Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM LIÊN BANG NGA (1991 – 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 52 trang )

QUAN HỆ
NGOẠI GIAO
VIỆT NAM LIÊN BANG NGA
(1991 – 2017)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... ..
1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................................
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................
6. Nguồn tư liệu tham khảo ...............................................................................................
7. Những đóng góp của đề tài ............................................................................................
8. Bố cục đề tài ..................................................................................................................
CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN BANG
NGA TỪ 1991 ĐẾN NAY ................................................................................................
1.1. Khái quát tình hình hai nước Việt, Nga những năm đầu thế kỷ XXI.........................
1.2.Tình hình quốc tế và khu vực tác động đến chính sách đối ngoại của Cộng hòa Liên bang
Nga những năm đầu thế kỷ XXI ........................................................................................
1.3. Chính sách đổi mới của Việt Nam là động lực thúc đẩy tích cực trong quan hệ Việt Nam Liên bang Nga ...................................................................................................................
1.4. Sự điều chỉnh của chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga sau chiến tranh lạnh ....
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA TỪ NĂM 1991
ĐẾN NĂM 2017 ................................................................................................................
2.1. Quan hệ chính trị - đối ngoại ......................................................................................
2.2. Quan hệ kinh tế - thương mại .....................................................................................
2.3. Quan hệ an ninh, quốc phịng ....................................................................................
2.4. Quan hệ văn hố, giáo dục, khoa học - kỹ thuật ........................................................
2.5. Triển vọng quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga............................................
2.5.1. Thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa hai nước ...............................................


2.5.2. Triển vọng quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga ......................................................
KẾT LUẬN .......................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xu thế đa dạng hóa, đa phương hóa trong các mối quan hệ quốc tế hiện nay đã tạo ra
những tiền đề thuận lợi cho sự phát triển của Việt Nam. Nắm bắt những cơ hội từ xu thế này,
cùng với thực hiện đường lối đối ngoại nhất quán và phương châm chủ động, từ đầu thập niên
90 của thế kỷ XX đến nay, chúng ta đã thu được những thành công quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới được hình thành và dần hồn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng, từ Đại hội VI, VII, VIII,
IX. Tiếp tục đường lối đối ngoại của đó, Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) tiếp tục khẳng
định quan điểm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay của
Đảng và Nhà nước ta: “ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác khu vực và quốc tế.
Trên cơ sở đa dạng hóa các mối quan hệ, Việt Nam khẳng định quan điểm: chủ động và
tích cực trong hội nhập khu vực và quốc tế phù hợp với những điều kiện thực tế cụ thể của đất
nước. Chủ động hội nhập trên cơ sở nắm vững quy luật cũng như tính tất yếu của sự vận động
kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ những năng lực nội sinh, xác định lộ trình hợp lý, nội dung,
quy mơ và các bước đi phù hợp; đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế. Sự chủ
động đó phải được kết hợp với việc tích cực, khẩn trương trong cơng tác chuẩn bị, điều chỉnh,
đổi mới từ bên trong; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp sao cho phù hợp với những yêu
cầu của quá trình hội nhập.
Quan điểm trên thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc đưa các quan hệ đối ngoại
đã được mở rộng đi vào chiều sâu, tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, phấn
đấu để tham gia ngày càng nhiều và càng có chất lượng trong giải quyết các công việc ở khu

vực và trên thế giới. Đây chính là một nội dung mới trong đường lối đối ngoại độc lập tự chủ
của Đảng và nhà nước ta trong thơì kì đổi mới.
Như chúng ta biết, ngày 30 – 1 – 1950, Việt Nam và Liên Xơ chính thức thiết lập quan
hệ ngoại giao, mở đại sứ quán, cơng nhận chính thể Dân chủ Cộng hịa đầu tiên được xác lập ở


Việt Nam. Về ý nghĩa sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Thắng lợi chính trị đó
sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này".
Tuy nhiên, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, trật tự thế
giới thời kỳ chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Vấn đề hồ
bình hợp tác hữu nghị để phát triển kinh tế ngày càng trở nên đòi hỏi bức xúc của mỗi quốc gia
trên thế giới. Các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng tích cực vào q trình hợp tác song
phương cũng như đa phương ở khắp các khu vực với nhiều tầng nấc khác nhau. Và điều này
ảnh hưởng ít nhiều đến quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Liên Bang Nga.
Hơn 65 năm qua quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga không ngừng phát triển, tuy nhiên
xuất phát từ tình hình hai nước và quốc tế, đặc biệt sự kiện Liên Xô tan rã đã làm cho quan hệ
hai nước cũng có những lúc bị chững lại. Vì vậy việc nghiên cứu quan hệ đối ngoại giữa Liên
bang Nga với Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, góp phần để cho Việt Nam xác định những
bước đi trong quan hệ giữa hai nước trong bối cảnh mới hiện nay.
Xuất phát từ các lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài "Quan hệ ngoại giao Việt Nam –
Liên Bang Nga (1991 – 2017)" làm đề tài của tiểu luận.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cộng hòa Liên bang Nga hiện nay tập
trung chủ yếu ở Viện nghiên cứu châu Âu, Viện kinh tế Việt Nam thuộc Viện khoa học xã hội
Việt Nam, học viện quan hệ quốc tế thuộc Bộ ngoại giao Việt Nam, Viện kinh tế thế giới, học
viện chính trị quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, học vịên chính trị qn sự. Ngồi ra cịn có
các cơ quan như Bộ ngoại giao, Bộ thương mại…
Các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này rất tản mạn đa phần ở một số tạp chí, đặc biệt ở
tạp chí nghiên cứu châu Âu nhưng số lượng bài viết chưa nhiều. Có một số bài viết liên quan
đến như: điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại của Liên bang Nga đến năm 2020 của tác giả

Nguyễn An Hà, số 01 - 2011; Chiến lược đối ngoại của Nga điều chỉnh theo hướng nào? của
tác giả Nguyễn Nhâm, số 2 – 2011...
Ngồi ra cịn được đăng ở một số tạp chí khác, như tạp chí nghiên cứu châu Á – Thái
Bình Dương, tạp chí nghiên cứu Đơng Bắc Á và Nhật Bản, tạp chí những vấn đề kinh tế, chính
trị thế giới… Hoặc được lồng ghép vào các cuốn sách như: nước Nga và thế giới hiện đại của
G.A.Giugannốp nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 1995; chiến lược đối ngoại của


những nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu kỷ XXI, của PGS.TS.
Nguyễn Xuân Sơn – TS. Nguyễn Văn Du, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2006;
đường vào thế kỉ XXI những vấn đề chiến lược và triển vọng của nền kinh tế Nga, của
N.Ia.Pêtơracơp, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2003. Đáng chú ý là cuốn Liên bang
Nga hai thập niên đầu thế kỷ XXI, của tác giả Nguyễn An Hà chủ biên. Tập trung nói về những
vấn đề chính trị - kinh tế nổi bật của Liên bang Nga giai đoạn 2000 - 2010 đồng thời nói lên xu
thế vận động phát triển của Liên bang Nga giai đoạn 2011- 2020 cũng như dự báo những tác
động của đất nước Nga đối với thế giới và Việt Nam.
Bên cạnh đó, thời gian gần đây cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về chính sách đối
ngoại của hai nước với nhau. Bài viết Việt Nam coi Liên bang Nga là ưu tiên hàng đầu trong
chính sách đối ngoại, được đăng trên trang điện tử anninhthudo.vn. Nói về quan điểm của Việt
Nam trong việc ưu tiên quan hệ ngoại giao với Liên Bang Nga; Tạo xung lực mới trong quan
hệ Việt Nam - Liên bang Nga, bài viết được đăng trên trang điện tử qdnd.vn. Tập trung nói về
những hoạt động quan hệ ngoại giao trong những năm gần đây, đặc biệt là vào năm 2017…
Song, nhìn chung cho đến nay chưa có một cơng trình sử học nào nghiên cứu một cách
đầy đủ quan hệ Việt Nam – Liên Bang Nga (1991 – 2016).
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Liên Bang Nga trong thời kì đổi mới. Đặc biệt, tiểu
luận tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại hai nước với nhau.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Bang Nga từ thời kì

đổi mới đến nay (1986 đến nay). Tuy nhiên để làm rõ hơn về chuyển biến trong quan hệ giữa
hai nước thì đề tài tập trung nhiều vào khoảng thời gian từ khi Liên Xô tan rã, Liên Bang Nga
ra đời cho đến nay (1991-2017).
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu về quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Bang Nga từ khi Liên Xơ tan
rã cho đến nay, từ đó sẽ tập trung làm rõ chính sách đối ngoại của từng nước đối với bên còn
lại vào từng giai đoạn cụ thể, để thấy được những tích cực cũng như những mặt hạn chế trong


quan hệ hai nước. Đồng thời giúp chúng ta có nhìn nhận đúng hơn về những giải pháp trong
chính sách đối ngoại trong giai đoạn hiện nay cũng như là thời gian sắp tới.
4.2. Nhiệm vụ của đề tài
Tìm hiểu về quan hệ đối ngoại của Liên bang Nga – Việt Nam để có một cái nhìn khái
qt, tồn diện về chính sách đối ngoại của hai nước với nhau từ năm 1991 đến 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp mà chúng tôi lựa chọn dựa vào để nghiên cứu đề tài là phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời đại và quan hệ quốc tế giữa các quốc gia dân tộc, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết và hợp tác quốc tế.
Phương pháp luận Mácxit làm nền tảng cho việc phân tích hàng loạt các sự kiện, tiến
trình khác nhau trong chính sách đối ngoại của hai nước.
Phương pháp chủ yếu để thực hiện đề tài này là phương pháp lịch sử và phương pháp
Logic. Ngồi ra, trong q trình thực hiện đề tài chúng tơi cịn sử dụng nhiều phương pháp
khác như: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp và so sánh….
6. Nguồn tài liệu tham khảo
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở nguồn tài liệu tin cậy đã được cơng bố trong và
ngồi nước.
- Nguồn tài liệu chủ yếu được tham khảo từ các bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu
châu Âu, những tác phẩm có liên quan đến đề tài tại thư viện Đại học Đà Lạt, thư viện tỉnh
Lâm Đồng, các khóa luận của những cựu sinh viên khoa Lịch Sử - Đại học Đà Lạt. Ngồi ra

cịn có một số cơng trình nghiên cứu, các bài viết trên các trang wed: nghiencuuquocte.net;
luanvan.net; 123doc…
- Các bài báo chuyên ngành nghiên cứu về quan hệ của Liên bang Nga với những đối tác
cụ thể như: quan hệ Nga - ASEAN, Nga - SNG, Nga - NATO, Nga - EU, Nga - Trung,...
7. Những đóng góp của đề tài
Tiểu luận cố gắng làm rõ quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga từ Năm 1991 – 2016. Cùng
với đó cho ta thấy tiềm năng và định hướng phát triển mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong
thời gian tới.


Nội dung của tiểu luận có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo hữa ích cho những
cơng trình nghiên cứu có liên quan tiếp theo và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo tiểu luận được chia làm 2 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga từ 1991 đến nay
Chương 2: Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Liên Bang Nga từ năm 1991 đến năm 2017


CHƯƠNG 1:
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGOẠI GIAO
VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA TỪ 1991 ĐẾN NAY
1.1. Khái quát tình hình hai nước Việt, Nga những năm đầu thế kỷ XXI
 Về phía Việt Nam
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình
thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được

củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Xét về phương diện xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, thì thành tựu to lớn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đó là bước chuyển từ mơ hình nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa
sang mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Đây là bước đổi mới về chất trong tư
duy lý luận về xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Trước đây, theo tư duy của mơ hình
nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa , thì quyền lực nhà nước tuy thuộc về nhân dân, nhưng
nhân dân chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Toàn bộ quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội; khơng có sự phân cơng
thành các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mơ hình tổ chức quyền lực nhà nước này phù
hợp với điều kiện chiến tranh và nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp, với ưu điểm bảo
đảm cho nhà nước ban hành quyết định nhanh chóng và thống nhất. Tuy nhiên, mơ hình này
trong điều kiện mới - điều kiện kinh tế thị trường nhiều thành phần - bộc lộ nhiều hạn chế.


Do vậy, trong điều kiện mới, mơ hình nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa khơng cịn
phù hợp với việc phát huy đầy đủ vai trò của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tiềm ẩn
nguy cơ lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, tham nhũng trong việc tổ chức và thực thi quyền
lực nhà nước.
Nhận rõ những hạn chế của mơ hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, tại Hội nghị Đại biểu
tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, lần đầu khẳng định trong văn kiện của mình chủ
trương “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân”. Với
nguyên tắc mới: Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với sự
phân công rành mạch ba quyền.
Đạt được những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế:
Việt Nam đạt những thành tựu quan trọng trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt
Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát
triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và
quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu
cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp,
doanh nhân thật sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa,
hiện đất nước. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình
quân đầu người ở nước ta mới đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mơ nền kinh tế đạt
khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Lực lượng sản xuất có
nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng có mặt được cải thiện,
trình độ cơng nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp
TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì
trong giai đoạn 2011-2015 đạt 28,94%. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm
sốt. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên
tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 2011-2015, tăng 18%/năm [23].
Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm
dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Đã hình thành các
vùng kinh tế trọng điểm, làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát triển


các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình
thành các vùng chun mơn hóa cây trồng, vật ni gắn với cơng nghiệp chế biến.
Nền văn hóa phát triển phong phú, đa dạng:
Tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa đã có bước phát triển quan trọng, trở thành cơ
sở chỉ đạo thực tiễn phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Từ năm 1986, Đảng ta
tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng quan điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, để đi tới
quan điểm giản dị nhưng sâu sắc: Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể
hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị,
sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống. Đó là tầm nhìn sâu, mới, tồn diện, bao qt hơn về vị trí

của văn hóa, tạo điều kiện để văn hóa phát triển đa dạng, phong phú, gắn bó mật thiết với mọi
mặt đời sống. đúc kết lý luận, năm 1991, Đảng ta khẳng định luận điểm có tính khái qt cao,
tồn diện, phù hợp đặc trưng của văn hóa, văn nghệ là “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”. Thực tiễn đổi mới đòi hỏi tư duy lý luận không dừng lại ở miêu tả, tổng
kết đức tính của người Việt Nam mà phải nâng lên với yêu cầu mới, vì vậy, trong các văn kiện
gần đây, Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và đúc kết hệ giá trị chung của con người Việt
Nam đương đại, trong đó phải triển khai đồng thời ba việc lớn: bảo vệ, giữ gìn và phát huy
những giá trị tốt đẹp của truyền thống; chăm lo nuôi dưỡng, khẳng định những giá trị mới
đang hình thành; tỉnh táo chỉ ra, khắc phục những hạn chế lịch sử, những thói hư tật xấu của
con người. Đó là tầm nhìn thể hiện tính biện chứng trong tư duy về văn hóa và về con người.
Năm 1998, với Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII), Đảng ta khẳng định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tư duy lý
luận tiếp tục phát triển, bổ sung sâu sắc hơn và với Nghị quyết 33 - Nghị quyết T.Ư 9 (Khóa
XI), Đảng đồng thời nhấn mạnh bốn đặc trưng tiêu biểu của văn hóa: dân tộc, nhân văn, dân
chủ, khoa học. Các đặc trưng này là những giá trị văn hóa Việt Nam thời kỳ mới, vừa kế tục
các giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống, vừa chứa đựng yêu cầu mới đối với văn hóa trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Những năm gần đây, chúng ta làm rõ thêm một số nội dung mới: văn hóa là sức mạnh
nội sinh quan trọng của sự phát triển, không chỉ là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
mà phải là sự phát triển bền vững của đất nước, của dân tộc. Phải xác định văn hóa là một
trong bốn trụ cột của phát triển bền vững, có vị trí ngang với kinh tế, chính trị và xã hội


Những thành tựu to lớn trên là cơ sở quan trọng để Việt Nam hoạch định và đưa ra
những chính sách đối ngoại phù hợp, tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước cịn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khuyết điểm cần tập trung giải
quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề

đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho
hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cịn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn
để tiếp tục làm rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế
nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa
vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng
suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững
cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn
đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; cịn tiềm ẩn
những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận
nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực
và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức
tạp, như nguy cơ "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi
và thâm độc chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin
của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. Đây thực sự là những
trở ngại để cho Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại với các khu vực, quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới.


 Về phía Liên Bang Nga
Từ khi Liên Xơ tan rã thay vào đó là sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa Liên bang Nga,
trong thời gian đầu đã xuất hiện sự khủng hoảng trên nhiều mặt. Trước tình đó, Tổng thống
Nga B. Yeltsin với hy vọng tìm lại vị trí cường quốc của Liên Xơ trước đây đã thực hiện các
chính sách nhằm khắc phục tình hình nước Nga thực tại, đồng thời định hướng cho sự phát
triển bền vững ở những giai đoạn về sau.
Về kinh tế: Tổng thống Nga B. Yeltsin, cùng với ban lãnh đạo của nước Nga lúc này đã

thực hiện nhiều chính sách nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế trong nước, trước
hết tiến hành việc tư nhân hóa, tuy nhiên cũng khơng có kết quả đáng kể. Sản xuất cơng
nghiệp năm 1992 giảm xuống còn 20% [19; tr469], đời sống nhân dân càng lâm vào khó khăn
và nghèo nàn, trong xã hội nảy sinh nhiều vấn đề nổi cộm, gây nhức nhối trong lòng xã hội
Nga
Bước Sang năm 1998, Liên bang Nga rơi vào khủng hoảng trầm trọng, mức tăng trưởng
chỉ đạt con số âm, nợ tiếp tục tăng, thị trường tài chính rối loạn, hệ thống ngân hàng chao đảo,
hàng loạt những vấn đề xã hội gay gắt. Theo thống kê của bộ tài chính, khoản nợ bằng ngoại tệ
của Nga tính đến ngày 1 – 1 – 1999 lên đến 158,9 tỷ USD, trong đó nợ nước ngồi là 143,9 tỷ
USD, còn trong nước là 15 tỷ USD, con số này chiếm hơn 85% GDP [21; tr11].
Sang năm 1999, tình hình nước Nga có những chuyển biến tích cực, bước vào giai đoạn
chuyển đổi Nga đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, chủ yếu là các mặt hàng ưu thế của Nga
như nhiên liệu, năng lượng, luyện kim đen sang các nước phát triển.
Nhìn chung trong giai đoạn từ năm 2000 – 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình
của Liên bang Nga tăng xấp xỉ 7%. Trong số các cường quốc, Nga phát triển rất ấn tượng
trong giai đoạn 2000 – 2007, chỉ đứng sau Trung Quốc. Năm 2008, Nga đã vượt qua Tây Ban
Nha và Italia để trở thành nền kinh tế đứng thứ 8 trên thế giới. Nếu tính GDP theo đơn giá sức
mua PPP thì Nga cịn vượt cả Anh và Mỹ để đứng vị trí thứ 6 ngay sau Đức, năm 2008 GDP
đầu người của Nga là 12.000 USD, nếu theo PPP là 16.000 USD. Vượt xa các nước trong
nhóm BRIC,gấp 4 lần thu nhập của Trung Quốc.
Về chính trị: xu hướng ly khai cịn khá mạnh, điều này gây khó khăn đến việc bảo vệ sự
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trên chính trường đã diễn ra cuộc đấu tranh
giành quyền lực gay gắt và quyết liệt giữa các lực lượng, các phe chính trị khác nhau, thậm chí


đối đầu nhau. Ngay từ năm 1991 giữa các đại biểu Đuma quốc gia và Chính phủ đã khơng hịa
hợp với nhau, đối kháng nhau Phía Đuma ln khích bác chủ trương cải cách, cịn phía Chính
phủ thì khăng khăng cải cách kinh tế là điều cần phải làm ngay. Sự bất đồng trong giới lãnh
đạo là một điều bất lợi cho sự chỉ đạo đất nước.
Về quân sự - an ninh: tuy được kế thừa phần lớn di sản quân sự khổng lồ cả về hải – lục

– không qn, các tổ hợp, nhà máy quốc phịng, nền cơng nghiệp quốc phòng..v.v.. khá hiện
đại của siêu cường quân sự Liên Xô trước đây. Song cơ sở vật chất – kỹ thuật, tinh thần và
tồn bộ di sản đó đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Kinh tế Nga suy giảm, việc hiện đại hóa lực
lượng vũ trang và nền quốc phịng khơng thực hiện được. Nga vẫn là siêu cường nhưng những
khó khăn về kinh tế đã làm cho vũ khí hạt nhân khổng lồ trở thành một gánh nặng hơn là sức
mạnh của Liên bang Nga.
Bên cạnh đó vào những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình Liên bang Nga cũng có những
mặt khả quan. Về chính trị - đối nội, Nga đã thành công trong việc củng cố quyền lực trung
ương, thiết lập hệ thống chính quyền theo chiều dọc khá ổn định. Về chính trị - đối ngoại, Nga
đã tái lập lại vị thế cường quốc đã đánh mất của mình. Những nổ lực cải cách đó đã tạo động
lực liên tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Nga từ năm 2000 đến nay.
Đi cùng với việc trả món nợ 22,3 tỷ USD cho câu lạc bộ các nhà tài trợ Pari sớm trước 14
năm và nợ nước ngồi chỉ cịn khoảng 3% GDP [21; tr17], thuộc loại chỉ số thấp nhất thế giới.
Với khủng hoảng vào năm 2008 thì đến tháng 11/2008 dường như nước Nga đã căn bản vượt
qua cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Vừa thoát khỏi khủng hoảng đã phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng.
Tính chung trong tám năm qua, GDP của nước Nga tăng khoảng 70%, nước Nga trở thành 1
trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Dự trữ vàng và ngoại tệ tăng nhanh, đến giữa tháng 02 2008 đạt khoảng 485 tỷ USD, chiếm vị trí thứ 3 trên thế giới sau Trung Quốc và Nhật Bản [5;
tr14].
Nga là nước đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính tồn cầu với mức thiệt hại
nhỏ nhất và nhanh chóng khơi phục kinh tế - xã hội. Mức tăng tổng thu nhập quốc nội hàng
năm vào khoảng 4%, lạm phát giảm xuống cịn khoảng 6%, sản lượng cơng nghiệp đã tăng
hơn 50% [5; tr15].


Chính phủ Nga tiếp tục thực hiện những cam kết được đưa ra trong thời gian qua, gồm
cải cách các lực lượng vũ trang nhằm góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh quốc
gia, cụ thể sẽ dành khoảng 23.000 tỷ Rúp (khoảng 29-30 Rúp đổi 1 USD) cho công tác này và
đến năm 2020 sẽ đổi mới 50-70% trang thiết bị vũ khí của quân đội, xây dựng quân đội
chuyên nghiệp để sau sáu năm đạt mức 85% sỹ quan và binh lính phục vụ theo chế độ hợp

đồng.
Giáo dục là một trong những ngành tiếp tục được ưu tiên phát triển với kinh phí hàng
năm do ngân sách cấp lên tới 2.000 - 3.000 tỷ Rúp. Nước Nga hiện nay đang có khoảng 1.050
trường Đại học - Cao đẳng và học viện (con số này thời Liên Xơ trước đây chỉ có khoảng 600)
[5; tr16].
Những phương hướng chủ yếu khác trong hoạt động của Chính phủ Nga là tiếp tục cải
cách hệ thống chính trị, thực hiện và hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được
công bố, giảm bớt tình trạng nghèo khó và thất nghiệp, cải thiện bầu khơng khí đầu tư.
Nhìn một cách tổng thể từ khi thành lập nhà nước Cộng hịa Liên bang Nga thì những
thuận lợi vượt trội hơn so với những khó khăn, là cơ sở quan trọng để khắc phục những khó
khăn trên các mặt, đồng thời thực hiện các chính sách phát triển đất nước, Nga có hầu như đầy
đủ tiềm năng để trở thành một cường quốc thế giới.
Tình hình đất nước Nga có những lúc thăng trầm đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch
định và điều chỉnh chính sách ngoại giao với các khu vực, các quốc gia và vùng lãnh thổ. Và
trong đó Việt Nam cũng khơng ngoại lệ.
Ngay khi vừa mới ra đời, nhà nước Liên Bang Nga đã lấy việc bảo đảm lợi ích quốc
gia làm mục tiêu bao trùm, là chìa khố để hoạch định chính sách đối ngoại. Được thừa kế
chính sách đối ngoại của Liên Xô trước đây Nga đã đề ra mục tiêu chính sách đối ngoại sau:
Thứ nhất, tạo mơi trường quốc tế thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vừa tập trung các
nguồn lực trong nước vừa giải quyết các vấn đề Quốc tế kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh,
quốc phòng đang đặt ra với Nga sau chiến tranh lạnh.
Thứ hai : cải thiện mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới trước hết là Mỹ và
các nước Phương Tây để Nga sớm hoà nhập vào các tổ chức kinh tế, an ninh ở khu vực và thế
giới


Thứ ba; từ việc khẳng định vai trị của mình trong các nước SNG Nga tiếp tục khẳng
địnhvị thế cường quốc của mình trên trường Quốc tế trong trật tự thế giới mới sau chiến tranh
lạnh.
1.2.Tình hình quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ ngoại giao Việt Nam - Liên bang

Nga những năm đầu thế kỷ XXI
Những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, loài người đã chứng kiến sự thay
đổi to lớn và nhanh chóng trên trường quốc tế. Thế giới đã nhanh chóng trở nên đa cực, với
việc Liên minh châu Âu trở thành một tác nhân kinh tế lớn mạnh hơn Mỹ trong khi Trung
Quốc nổi lên nhanh chóng về mọi mặt cả quyền lực cứng và quyền lực mềm. Đồng thời nảy
sinh những xu thế mới: hồ bình, hợp tác và phát triển, tồn cầu hóa, tính phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia tăng lên…
Bên cạnh đó tồn cầu hóa cịn có nhiều mặt tiêu cực như: sự lan rộng các khơng gian
xung đột trong nền chính trị thế giới, sự xuống cấp trong việc giải trừ vũ khí cũng như kiểm
sốt vũ khí. Trong những năm gần đây, việc sử dụng vũ lực để giải quyết những vấn đề về lợi
ích chính trị, khơng tn thủ luật lệ quốc tế có chiều hướng gia tăng. Sau sự kiện khủng bố
11/9, nhân loại phải đối đầu với chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan và chủ
nghĩa ly khai lan rộng trên cấp độ toàn cầu. Cùng với các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq,
xung đột, khủng bố diễn ra ở khắp mọi nơi.
Mặt khác, thế giới cũng trải qua các cuộc khủng hoảng về lương thực, về năng lượng,
nghèo đói và dịch bệnh diễn ra tràn lan cùng với sự gia tăng về bất bình đẳng giàu nghèo.
Trong xu thế tồn cầu hố của nền kinh tế thế giới các quốc gia ngày càng lệ thuộc nhiều hơn
vào nhau, an ninh của mỗi nước nằm trong nền an ninh chung và có sự ổn định thì mới phát
triển lên được. Tuy vậy, hồ bình ở nhiều khu vực vẫn bị đe doạ, thậm chí ở nhiều nơi xung
đột quân sự vẫn diễn ra vô cùng ác liệt. Đó là những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp
lãnh thổ… Đặc biệt trong các cuộc xung đột, mâu thuẫn đó ít nhiều ln có sự tham gia của
các thế lực thể hiện xu thế của việc hình thành cán cân của thế giới mới. Xuất phát từ tình hình
phức tạp đó, các nước buộc phải xác lập định hướng và khu vực để hợp tác phát triển, nhằm
đảm bảo an ninh và tạo sự ảnh hưởng của mình. Trong xu thế đó, u cầu đặt ra cho nước Nga


phải thay đổi quan hệ quốc tế trong tình hình mới, phải điều chỉnh chính sách đối ngoại phù
hợp để đảm bảo vấn đề an ninh quốc gia và sự phát triển ổn định đất nước.
Nền kinh tế thế giới đã và đang có những thay đổi cơ bản, kinh tế tri thức đang hình
thành dưới tác động của cách mạng khoa học, cơng nghệ và tồn cầu hố. Cạnh tranh kinh tế,

thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ,…
giữa các nước ngày càng gay gắt. Xu thế tồn cầu hố ngày càng phát triển, vừa tạo ra thời cơ,
vừa đặt ra thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Xu thế liên kết
kinh tế thế giới và khu vực diễn ra chưa từng thấy. Các tổ chức quốc tế và khu vực đã đẩy
mạnh hợp tác, liên kết; đồng thời hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế mới ở tầm toàn cầu,
liên khu vực, tiểu khu vực như: Liên minh châu Âu (EU); xuất hiện các tổ chức mới như: Tổ
chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bên cạnh đó là sự ra
đời của hàng loạt khu vực mậu dịch tự do trong các tổ chức, giữa hai nước với tổ chức quốc tế,
khu vực như AFTA trong ASEAN, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, khu vực
mậu dịch tự do NAFTA ở Bắc Mỹ...
Cùng với đó, sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là cách mạng
thông tin diễn ra từ cuối thế kỷ XX và phát triển mạnh trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Sự xuất
hiện của máy tính, vệ tinh viễn thơng, thơng tin điện tử, sợi quang học, truyền tin kỹ thuật số,
Internet... dẫn đến việc hình thành hệ thống thơng tin tồn cầu, có tác động lớn đến ngoại giao
Có thể nói, một diện mạo mới cho các mối quan hệ quốc tế đã được tạo ra, ở đó tồn tại
nhiều xu hướng mang tính đa dạng, phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau, thậm chí đối lập
nhau. Đặc biệt là các xu hướng đó thể hiện rõ trong các quan hệ song phương và đa phương,
trong các quan hệ kinh tế, chính trị và an ninh quốc tế. Chính sự chuyển dịch của thế giới "hai
cực" đối lập sang thế giới "đa cực" mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đã tạo nên một môi
trường quốc tế mới ẩn chứa nhiều cơ hội và khơng ít những thách thức.
Là một khu vực nằm vắt ngang lục địa Á – Âu, vì vậy mà những biến động của cả khu
vực Châu Âu và Châu Á đều có những ảnh hưởng nhất định đến nước Nga trên nhiều mặt
trong đó có lĩnh vực đối ngoại, trong đó khu vực châu Á – Thái Bình Dương là khu vực tác
động trực tiếp đến chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga.


Bước vào những năm đầu của thế kỷ XIX, nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương tiếp
tục giữ tốc độ phát triển kinh tế ở mức cao,các nước trong khu vực này lần lượt vượt qua
khủng hoảng năm 1997, năm 2001 là năm quan trọng đánh dấu sự phụ hồi của nền kinh tế cao

với tốc độ tăng trưởng 4,1% năm 2006 đạt 7,6%, năm 2007 đạt 8,3%, trong đó Trung quốc đạt
tốc độ tăng trưởng 11,1%, Ấn Độ đạt 8,9% (2007). Năm 2008 tốc độ tăng trưởng của tồn bộ
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương giảm xuống 8,0%, nguyên nhân là do khủng hoảng toàn
cầu mà bắt nguồn từ Hoa kỳ
Theo ý kiến các nhà nghiên cứu và kể cả những nhà hoạch định đường lối phát triển của
các quốc gia hay các tổ chức đều có các nhận định khác nhau về sự phát triển của khu vực
châu Á – Thái Bình Dương, song đa phần các ý kiến đi theo hướng lạc quan. Theo dự báo
trong vòng 10 năm tới, khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ đạt nhịp độ tăng trưởng trung
bình 5,1%/năm, trong đó các nước ASEAN vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng 6,3% - 6,4%, các
nước cơng nghiệp hóa NICs sẽ đạt tốc độ 5,5%, Trung Quốc sẽ đạt tốc độ 9,8%/năm, đây là
mức tăng trưởng cao nhất ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương; riêng Việt Nam sẽ đạt tốc độ
tăng trưởng 7,4%/năm, các nước ở Bắc Mỹ gồm Canada, Mêxicô và Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng
2,5%/năm. Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, vào đầu thế kỷ XXI châu Á – Thái Bình
Dương cịn là khu vực thu hút FDI và thương mại cao nhất thế giới, đặc biệt là những nước có
thị trường kinh tế nổi như Trung Quốc, Việt Nam, các nước NICs…
Với xu hướng tồn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Thực hiện liên kết kinh tế được
biểu hiện rất rõ ở Hội Nghị Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), tại
Hà Nội vào tháng 11/2006 với phương châm “hướng đến một cộng đồng, phát triển bền vững
và thịnh vượng”. Tuy nhiên khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một khu vực có nhiều quốc
gia và lãnh thổ, đa dạng về địa hình chính trị, thành phần dân tộc, tơn giáo; là một khu vực có
q trình lịch sử phát triển phức tạp, khơng thống nhất về mặt lợi ích, hồn tồn khơng thống
nhất như khối qn sự NATO. Vì vậy quá trình hình thành một tổ chức cho khu vực châu Á –
Thái Bình dương khơng phải là một vấn đề dễ dàng mà phải đối phó với những tình hình quốc
tế, như tình hình khủng bố, khủng hoảng tài chính, sự tăng giá, lạm phát, đặt biệt là sự phát
triển quá nóng của Trung Quốc.


Sự vươn lên của những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga đã cân bằng quyền lực ở
khu vực châu Á – Thái Bình Dương trở nên cân bằng hơn, mối quan hệ giữa các nước trong

khu vực được cải thiện, các nước đều nhận ra tầm quan trọng của sự hợp tác, giữ gìn an ninh
chung. Mặt khác, việc các nước châu Á – Thái Bình Dương tăng cường lực lượng và phát triển
vũ khí hạt nhân với tốc độ nhanh là một trọng điểm trong an ninh khu vực, chi phí quân sự cho
các nước ngày càng tăng, làm cho tình hình khu vực ln bị đeo dọa, nguy cơ mất an ninh, bất
ổn. Với vị trí đặc thù là một lục địa Á – Âu, những diễn biến của khu vực này đã tác động lớn
đến tình hình nói chung và chính sách đối ngoại của Nga nói riêng trong những năm đầu thế
kỷ XXI, địi hỏi Nga phải có những điều chỉnh, có những bước đi phù hợp đảm bảo an ninh
quốc gia và sự phát triển của đất nước.
Tình hình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương vẫn cịn nhiều bất cập và ảnh hưởng
khơng nhỏ đến chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga. Ở hướng Đông trong quan hệ Nhật –
Nga cịn có vấn đề quần đảo Curin chưa được giải quyết, phía Nhật bản đã nhiều lần thiết phục
đề nghị phía Nga thoải Thuận. Tuy nhiên do các mối quan hệ ràng buộc quyền lợi về nhiều
mặt nên cho đến nay chủ yếu vẫn áp dụng giải pháp đối thoại hòa dịu trong việc giải quyết vấn
đề tranh chấp này. Tuy cả hai bên Nhật và Nga trong nhiều năm qua đang cố gắng tạm gác vấn
đề bất đồng về tranh chấp lãnh thổ, song điều này đã làm các quan hệ kinh tế, ngoại giao chỉ
phát triển ở mức độ trung bình, thậm chí có lúc đã chững lại hoàn toàn chưa tương xứng với
tiềm năng và nhu cầu phát triển của hai nước. Từ năm 1992 đến 1997 thương mại Nhật – Nga
chỉ tăng 1,3 lần, từ 3,1 tỷ USD lên 3,9 tỷ USD từ năm 1998 đến nay có xu hướng chững lại.
Thị trường Nga rất rộng lớn và phong phú, nhưng đến nay tỷ lệ buôn bán với Nga chỉ chiếm
0,8% trong ngoại thương của Nhật.... việc cải thiện quan hệ với Nhật Bản là vấn đề cần quan
tâm trong chính sách đối ngoại của Nga đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Như vậy bên cạnh những vấn đề bất ổn cần được giải quyết thì với sự cân bằng về quyền
lực, hợp tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã tạo ra một tiền đề quan trọng để thúc đẩy
q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa của các quốc gia trên thế giới, chính những lý do trên đã
làm nảy sinh tính đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế và cho phối việc hoạch
định, thực hiện và điều chỉnh chính sách đối ngoại của cộng hòa của Liên Bang Nga những
năm đầu thế kỷ XXI.


Tóm lại, Chính sách đối ngoại của mỗi nước sẽ chịu tác động trực tiếp qua lại của nhiều

nhân tố khác nhau: tình hình nội tại của đất nước, tình hình quốc tế, khu vực, điều kiện tự
nhiên, nhân tố xã hội.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga trải qua một giai đoạn kinh tế khó khăn khoảng một
thập kỷ trên nhiều mặt, đã làm cho nước Nga mất vị trí cường quốc như Liên Xơ trước đây.
Nhưng trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, nền kinh tế Nga dần phục hồi và phát triển nhanh
chóng để trở lại vị trí một cường quốc trên trường quốc tế và khu vực.
Bước sang thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều vấn đề rất
quan trọng ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của tất cả các quốc gia nói chung và Liên bang
Nga nói riêng. Thế kỷ XXI, nhân loại được chính kiến q trình tồn cầu hố diễn ra vơ cùng
mạnh mẽ, sự tác động, phụ thuộc của các quốc gia dân tộc ngày càng lớn. Đặc biệt, sau sự kiện
11/9/2001, nước Mỹ bị chủ nghĩa khủng bố tấn công làm rung chuyển thế giới. Với con bài
chống chủ nghĩa khủng bố. Đi cùng với đó trong thời gian gần đây, nền kinh tế thế giới đang
lâm vào các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, đe doạ không nhỏ đến nền kinh tế thế giới nói
chung và nền kinh tế Liên bang Nga nói riêng. Vì vậy đã đặt ra những bài tốn khó giải cho
nội các Liên bang Nga trong q trình khẳng định vai trị và vị thế của mình trong khu vực và
thế giới.
Bên cạnh đó, sự vươn lên mạnh mẽ của các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương mà tiêu biểu như Trung Quốc, Nhật bản, Ấn Độ…chính điều đó tạo nên sự cân bằng
quyền lực, vừa hợp tác, vừa kiềm chế lẫn nhau giữa các nước lớn vì lợi ích chung là hịa bình
ổn định khu vực, làm điểm tựa cho chính sách đối nội vì mục tiêu chấn hưng kinh tế của mỗi
nước.
Các yếu tố nội tại, tình hình thế giới và khu vực đó sẽ chi phối tới q trình hình thành,
điều chỉnh những chính sách đối ngoại của Liên bang Nga qua các giai đoạn đối với các vấn
đề quốc tế, khu vực cũng như đối với các quốc gia.


1.3. Chính sách đổi mới của Việt Nam là động lực thúc đẩy tích cực trong quan hệ Việt
Nam - Liên Bang Nga
Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn.
Chính sách đối ngoại của nước ta là kế tục tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh và truyền

thống ngoại giao Việt Nam, chính sách đối ngoại là sự tiếp tục chính sách đối nội tạo điều kiện
hồn thành chính sách đối nội và góp phần thắng lợi cho đường lối chung. Đây là một nhân tố
quan trọng hàng đầu tác động đến quan hệ Việt – Nga vì những thành tựu của Việt Nam đạt
được trong những năm qua đã tác động đến sự quan tâm của các nước trên thế giới trong đó có
Nga.
* Q trình hình thành chính sách đối ngoại đổi mới;
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động lớn. Tương quan lực lượng nghiêng về có
lợi cho chủ nghĩa Tư Bản, lợi dụng điều đó Mỹ ra sức tấn cơng chống phá cách mạng thế giới.
Trong khi đó Liên Xơ trở thành trụ cột cho xu hướng hồ bình ổn định của các nước xã hội lại
lâm vào khủng hoảng kinh tế, chính trị trầm trọng, ở Việt Nam đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI được triển khai, có thể coi đại hội này là điều khởi nguồn cho công cuộc đổi mới của
Việt Nam. Điều đó được thể hiện ở nghị quyết 13 của Bộ chính trị khố 6 (tháng 5 năm 1988)
Nghị quyết Bộ chính trị chỉ ra rằng quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước ta là “thêm bạn,
bớtthù” vì Đảng ta cho rằng, nhiệm vụ chủ yếu của ngoại giao trong thời kỳ này là ra sức phá
thế bao vây, cấm vận và cô lập nước ta, tranh thủ càng nhiều bạn càng tốt, giảm bớt kẻ thù
càng nhiều càng hay, tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em bầu bạn, dư luận quốc tế phân
hố và làm thất bại âm mưu của địch, góp phần đưa nước ta nhanh chóng thốt khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội. Đảng ta đưa ra một số quan niệm nhằm tạo khả năng đẩy mạnh hơn nữa
quan hệ Việt Nam với các nước láng giềng, các nước trên thế giới trong đó có Liên Bang Nga.
Đảng và nhà nước ta ra sức tranh thủ đường lối đổi mới nhằm đưa cách mạng thốt khỏi khủng
hoảng kinh tế chính trị, xã hội đưa đất nước từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tháng 6 - 1991 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam
được tổ chức . Đại hội này đựơc đánh giá là một đại hội trí tuệ, dân chủ, đổi mới kỷ cương và
đoàn kết. Tiếp thu Đại hội VI, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt


Nam đã long trọng tuyên bố chủ trương đối ngoại của mình là : “Việt Nam muốn là bạn với tất
cả các nước trên cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình độc lập phát triển”. Tuy thực hiện
chính sách đối ngoại mở rộng nhưng Đảng ta vẫn coi trọng mối đoàn kết hữu nghị hợp tác với
các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thống.

* Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam,
Đảng ta đưa ra 4 phương châm như sau:
- Đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa Quốc tế trong giai cấp công nhân.
- Giữ vững Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ Quốc tế.
-Tích cực tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đến Đại hội Đại biểu Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1996) tiếp tục khẳng định: Phương hướng hoạt động đối ngoại của Việt Nam là tiếp tục thực
hiện chính sách đối ngoại đa đạng hoá, đa phương hoá với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trên cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình ,độc lậpvà phát triển”. Việt
Nam chủ trương hợp tác trên nhiều lĩnh vực song phương và đa phương với các nước, các tổ
chức Quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau
bình đẳng cùng có lợi thơng qua đàm phán, giải quyết những vấn đề tranh chấp, đảm bảo hồ
bình an ninh khu vực. Việt Nam nhấn mạnh tăng cường hợp tác với các nước láng giềng, coi
trọng quan hệ với các nước đang phát triển và các trung tâm kinh tế thế giới, nêu cao tinh thần
đoàn kết anh em đang phát triển ở Châu á, Phi, Mỹ La Tinh và phong trào khơng liên kết...
Nhờ có chủ hướng đúng đắn Việt Nam đã có những thành cơng nhất định. Việt Nam có quan
hệ chính thức với 165 nước trên tồn thế giới, Đảng cộng sản Việt Nam có quan hệ với 188
Đảng trên thế giới. Chúng ta đã quan hệ buôn bán với 120 nước trên thế giới trong đó 61 nước
và vùng lãnh thổ có quan hệ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, với tổng số vốn tính đến hết năm
1999 khoảng trên 33 tỷ USD trong hơn 2200 dự án.


* Những phương hướng chủ yếu trong quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga
Nhìn chung tình hình thế giới hết sức có lợi cho quan hệ Việt Nam-Liên Bang Nga.
Trong chính sách đối ngoại của mình, Việt Nam vẫn coi trọng Nga là nhân tố, là bạn hàng
truyền thống. Hơn nữa quan hệ Việt - Nga có chiều hướng đi lên nên Đảng và Nhà nước ta xác
định một số định hướng chủ yếu trong việc giải quyết mối quan hệ Việt - Nga hiện nay là:

- Tăng cường hợp tác hữu nghị nhiều mặt giữa Việt Nam và Liên Bang Nga. Trên cơ sở
của chính sách đối ngoại mở rộng góp phần bảo vệ hồ bình an ninh ổn định khu vực Đông
Nam á, Châu á - Thái Bình Dương và thế giới.
- Liên Bang Nga là thị trường rộng lớn và quen thuộc với hàng hoá của Việt Nam nên
ta cần khai thác triệt để những điều kiện thuận lợi, những thế mạnh trong việc buôn bán hai
chiều và phát triển kinh tế.
- Trong quá trình hợp tác ta cần lựa chọn những nội dung kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ
thuật nào có hiệu quả để hợp tác .
- Trên cơ sở kinh tế đầu tư của Nga tại Việt Nam thì Việt Nam cần có những chính sách
tạo điều kiện thuận lợi để Liên Bang Nga buôn bán với Việt Nam.
- Việt Nam cần triển khai kế hoạch để trả nợ trên tinh thần bình đẳng cùng có lợi:
- Ngồi ra Việt Nam cần nâng cao vai trò ảnh hưởng về hoạt động tổ chức có nhiệm vụ
thực hiện đồn kết tham gia hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và Liên Bang Nga.


CHƯƠNG 2:
QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA (1991-2017)
Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga vốn được kế thừa quan hệ truyền thống hữu nghị
Việt – Xô trước đây, sau khi Liên Xô sụp đổ, quan hệ này có những thay đổi căn bản, trước hết
là sự đảo lộn của thể chế chính trị Liên bang Nga. Ý thức hệ cộng sản và quan hệ đồng minh
chiến lược khơng cịn là cơ sở nền tảng của quan hệ Việt – Nga, thay vào đó, cơ sở quan hệ
hiện nay chỉ xuất phát chủ yếu từ lợi ích quốc gia dân tộc. Do đó nguyên tắc hàng đầu chỉ đạo
quan hệ Việt Nam – Liên Xô là chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa cũng được thay bằng
ngun tắc tơn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi trong quan hệ Việt - Nga hiện nay.
Tuy nhiên từ khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã đến nay mối quan hệ giữa hai nước
được ghi nhận bằng những chuyển biến tích cực. Xuất phát từ lợi ích kinh tế- chính trị và nhu
cầu riêng của mỗi nước nên tính chất quan hệ của hai nước thay đổi một cách căn bản. Nó
được thể hiện trên nhiều lĩnh vực sau :
2.1. Quan hệ chính trị - đối ngoại
Do tác động của tình hình quốc tế sau chiến trnah lạnh và những vấn đề đặt ra trong nội

bộ của mỗi nước. Từ khi Liên Xô tan rã quan hệ Việt Nam- Liên Bang Nga có thể nói phát
triển qua các giai đoạn thăng trầm khác nhau.
2.1.1. Giai đoạn từ 1991 đến 1993
Đặc trưng nổi bật của giai đoạn này là quan hệ Việt Nam- Liên Bang Nga bị trì trệ, lạnh
nhạt, các cuộc tiếp xúc cấp cao giữa hai cấp cao giữa hai nước không tiến hành hoặc có tiến
hành thì chỉ tiến hành mang tính chất xã giao. Hoạt động ngoại giao giữa hai nước chỉ là
những cuộc tiếp xúc, viếng thăm lẫn nhau giữa các cấp Thứ trưởng hoặc Bộ trưởng, nổi bật
hơn cả là cuộc đàm pháp Việt Nam - Liên Bang Nga nhân chuyến thăm của phó Thủ tướng
Việt Nam Trần Đức Lương sang các nước SNG tháng 7 năm 1992. Nhân chuyến thăm các
nước tróng nhóm SNG, Phó Thủ tướng Trần Đức Lương sang thăm Liên bang Nga nhằm nối
lại quan hệ truyền thống và thúc đẩy sự hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học –
kỹ thuật giữa hai nước. Tại các cuộc đàm phán tiếp xúc, Liên bang Nga đã đánh giá cao vai trò
của Việt Nam tại khu vực và mong muốn khắc phục thực trạng trì trệ trong quan hệ giữa hai
nước. Nhưng do vướng mắc trong việc giải quyết vấn đề nợ, hai bên đã khơng kí kết được hiệp


định cụ thể mà chỉ thống nhất thành lập ủy ban Liên Chính phủ về hợp tác kinh tế thương mại
và khoa học – kỹ thuật.
Cuối tháng 7/1992, phó Thủ tướng Liên bang Nga – V.A Makharade – sang thăm Việt
Nam, tham gia khóa họp đầu tiên của ủy ban Liên Chính phủ đã khẳng định: Liên bang Nga
khơng từ bỏ lợi ích của mình trong hệ với Việt Nam và cũng không nhường cho bất kỳ ai.
Đồng thời trong thư của tổng thống B. Yeltsin gửi Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng nhấn mạnh:
Nga tiếp tục cam kết của Liên Xô với Việt Nam. Tháng 5/1993, tại cuộc họp lần thứ 3 của Uỷ
ban Liên Chính phủ, Việt Nam và Liên bang Nga đã thoả thuận về việc Nga kế thừa hiệp định
thăm dị và khai thác dầu khí mà Liên Xơ kí với Việt Nam vào năm 1981. Ngồi ra hai nước
cịn kí hiệp định về phịng khơng, hàng hải, tránh đánh thuế hai lần. Tháng 10/1993, bộ trưởng
ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm sang thăm Liên bang Nga, tại đây hai bên đều khẳng định chủ
trương tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ truyền thống Việt Nam – Liên bang Nga trên cơ
sở mới.
Tuy nhiên nhìn chung thì quan hệ hai nước vẫn chưa có bước chuyển biến từ sau khi nhà

nước Liên Xô tan rã.
Nguyên nhân là do :
Một số điều kiện của Nga đưa ra trong đó có vấn đề nợ. Mục tiêu của Nga khác Việt
Nam hai bên thiếu nhất quán trong quan điểm, lợi ích chiến lược của mỗi quốc gia khác nhau.
Nếu giai đoạn này chính sách đối ngoại của Nga hướng về Đại Tây Dương thì ưu tiên hàng
đầu của Việt Nam là quan hệ với các nước Đông Nam Á. Trên diễn đàn quốc tế, diễn đàn an
ninh khu vực quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga bị suy giảm còn là do sự thụ động của cả hai
phía trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới. Khi cơ chế, cơ cấu quan hệ kiểu cũ
bị đổ vỡ còn cơ chế quan hệ mới phù hợp với thông lệ quốc tế,rõ ràng là rất phức tạp, không
thể ngay lập tức thiết lập được. Mục tiêu trên theo đuổi hai bên khác nhau trước sự thay đổi
nhanh chóng của thế giới.
2.1.2. Giai đoạn từ 1994 đến 1996
Bước sang giai đoạn này, quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga có chiều hướng phát triển
tích cực. Từ năm 1994, Liên Bang Nga đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng “cân
bằng Đông – Tây”, ngày càng quan tâm hơn đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương và khu


vực Đơng Nam Á, trong đó Việt Nam giữ vai trò quan trọng. Đẩy mạnh quan hệ với Việt Nam
sẽ tạo điều kiện cho Liên bang Nga tăng cường vị thế ở khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, sau
khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành cầu nối của Liên bang Nga có thể mở rộng ảnh
hưởng ở khu vực Đông Nam Á, là một điều kiện thuận lợi để Nga tiếp cận thị trường ASEAN.
Về phần mình, Việt Nam quan hệ với Liên bang Nga là một tiềm năng trong việc hoạch định
chính sách phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng. Hơn nữa, Liên bang Nga là đối tác truyền
thống, nhập khẩu sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp của Việt Nam, đồng thời cung cấp
cho Việt Nam những sản phẩm máy móc, nguyên – nhiên – vật liệu, trang thiết bị quân sự.
Đây là cơ sở thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên bang Nga và sử dụng nhân tố
Nga trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Vì vậy, ngay từ năm 1994 cả hai nước đều xúc
tiến thúc đẩy, cải thiện quan hệ hợp tác, tạo nên nhưng nét nổi bật trong quan hệ Việt Nga giai
đoạn 1994 – 1996.
Mở màn của sự chuyển biến tích cực là chuyến thăm Việt Nam của phó Tổng thống

I.Iarốp vào tháng 4 năm 1994. Tại cuộc gặp này một lần nữa tầm quan trọng của việc tăng
cường quan hệ với Việt Nam được phó Tổng thống Nga khẳng định.
Tháng 6/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt chính thức thăm Liên bang Nga. Đây là sự kiện
quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến mới trong quan hệ giữa hai nước. Tại cuộc tiếp xúc cấp
cao này, hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị Việt Nam – Liên Bang
Nga (6/1994) và bầu khơng khí hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau. Theo thỏa thuận thì Nga tiếp tục
cung cấp cho Việt Nam nhiều mặt hàng thiết yếu và thiết bị phục vụ các hạng mục cho cơng
trình do Liên Xơ và Nga giúp xây dựng. Việt Nam tích cực trả nợ cho Nga. Để làm được điều
đó cả Nga và Việt Nam đều tích cực tìm kiếm những hình thức và mở rộng hợp tác trên các
lĩnh vực như năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, để thúc đẩy quan
hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước.
Xuất phát từ chuyến đi thăm của phó thủ tướng Trần Đức Lương mà từ đó các cuộc
viếng thăm của các vị nguyên thủ Quốc Gia được thường xuyên hơn. Hai bên nhằm tăng
cường quan hệ truyền thống và mong muốn phối hợp đối ngoại đáp ứng nhu cầu phát triển
quan hệ hai nước trong tình hình mới. Sự kiện đáng chú ý nhất đánh dấu cột mốc quan trọng
trong sự phát triển quan hệ Việt - Nga là chuyến đi thăm hữu nghị chính thức đầu tiên sang


×