ln giữ vững vai trị lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện
về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, nhất là quân đội và công an; đặc biệt
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội và công an vừa hồng, vừa chuyên...
Sự vững mạnh của lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng nòng cốt trong bảo
vệ Tổ quốc, mà còn là đội quân lao động sản xuất, đội quân công tác, lực lượng
chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Đây là lực lượng nịng cốt để cùng tồn
dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chủ động xử lý kịp thời
và đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá con đường đi
lên CNXH.

Chương 2: Công cuộc cải cách – mở cửa kinh tế của Trung Quốc và
bài học kinh nghiệm
2.1. Tình hình Trung Quốc trước cải cách – mở cửa kinh tế.
Tình hình kinh tế Trung Quốc từ ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa (1/10/1949), cho đến trước cải cách – mở cửa kinh tế trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm với nhiều hạn chế, yếu kém của mơ hình kế hoạch hóa tập
trung.
Thơng qua những chính sách kinh tế sai lầm, coi thường các quy luật
khách quan của “ Đại nhảy vọt” và “Đại cách mạng văn hóa vơ sản”, nền kinh tế
Trung Quốc đã rơi vào khủng hoảng và sa sút. Hậu quả là, thu nhập quốc dân
20


giảm, các ngành kinh tế bị thụt lùi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng.
Cuộc “Đại nhảy vọt” và “Cơng xã nhân dân” đã gây ra lãng phí to lớn về sức

người, sức của, làm nền tài chính bị cạn kiệt… Trong mười năm cách mạng văn
hóa, thu nhập quốc dân của Trung Quốc đã bị thiệt hại khoảng 500 tỷ nhân dân
tệ, mức lương trung bình của cơng nhân viên giảm 4,9%, thu nhập bình qn của
nơng dân khơng được cải thiện, thậm chí nhiều nơi rơi vào tình trạng đói kém.
Trước những thực trạng trên, nền kinh tế Trung Quốc đứng trước yêu cầu
phải thực hiện cải cách một cách triệt để. Cải cách – mở cửa kinh tế Trung Quốc.

2.2. Cải cách – mở cửa kinh tế ở Trung Quốc.
2.2.1. Đường lối, chính sách cải cách kinh tế
Công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc chính thức được phát động từ
Hội nghị Trung Quốc 3 khóa XI tháng 12/1978. Với quan điểm “giải phóng tư
tưởng, thực sự caafi thị, đồn kết nhất trí, hướng về phía trước”, Hội nghị đã
đánh giá lại điểm xuất phát của nền kinh tế Trung Quốc, phê phán sai lầm của
giai đoạn trước, đưa ra nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội.
Trong các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo, những lý luận về cải cách, mở cửa
của Trung Quốc đã được khẳng định và tổng kết thành những quan điểm lớn sau
đây:
- Thực hiện “giải phóng tư tưởng” nhằm thay đổi nhận thức về mơ hình
chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
- Chủ trương đa dạng hóa sở hữa, khơi phục và phát triển nền kinh tế hàng
hóa đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo hướng tập trung phát triển nông
nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành công nghiệp đáp ứng nhu cầu cấp
bách cyra đất nước. Đối với các ngành công nghiệp nặng, Trung Quốc chủ
trương giảm bớt quy mô và tốc độ phát triển, ưu tiên đầu tư cho công nghiệp nhẹ
và các ngành khác.
21



×