Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CHUYÊN ĐỀ MỘT SỐ KỸ NĂNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN PHẠM TỘI VỀ MA TÚY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.6 KB, 19 trang )

VKSND TỐI CAO
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH HỊA BÌNH

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hịa Bình ngày 9 tháng 5 năm 2017

CHUN ĐỀ
MỘT SỐ KỸ NĂNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, VÀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN PHẠM TỘI VỀ MA TÚY

Trong những năm qua tình hình tội phạm và tệ nạn về ma túy trên địa bàn
tỉnh Hịa Bình vẫn diễn biến rất phức tạp, gây bất ổn trong mỗi gia đình, cộng đồng
và xã hội, đe dọa sự ổn định về an ninh, chính trị, là nguyên nhân làm phát sinh các
loại tội phạm khác gây mất trật tự an toàn xã hội. Để góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tếxã hội, phục vụ tích cực cho cơng cuộc đổi mới đất nước, thì một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của các Cơ quan bảo vệ pháp luật là đấu tranh phịng, chống
các loại tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng.
Viện kiểm sát là Cơ quan tiến hành tố tụng, trong giai đoạn điều tra có
nhiệm vụ THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra nhằm đảm bảo cho việc điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng
minh tội phạm và người phạm tội đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm và làm oan người vô tội. Trong những năm qua, mỗi năm Viện kiểm sát hai
cấp tỉnh và huyện trên địa bàn tỉnh Hịa Bình, đã thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, lập cáo trạng truy tố hàng trăm vụ án và bị can phạm tội về ma túy ra
trước Tòa án nhân dân tỉnh Hịa Bình để xét xử theo quy định của pháp luật. Trong
đó có những vụ án lớn với nhiều bị can tham gia, số lượng tang vật thu giữ rất lớn,
có vụ thu giữ được hàng trăm bánh heroin, thủ đoạn phạm tội tinh vi xảo quyệt;
góp phần tích cực trong việc giữ vững an ninh chính trị, và trật tự an toàn xã hội.


Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, cơng tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án phạm tội về ma túy
vẫn cịn tồn tại những hạn chế, thiếu sót, có những vụ án phải trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung do thiếu chứng cứ. Một trong những nguyên nhân rất quan trọng là do
kỹ năng nghiệp vụ của Kiểm sát viên cịn có những hạn chế.
Nhằm giúp cho Viện kiểm sát hai cấp, nhất là các Kiểm sát viên trực tiếp
làm nhiệm vụ Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về ma
túy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hịa Bình tổng hợp, xây dựng một số kỹ năng
nghiệp vụ cơ bản. Với mong muốn mỗi Kiểm sát viên sẽ tự rèn luyện, hình thành
cho mình những kỹ năng cần thiết và sử dụng thành thạo, để giải quyết công việc
đạt hiệu quả và chất lượng cao hơn, hạn chế được những sai sót khơng đáng có.
Đồng thời bổ sung thêm những kinh nghiệm, mà tài liệu chưa đề cập đến để góp
phần hồn thiện kỹ năng nghiệp vụ kiểm sát trong lĩnh vực này.


I. KỸ NĂNG TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, THỤ LÝ, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN
BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1. KHÁI NIỆM

- Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu
[,tội phạm với Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
- Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do Cơ
quan, tổ chức, cá nhân thơng báo với Cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội
phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
- Kiến nghị khởi tố là việc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng
văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Do vậy, có thể hiểu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong
lĩnh vực án ma túy là những thông tin, những tố giác và kiến nghị khởi tố về hành
vi có dấu hiệu tội phạm liên quan đến các tội phạm ma túy được quy định trong Bộ

luật hình sự hiện hành.
2. Các kỹ năng cụ thể
Theo quy định của pháp luật, khi thực hành quyền công tố (THQCT) và
kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát
có một số nội dung cơng việc sau:
- Tiếp nhận TG, TBVTP và KNKT;
- VKS trực tiếp xử lý TG, TBVTP và KNKT nhận được;
- Kiểm sát giải quyết TG, TBVTP và KNKT của Cơ quan điều tra.
Kỹ năng cụ thể trong nội dung này được thể hiện:
2.1. Kỹ năng tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố.
- theo quy định tại Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2014, thì VKSND có
nhiệm vụ: tiếp nhận đầy đủ TG, TBVTP và KNKT do các Cơ quan, tổ chức, cá
nhân chuyển đến và chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết. Do vậy
Viện kiểm sát hai cấp phải bố trí cán bộ, Kiểm sát viên trực để tổ chức việc tiếp
nhận cả trong và ngoài giờ hành chính, ngày làm việc cũng như ngày nghỉ cuối
tuần và các ngày lễ tết…
* Bước 1: Tiếp nhận thông tin
+ Khi tiếp nhận người đến trực tiếp tố giác tội phạm phải:
- Kiểm tra giấy tờ tùy thân để xác định rõ tên, tuổi, địa chỉ của người tố giác.
- Xác định nội dung: Người bị tố giác ( như tên, tuổi, địa chỉ), nội dung tố
giác ( thực hiện hành vi phạm tội gì về ma túy, tương ứng với Điều luật nào được
quy định trong BLHS. Xảy ra khi nào, xảy ra ở đâu, có hậu quả xảy ra khơng, nếu
có thì hậu quả đó như thế nào, những tình tiết liên quan khác như có ai liên quan,
có ai chứng kiến sự việc xảy ra, các đặc điểm về vật chứng…)
2


- Lập biên bản sự việc theo quy định, nếu người tố giác gửi kèm theo đơn
hoặc các tài liệu liên quan thì phải thu giữ theo đúng trình tự, thủ tục quy định.

+ Khi tiếp nhận qua đường bưu điện, hoặc hòm tiếp đơn, thư tố giác: phải
xem xét nội dung, phân loại trước khi thụ lý, đơn nặc danh hay đơn có tên người tố
giác. Khi thấy có dấu hiệu của tội phạm về ma túy thì cần xác định thông tin cá
nhân của người bị tố giác như: tên, tuổi, địa chỉ, hành vi, địa điểm, thời gian… cụ
thể ( lưu ý cần giữ các bì thư để phục vụ xác minh sau này).
+ Khi tiếp nhận qua điện thoại: Cũng cần phải xác minh đầy đủ các thông tin
về người tố giác, nội dung tố giác, thông tin người bị tố giác.
* Bước 2: Vào sổ, phân loại, xử lý:
+ Vào sổ thụ lý theo mẫu quy định chung của ngành, ghi đầy đủ các thông
tin như: ngày, giờ tiếp nhận tin báo; tên Cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông
tin; nội dung của tin báo, tố giác; tên, tuổi, địa chỉ của cá nhân bị tố giác; các biện
pháp xử lý của Kiểm sát viên; kết quả giải quyết,…
+ Phân loại tố giác, tin báo về tội phạm xem thuộc trách nhiệm giải quyết
của Cơ quan nào, như của VKS, của Cơ quan điều tra cấp nào…
+ Báo cáo và đề xuất lãnh đạo Viện chuyển ngay tố giác, tin báo cùng với
các tài liệu liên quan đến Cơ quan có thẩm quyền giải quyết; đồng thời thông báo
bằng văn bản cho Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã cung cấp thông tin biết để tiếp tục
theo dõi việc giải quyết.
+ Thực hiện nhiệm vụ thống kê định kỳ theo tháng, quý, 6 tháng, năm công
tác và gửi báo cáo thống kê đến đơn vị chuyên môn theo quy định.
2.2. Kỹ năng kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, và Cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra.
- Theo quy định của pháp luật, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thơng báo
đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho
VKS. Tuy nhiên, để nắm được đầy đủ thì KSV được phân công nắm và quản lý tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải:
+ Thường xuyên theo dõi, bám sát hoạt động tiếp nhận, thụ lý của CQĐT.
+ Thường xuyên theo dõi các nguồn thông tin về tội phạm xảy ra trên địa
bàn qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài phát thanh- truyền hình,

mạng xã hội… Khi phát hiện có những vụ việc có dấu hiệu tội phạm, thì ra văn bản
trao đổi yêu cầu CQĐT xác minh.
+ Định kỳ hàng tuần cùng với CQĐT kiểm tra sổ thụ lý, đối chiếu, phân loại
xử lý… các tố giác, tin báo về tội phạm,…
+ Xây dựng mối quan hệ phối hợp với CQĐT và một số Cơ quan hữu quan ở
địa phương, ký kết quy chế phối hợp để cung cấp thông tin, như với các Cơ quan
thuế, Kiểm lâm, Thanh tra, Quản lý thị trường,…
- Kiểm sát việc phân loại và xử lý TG, TBVTP và KNKT:
3


+ Kiểm sát việc phân loại xử lý kịp thời các tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố về ma túy của CQĐT. Trong đó cần tập trung xác định thẩm
quyền thụ lý giải quyết; việc kịp thời chuyển hoặc tổ chức xác minh, phân công
ĐTV thụ lý… của CQĐT; kiểm sát về thời hạn ra quyết định phân công ĐTV và
việc gửi các quyết định đến VKS. Đồng thời, kịp thời báo cáo đề xuất với lãnh đạo
VKS quyết định việc phân công KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
giải quyết đối với TG, TBVTP và KNKT đó và gửi cho CQĐT.
Định kỳ hàng tháng, hàng quý, 6 tháng tổ chức việc đối chiếu số liệu, sổ
sách theo dõi việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của CQĐT. Khi phát
hiện các trường hợp để ngoài sổ sách, trường hợp đã giải quyết nhưng không gửi
quyết định đến VKS, những trường hợp phức tạp, quá hạn, sắp hết thời hạn giải
quyết… thì phải yêu cầu ĐTV và CQĐT giải trình, khắc phục các vi phạm hoặc
báo cáo Lãnh đạo để chỉ đạo và cho hướng xử lý tiếp theo.
+ Đối với KSV được phân công THQCT và kiểm sát giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, phải chủ động liên hệ phối hợp
với ĐTV để: Tiếp cận, nắm bắt nội dung và nghiên cứu hồ sơ vụ việc; trao đổi về
định hướng xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ; xác định được các yêu cầu cần
cần phải xác minh…
Trực tiếp tham gia các hoạt động điều tra thu thập, xác minh của ĐTV khi

cần thiết, như hoạt động khám nghiệm hiện trường, lập biên bản bắt giữ người
phạm tội quả tang, khẩn cấp, thu giữ vật chứng; việc mở niêm phong lấy mẫu và
xác định khối lượng ma túy đã thu giữ, trưng cầu giám định, lấy lời khai của các
đương sự liên quan…
- Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết TG, TBVTP và KNKT của CQĐT
không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì phải yêu cầu CQĐT, Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
+ Tiếp nhận, thụ lý, kiểm tra, xác minh, ra quyết định đầy đủ, đúng quy định
của pháp luật;
+ Kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết và thông báo kết quả cho VKS;
+ Cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết;
+ Khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm;
+ Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giải quyết.
2.3. Kỹ năng kiểm sát kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của CQĐT.
+ KSV phải kịp thời nghiên cứu hồ sơ và quyết định khởi tố, không khởi tố
vụ án hình sự của Cơ quan điều tra:
Nếu Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự của CQĐT là có căn cứ thì
KSV làm báo cáo đề xuất lãnh đạo Viện ký thông báo kết quả kiểm sát, thể hiện
quan điểm của VKS và chuyển hồ sơ vụ việc lại cho CQĐT giải quyết tiếp theo thủ
tục chung.
4


Nếu thấy vẫn cịn có những vấn đề chưa được làm rõ, hoặc chưa được xác
minh đến cùng, việc ra quyết định chưa thực sự thuyết phục thì phải yêu cầu ĐTV
bổ sung hoặc tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ. Nếu các tài liệu đã có trong hồ
sơ hoặc sau khi ĐTV bổ sung có đủ căn cứ để xác định tội phạm xảy ra thì phải kịp
thời báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện trao đổi với thủ trưởng CQĐT để rút lại quyết
định đã ban hành. Nếu CQĐT khơng nhất trí, giữ ngun quan điểm thì VKS ra

Quyết định hủy bỏ Quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT.
Nếu đã hết thời hạn giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Thông
tư liên tịch số 06/2013, và Điều 103 BLTTHS 2003 mà chưa đủ căn cứ để ra quyết
định khởi tố, hoặc khơng khởi tố vụ án án hình sự, thì phải u cầu CQĐT thơng
báo ngay bằng văn bản cho VKS cùng cấp biết, để thống nhất quan điểm giải
quyết.
2.4. Kỹ năng kiểm sát trực tiếp việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra cùng cấp theo định kỳ hoặc đột xuất.
Để hoạt động kiểm sát mang lại hiệu quả cần phải làm tốt một số công sau:
- Về công tác chuẩn bị phải:
+ Nắm chắc số liệu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã được
CQĐT thụ lý giải quyết và đã được cung cấp cho VKS, số còn tồn lại, số đã quá
thời hạn giải quyết.
+ Xây dựng kế hoạch kiểm sát, trong đó nêu rõ mục đích, u cầu; nội dung;
thời gian, thời điểm tiến hành kiểm sát; các bước công việc phải thực hiện; yêu cầu
CQĐT chuẩn bị báo cáo…
+ Ban hành quyết định và thông báo việc thực hiện Quyết định kiểm sát trực
tiếp tới CQĐT.
- Về nội dung thực hiện công tác kiểm sát:
+ Kiểm tra hồ sơ, sổ thụ lý của CQĐT. Chú ý đối chiếu, so sánh giữa các sổ
liên quan đến công tác nghiệp vụ như: Sổ trực ban hình sự, sổ theo dõi quyết định
trưng cầu giám định, sổ phân công khám nghiệm hiện trường…chú ý phát hiện tố
giác, tin báo về tội phạm không được vào sổ thụ lý hoặc vào sổ thụ lý chậm; khơng
có quyết định phân cơng ĐTV giải quyết; không thông báo hoặc gửi quyết định
phân công cho VKS; có vi phạm về thời hạn giải quyết; khơng tiến hành các bước
xác minh; thụ lý giải quyết sai thẩm quyền.
+ Kiểm tra việc thực hiện, khắc phục các vi phạm được nêu tại kiến nghị của
VKS trong lần kiểm sát trước ( nếu có); xác định nguyên nhân việc chưa thực hiện.
+ Khi phát kiện vi phạm phải lập biên bản, ghi rõ nội dung vi phạm, số
lượng vi phạm cụ thể, để làm căn cứ ban hành kiến nghị khi kết thúc cuộc kiểm sát

trực tiếp.
+ Khi kết thúc cuộc kiểm sát, phải tổng hợp các thông tin, dữ liệu thu được,
đánh giá về tình hình, kết quả đạt được, những vi phạm, tồn tại và nguyên nhân, đề
xuất các nội dung kiến nghị, biện pháp yêu cầu khắc phục vi phạm.
5


Lưu ý: Theo quy định của BLTTHS 2015 thì Cơng an xã, Phường, Thị trấn
cũng có thẩm quyền tiếp nhận TG, TBVTP, tuy nhiên luật khơng quy định VKS có
thẩm quyền kiểm sát trực tiếp tại đơn vị này, do vậy VKS cần phải có sự phối hợp
với CQĐT để nắm và kiểm sát đầy đủ các TG, TBVTP do Công an các xã,
Phường, Thị trấn tiếp nhận và việc chuyển các thông tin về tố giác, tin báo về tội
phạm cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2.5. Kỹ năng kiểm sát việc thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự hạn chế
quyền con người, quyền cơng dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
Khi kiểm sát việc đề nghị phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp cần chú ý:
+ Các căn cứ đặc trưng của các trường hợp bắt khẩn cấp theo điểm a,b.c
khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003. Vì thực tế, do đặc thù của tội phạm trong các vụ
án về ma túy, nên việc lạm dụng bắt khẩn cấp trong một số tường hợp của CQĐT
có thể xảy ra.
+ Thẩm quyền của người ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
+ Nội dung của của lệnh bắt người như: căn cứ, ngày, tháng, năm ra quyết
định; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, tuổi, địa chỉ của người bị bắt; lý
do…
+ Việc tuân thủ các quy trình, thủ tục khi thi hành lệnh bắt và lập biên bản về
việc bắt, như: Bắt người tại nơi cư trú thì có đai diện chính quyền địa phương và
người láng giềng chứng kiến. Tại nơi làm việc thì có đại diện Cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc. Có đúng là ĐTV là người được ủy quyền thực hiện lệnh bắt
khẩn cấp hay không…

+ Việc chấp hành các quy định của pháp luật sau khi bắt giữ được đối tượng,
như: Việc phải lấy lời khai ngay, việc phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do
trong thời hạn 24 giờ; việc ghi thời điểm tạm giữ trong quyết định (Lưu ý: theo
quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ khơng được quá 3
ngày, kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt, chứ không phải từ khi ban hành quyết
định tạm giữ).
Đối với việc gia hạn thời hạn tạm giữ cũng tương tự, nếu có căn cứ thì báo
cáo đề xuất lãnh đạo Viện để gia hạn, nếu chưa đủ căn cứ thì phải yêu cầu CQĐT
cung cấp thêm tài liệu chứng cứ khác, nếu khơng thì đề xuất hủy bỏ quyết định tạm
giữ và các quyết định trái pháp luật khác.
- Nếu CQĐT có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm mà VKS đã u cầu nhưng khơng được CQĐT khắc phục, thì VKS rút hồ sơ,
tiến hành xác minh để làm rõ nội dung và xử lý vụ việc theo quy định của pháp
luật.
II. KỸ NĂNG KIỂM SÁT VIỆC LẬP BIÊN BẢN BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ
TANG TRONG CÁC VỤ ÁN MA TÚY

2.1. Khái niệm
6


Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là “ Người đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt”;
việc bắt người phạm tội quả tang phải được lập thành biên bản, và thể hiện trong
hồ sơ vụ án. Biên bản bắt người phạm tội quả tang trong các vụ án về ma túy là
văn bản tố tụng, trong đó thể hiện được về nội dung: Thời gian ( giờ, ngày, tháng,
năm) bắt đầu, kết thúc, địa điểm nơi diễn ra việc lập biên bản bắt người phạm tội
quả tang; người bị bắt giữ, những người tham gia, chứng kiến, nội dung và diễn
biến sự việc bắt quả tang, vật chứng là ma túy đã thu giữ…
2.2. Kỹ năng kiểm sát việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang

Khi kiểm sát việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang trong các vụ án
ma túy cần lưu ý:
* Kiểm sát về thẩm quyền
- Việc tiếp nhận người bị bắt của CQĐT: Theo quy định của pháp luật, bất
kỳ người nào cũng có thể bắt người phạm tội quả tang, nhưng phải giải ngay người
bị bắt đến Cơ quan công an, VKS hoặc ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các Cơ quan
này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho CQĐT
có thẩm quyền giải quyết.
Vấn đề cần lưu ý ở đây là về nguồn, đặc điểm, thời điểm và thời gian từ lúc
bắt đến khi chuyển về CQĐT có thẩm quyền. Nếu khơng được phản ánh hết trong
hồ sơ thì phải yêu cầu CQĐT bổ sung hoặc củng cố theo hướng, như: dựng lại hiện
trường, lấy lời khai người liên quan…
- Về thẩm quyền người lập biên bản: Theo quy định của pháp luật, CQĐT có
thẩm quyền phải tiếp nhận người bị bắt phạm tội quả tang để điều tra. ĐTV là
người trực tiếp được phân công lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, và theo
luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 và BLTTHS 2015, tới đây, khi các văn bản
pháp luật này có hiệu lực thì cịn có thêm cả Cán bộ điều tra. Do vậy, nếu biên bản
bắt người phạm tội quả tang không phải do Điều tra viên hay Cán bộ điều tra lập,
thì báo cáo lãnh đạo đơn vị ban hành văn bản yêu cầu CQĐT có thẩm quyền khắc
phục vi phạm; nêu rõ lý do và biện pháp khắc phục theo đúng thủ tục tố tụng.
* Kiểm sát về hình thức biên bản
Biên bản bắt người phạm tội quả tang phải được lập theo mẫu thống nhất,
phải có chữ ký của người tham gia, chứng kiến. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt,
tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ. Nếu biên bản
không thể hiện được, thì phải yêu cầu CQĐT khắc phục thông qua việc dựng lại
hiện trường, lấy lời khai của những người có tên…
* Kiểm sát nội dung biên bản và các tài liệu có liên quan
- Cùng với việc nghiên cứu nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang,
khi kiểm sát cần nghiên cứu kỹ các bản tường trình, lời khai của người bị bắt, lời
khai nhân chứng, người chứng kiến… về nội dung, diễn biến sự việc, sơ đồ hiện

trường, ảnh hiện trường (nếu có) để xác định rõ căn cứ của từng trường hợp bắt
người phạm tội quả tang; xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
7


hành vi phạm tội. Trong các vụ việc liên quan đến ma túy còn cần phải xác định ý
thức chủ quan của người bị bắt và các đối tượng có liên quan ( nhằm xác định
chính xác hành vi pham tội của người bị bắt, để xác định tội danh phù hợp với
Điều luật mà BLHS quy định, phục vụ công tác điều tra mở rộng vụ án…), kết quả
khám xét thu giữ tài liệu, đồ vật (để xác định: số lượng, chủng loại, trọng lượng
(khối lượng) ) ma túy nhằm xác định biện pháp xử lý cũng như thẩm quyền điều
tra).
Nếu hành vi của người bị bắt quả tang có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì
kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị ban hành các thủ tục tố tụng theo quy định. Nếu
chưa đủ, như: Chất thu được là ma túy nhưng chưa đủ trọng lượng ( khối lượng) để
truy cứu trách nhiệm hình sự… thì báo cáo Lãnh đạo đơn vị không phê chuẩn
Quyết định gia hạn tạm giữ, Lệnh tạm giam đối với người bị bắt quả tang; đồng
thời yêu cầu CQĐT ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, yêu cầu người ra
Quyết định tạm giữ trả tự do cho người bị bắt quả tang…
- Khi kiểm sát cần lưu ý đến tình trạng sức khỏe, đặc điểm nhân thân người
bị bắt ( người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần, hoặc thể chất, phụ
nữ có thai hoặc ni con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu hoặc bệnh nặng, người
dân tộc, người có quốc tịch nước ngồi…) như:
+ Đối với trường hợp người bị bắt là người dưới 18 tuổi: Cần kiểm tra việc
thơng báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ, việc thông báo cử người
bào chữa tham gia tố tụng ( Điều 303 BLTTHS 2003 ứng với Điều 419 BLTTHS
2015). Nếu khơng có người đại diện, người giám hộ, người bào chữa thì phải yêu
cấu CQĐT bổ sung và mời người đại diện, người giám hộ, người bào chữa theo
đúng quy định của pháp luật.
+ Đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, theo quy định của BLHS 2015,

thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm về ma túy quy định tại
các Điều luật như: Điều 247, Đ 253, Đ 254, Đ 255, Đ 256, Đ 257, Đ 258, Đ 259
( xem Điều 12: tuổi chịu TNHS và Chương XII: Những quy định đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội).
* Kiểm sát về thủ tục
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Điều 95) chưa quy định cụ thể như BLTTHS
2015 ( Điều 115) về thủ tục biên bản tố tụng nói chung và Biên bản bắt người
phạm tội quả tang nói riêng, nhưng về nguyên tắc, biên bản biên bản bắt người
phạm tội quả tang phải được đọc cho người bị bắt, người làm chứng, người chứng
kiến… nghe. Người lập biên bản, người bắt, người bị bắt, người làm chứng, người
chứng kiến…phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc khơng
đống ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Nếu không
ký vào biên bản, thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký
vào biên bản. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được
xác nhận bằng chữ ký của họ.
Nếu người tham gia khơng biết chữ, hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất hoặc vì lý do khác mà khơng thể ký vào biên bản, thì người lập biên bản
8


đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người
tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.
Thực tiễn cho thấy, nhiều đối tượng phạm tội về ma túy có những thủ đoạn
chống đối lực lượng chức năng, không ký vào biên bản, lợi dụng sơ hở của ĐTV
xé biên bản gây khó khăn cho lực lượng thực thi công vụ. Khi gặp trường hợp này
KSV cần lưu ý và đề nghị ĐTV thực hiện việc lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang theo đúng quy định.
Để củng cố cho các tình tiết nêu trên, KSV phải kịp thời yêu cầu ĐTV lập
biên bản, lấy lời khai của những người chứng kiến, người biết việc để bổ sung và
chứng minh cho hành vi chống đối của đối tượng bị bắt giữ quả tang.

III. KỸ NĂNG KIỂM SÁT VIỆC KHÁM XÉT, THU GIỮ VẬT CHỨNG TRONG
CÁC VỤ ÁN MA TÚY

3.1. Khái niệm
Khám xét, thu giữ vật chứng trong các vụ án về ma túy là hoạt động điều tra
nhằm tìm kiếm, thu thập dấu vết tội phạm, vật chứng, nhất là các chất ma túy hoặc
những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Theo quy định của pháp luật, việc khám xét bao gồm khám người, khám chỗ
ở, chỗ làm việc, địa điểm, và Bộ luật TTHS 2015 còn mở rộng thêm các trường
hợp khám phương tiện và thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 195,
196).
3.2. Phương pháp kiểm sát
Do ma túy là loại hàng hóa dễ cất dấu nên đối tượng phạm tội thường cất
dấu ma túy ở tất cả các nơi có thể và phân tán ở nhiều địa điểm khác nhau, khi bị
kiểm tra dễ tẩu tán, tiêu hủy, nên cơng tác khám xét địi hỏi phải được thực hiện rất
kịp thời, khẩn trương mới có thể thu giữ được đầy đủ chứng cứ phục vụ quá trình
giải quyết vụ án. Bởi vậy hoạt động kiểm sát cũng cần được tiến hành khẩn trương,
nhanh chóng. Có 2 phương pháp kiểm sát:
- Phương pháp kiểm sát trực tiếp: khi KSV trực tiếp kiểm sát hoạt động thực
hiện lệnh khám xét, thu giữ vật chứng của ĐTV, hoặc trực tiếp kiểm sát việc khám
xét người bị bắt do phạm tội quả tang.
- Phương pháp kiểm sát thông qua hồ sơ vụ án ( gián tiếp): khi kiểm sát việc
ra lệnh khám xét, thu giữ vật chứng và hoạt động khám xét, thu giữ vật chứng của
CQĐT trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được chuyển tới.
3.3. Kỹ năng kiểm sát việc khám xét, thu giữ vật chứng:
Thứ nhất: Kỹ năng kiểm sát lệnh khám xét, thu giữ vật chứng
Theo quy định của pháp luật thì lệnh khám xét phải được Viện kiểm sát phê
chuẩn trước khi thi hành ( khám xét thường). Trường hợp khơng thể trì hỗn vẫn
có thể tiến hành khi chưa có sự phê chuẩn của VKS, nhưng trong thời hạn 24 giờ
kể từ khi khám xét xong thì người ra lệnh khám xét khẩn cấp phải thông báo cho

VKS cùng cấp. Cũng do đặc điểm của các tội phạm về ma túy, nên trên thực tế
9


CQĐT thường hay áp dụng biện pháp khám xét khẩn cấp. Do vậy, để tránh việc
lạm dụng, cần kiểm sát chặt chẽ:
- Các căn cứ khám xét, thu giữ vật chứng
Theo quy định của pháp luật thì chỉ được tiến hành khi có một trong hai căn
cứ sau: (1) Có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm của
một người có cơng cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có
hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án;
và (2) khi cần phát hiện người đang bị truy nã.
Lưu ý: Bộ luật TTHS 2015 (Điều 192) có mở rộng thêm 2 căn cứ: (1) Có
căn cứ nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm của một người có dữ
liệu điện tử liên quan đến vụ án; và (2) Trong trường hợp truy tìm và giải cứu nạn
nhân.
Khi nghiên cứu hồ sơ phải phân loại để xác định: Nếu có căn cứ thì báo cáo
Lãnh đạo viện ra quyết định phê chuẩn. Nếu chưa đủ căn cứ thì u cầu ĐTV
nhanh chóng bổ sung, thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan để khi có đủ tài liệu
chứng minh tính có căn cứ thì trình Lãnh đạo viện phê chuẩn, tránh việc do dự
không kịp thời tạo cơ hội để tội phạm tẩu tán, tiêu hủy tài liệu, chứng cứ có liên
quan. Trường hợp rõ ràng khơng đủ căn cứ khám xét thì báo cáo Viện trưởng, Phó
Viện trưởng được phân cơng hoặc ủy quyền ra quyết định không phê chuẩn.
Lưu ý: Theo quy định tại khoản 3 Điều 142 Bộ Luật TTHS 2003 (ứng với
khoản 3 Điều 194 BLTTHS 2015) thì có thể tiến hành khám xét mà khơng cần có
lệnh ( chỉ với khám người) bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có
mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ.
- Kiểm sát về thẩm quyền người ra lệnh khám xét, nội dung lệnh khám xét.
Theo quy định của pháp luật thì chỉ có Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT
các cấp có thẩm quyền. Tuy vậy trong trường hợp khẩn cấp, thì có thêm những chủ

thể sau có thẩm quyền ( khoản 2 Điều 141 BLTTHS 2003):
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương;
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,
bến cảng.
Do vậy khi phát hiện Lệnh khám xét được ban hành bởi người khơng có
thẩm quyền thì phải u cầu CQĐT ra quyết định hủy bỏ quyết định đó, và ban
hành Lệnh khác đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung Lệnh phải được ghi đúng, đầy đủ theo mẫu của “Lệnh khám
xét”, hoặc là “ Lệnh khám xét khẩn cấp”. Trong đó phải thể hiện: Họ tên, chức vụ
của người ra lệnh; Căn cứ ban hành lệnh; Các thông tin cá nhân về người bị khám
xét, địa chỉ nơi thực hiện việc khám xét; Tên ĐTV được ủy nhiệm tổ chức thi
hành… Nếu các nội dung trên chưa được ghi hoặc bỏ trống thì phải yêu cầu CQĐT
ghi bổ sung để đảm bảo tính hợp pháp của Lệnh khám xét.
10


Thứ hai: Kiểm sát trình tự, thủ tục, phương pháp khám xét
- Đối với khám người.
Trường hợp trực tiếp kiểm sát thì cần lưu ý ĐTV, Cán bộ điều tra phải:
+ Đọc Lệnh và đưa cho người bị khám xét đọc lệnh đó;
+ Giải thích cho người bị khám xét và những người có mặt ( người chứng
kiến) biết quyền và nghĩa vụ của họ.
+ Yêu cầu người bị khám xét đưa ra các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ
án, nếu họ từ chối hoặc đưa ra không đầy đủ các đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án
thì tiến hành khám xét.
Về phương pháp: Việc khám xét người phải do người cùng giới thực hiện và
có người cùng giới chứng kiến. Nếu phát hiện có vi phạm thì phải yêu cầu ĐTV,
Cán bộ điều tra thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Trường hợp kiểm sát trên hồ sơ: Phải kiểm sát chặt chẽ biên bản khám xét.

Nếu phát hiện có vi phạm trong việc thực hiện trình tự, thủ tục, phương pháp thi
hành lệnh khám xét ( có thể có khiếu nại của người bị khám xét) như: không đọc,
giao lệnh khám xét, khơng giải thích quyền, và nghĩa vụ, có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm của người bị khám xét… thì phải tham mưu cho Lãnh
đạo ban hành văn bản yêu cầu CQĐT bổ sung bản tường trình sự việc của những
người có liên quan đến việc khám xét ( ĐTV, người bị khám xét, người làm
chứng…) từ đó có biện pháp khắc phục vi phạm.
- Đối với khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện.
Trường hợp trực tiếp kiểm sát:
+ Kiểm tra thành phần tham gia khám xét có đủ theo quy định như: người
chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ; đại diện chính quyền xã, phường,
thị trấn; người láng giềng chứng kiến…Trường hợp đương sự và người trong gia
đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét khơng
thể trì hỗn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến.
Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khơng thể trì hỗn nhưng
phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Khi kiểm sát việc khám xét chỗ ở, địa điểm thuộc sở hữu chung, có nhiều
người cùng ở thì phải kiểm sát chặt chẽ, tránh bỏ sót vật chứng hoặc người bị
khám xét lợi dụng sơ hở dịch chuyển vật chứng sang khu vực của chủ sở hữu
chung khác không liên quan đến vụ án. Trong các vụ án về ma túy rất lưu ý với đối
tượng bị khám xét chuyển ma túy từ nơi ở của mình, sang nơi ở của những người
khác trong gia đình ( của bố, mẹ, anh, chị…) khi thấy có dấu hiệu bị khám xét.
+ Khám xét nơi làm việc: thành phần tham gia bắt buộc phải có mặt người
đó, trừ trường hợp khơng thể trì hỗn phải ghi rõ lý do vào biên bản; phải có đại
diện của Cơ quan, Tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến.
+ Khám xét phương tiện: phải có mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý
phương tiện và người chứng kiến. Trường hợp vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do
11



khác mà việc khám xét khơng thể trì hỗn thì phải có hai người chứng kiến. Khi
khám xét có thể mời người có chun mơn liên quan đến phương tiện tham gia.
Lưu ý: khi tiến hành khám xét ( chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện),
những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang khám, không được liên hệ,
trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.
Nếu phát hiện có vi phạm thì phải u cầu ĐTV khắc phục kịp thời, thực
hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp kiểm sát trên hồ sơ: phải kiểm sát chặt chẽ trình tự, thủ tục và
phương pháp thực hiện được ghi trong biên bản. Nếu phát hiện có vi phạm thì phải
tham mưu cho Lãnh đạo đơn vị, ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra có
thẩm quyền khắc phục vi phạm.
Thứ ba: Kiểm sát biên bản khám xét, thu giữ vật chứng
- Trường hợp kiểm sát trực tiếp: Phải yêu cầu ĐTV ghi biên bản đúng theo
mẫu quy định, phản ánh đầy đủ nội dung, diễn biến, trình tự, thủ tục việc khám xét,
thu giữ vật chứng. Đặc biệt ghi lại thái độ chấp hành lệnh khám xét của người bị
khám xét, thái độ hợp tác của gia đình nơi ở, Cơ quan nơi làm việc…Nếu phát hiện
biên bản khơng được ghi đầy đủ thì phải kịp thời yêu cầu ĐTV ghi, hoặc bổ sung
đúng thực tế đã thực hiện.
- Trường hợp kiểm sát trên hồ sơ: cần kiểm sát chặt chẽ hình thức, nội dung,
diễn biến, trình tự, thủ tục và phương pháp thực hiện được ghi trong biên bản.
Nếu phát hiện biên bản không ghi đúng mẫu hoặc không phản ánh đầy đủ
nội dung, diễn biến, trình tự, thủ tục, phương pháp…thì cần yêu cầu CQĐT tiến
hành khám xét bổ sung hoặc yêu cầu ĐTV, Cán bộ điều tra, những người tham gia
khám xét tường trình lại sự việc để đảm bảo tính khách quan của việc khám xét.
Thứ tư: Kiểm sát việc tạm giữ tài liệu, đồ vật khi khám xét.
- Trường hợp kiểm sát trực tiếp: Phải lưu ý yêu cầu ĐTV kịp thời thu giữ
những đồ vật, vật chứng nhất là chất nghi là ma túy và chuyển ngay cho Cơ quan
quản lý có thẩm quyền. Việc niêm phong phải được tiến hành trước mặt chủ sở hữu
đồ vật, người quản lý đồ vật, người chứng kiến, đại diện gia đình, đại diện chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét. Việc tạm giữ đồ vật phải được lập biên

bản với số lượng và giao đúng địa chỉ theo quy định. Nếu phát hiện có vi phạm thì
phải u cầu ĐTV khắc phục kịp thời.
- Trường hợp kiểm sát trên hồ sơ: cần kiểm sát chặt chẽ hình thức, nội dung,
diễn biến, trình tự, thủ tục và phương pháp thực hiện được ghi trong biên bản. Nếu
phát hiện có điểm khơng phù hợp như: khơng mơ tả đúng tình trạng, màu sắc, khối
lượng ma túy bị thu giữ…thì tham mưu cho Lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu
cấu CQĐT có thẩm quyền khắc phục vi phạm.
IV. KỸ NĂNG KIỂM SÁT QUYẾT ĐỊNH TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH VÀ KẾT
LUẬN GIÁM ĐỊNH TRONG CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY

4.1. Khái niệm
12


Trưng cầu giám định trong các vụ án về ma túy là việc Cơ quan tiến hành tố
tụng ra quyết định yêu cầu những cá nhân, Cơ quan có chuyên môn nghiên cứu,
xem xét và kết luận chất thu giữ có phải là chất ma túy khơng. Việc trưng cầu giám
định để xác định chất ma túy là bắt buộc.
Kết luận giám định là văn bản trả lời của Cơ quan chuyên môn về các nội
dung đã trưng cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng. Trong các vụ án về ma túy thì kết
luận giám định chủ yếu phải trả lời được: Chất thu giữ gửi đi giám định có phải là
chất ma túy, loại ma túy, trọng lượng ( khối lượng) ma túy thu giữ.
4.2. Kỹ năng kiểm sát quyết định trưng cầu và kết luận giám định
Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ Luật TTHS 2003, ĐTV, KSV có
quyền tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết. Tuy
nhiên đối với tội phạm về ma túy, thực tế rất hiếm trường hợp giám định có sự
tham gia của KSV mà chủ yếu thực hiện thông qua hồ sơ vụ án. Do vậy, khi kiểm
sát cần lưu ý Quyết định trưng cầu giám định phải do Cơ quan tiến hành tố tụng
ban hành, trong các vụ án về ma túy thì thường do Cơ qua điều tra ban hành. Đây
là văn bản tố tụng nên:

- Về hình thức: phải được lập theo mẫu thống nhất đã quy định.
- Về nội dung: phải đảm bảo:
+ Các căn cứ pháp luật để ra Quyết định trưng cầu.
+ Tên Cơ quan, họ tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định.
+ Tên tổ chức, họ tên người được trưng cầu giám định.
+ Tên và đặc điểm của số ma túy cần giám định: đó là chất ma túy hoặc tiền
chất được thu giữ trong quá trình bắt, khám xét. Cần nêu, mơ tả cụ thể, chi tiết loại,
đặc điểm nhận dạng, màu sắc, kích thước, trạng thái…của chất nghi là ma túy.
+ Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có).
+ Nội dung yêu cầu giám định: Đây là phần quan trọng của Quyết định. Yêu
cầu phải cụ thể, rõ ràng và có tính khả thi.
Nội dung phải làm rõ được: mẫu gửi giám định có phải là chất ma túy, tiền
chất; loại chất ma túy, tiền chất; trọng lượng (khối lượng) của mẫu gửi giám định.
Chỉ riêng đối với các trường hợp (4 trường hợp) theo quy định tại Thơng Tư liên
tịch số 08 thì mới buộc phải trưng cầu giám định về hàm lượng để xác định trọng
lượng chất ma túy.
Nếu Quyết định trưng cầu không đầy đủ các nội dung trên, thì tham mưu
cho Lãnh đạo đơn vị ban hành văn bản yêu cầu CQĐT có thẩm quyền khắc phục vi
phạm bằng việc thay đổi lại quyết định, hoặc tiến hành giám định bổ sung.
+ Thời gian giám định và thời hạn trả kết quả giám định (kể cả giám định bổ
sung và giám định lại). Bộ Luật TTHS 2003 không quy định, nhưng BLTTHS
2015 ( Điều 208 và khoản 2 Điều 213) đã có quy định cụ thể, theo đó thời hạn
giám định đối với chất ma túy là không quá 9 ngày. Tuy nhiên vì Bộ luật TTHS
13


2015 chưa có hiệu lực, nên cần chú ý thời hạn trả kết luận mà Cơ quan điều tra đã
ghi trong quyết định để đảm bảo việc xử lý vụ án.
Bộ luật TTHS 2015 quy định thời hạn gửi quyết định trưng cầu là 24 giờ kể
từ khi ra quyết định, nhưng Bộ luật TTHS 2003 không quy định, nên phải chủ

động phối hợp với ĐTV nắm được kế hoạch cũng như yêu cầu CQĐT chuyển
Quyết định trưng cầu để thực hiện việc kiểm sát. Nếu phát hiện vật chứng đã được
thu giữ nghi là chất ma túy nhưng CQĐT chưa trưng cầu giám định, thì kịp thời
báo cáo Lãnh đạo đơn vị để ra văn bản yêu cầu CQĐT trưng cầu giám định, trong
trường hợp cần thiết đối với vụ việc phức tạp thì KSV tham dự giám định, nhưng
phải báo trước cho người giám định theo đúng quy định.
V. KỸ NĂNG KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG VÀ TRỰC TIẾP HỎI CUNG
BỊ CAN TRONG CÁC VỤ ÁN MA TÚY

5.1. Khái niệm
Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự do ĐTV, KSV tiến hành sau khi có Quyết định khởi tố bị can nhằm thu thập các
tình tiết liên quan đến nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết
khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Theo quy định của pháp luật, việc hỏi cung bị can chủ yếu do ĐTV thực
hiện, nhưng với chức năng nhiệm vụ của ngành KSND thì hoạt động kiểm sát việc
hỏi cung bị can sẽ được diễn ra trong cả quá trình điều tra, truy tố đối với vụ án về
ma túy. Có thể phân định như sau:
5.2. Kỹ năng kiểm sát qua biên bản hỏi cung
Đây là biện pháp thường hay thực hiện nhất, là hoạt động kiểm sát chủ yếu.
Khi kiểm sát cần chú ý:
- Kiểm sát về trình tự, thủ tục, hình thức
+ Có được lập theo đúng biểu mẫu quy định khơng;
+ Chủ thể thực hiện có đúng là ĐTV được Thủ trưởng CQĐT phân công;
+ Việc ghi ngày, giờ, địa điểm thực hiện hoạt động hỏi cung;
+ Các thông tin về căn cước lai lịch của bị can như: Tên, tuổi, quê quán, dân
tộc, nghề nghiệp…có thống nhất với danh, chỉ bản, hoặc với các biên bản hỏi cung,
các văn bản tố tụng khác như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản
bắt khẩn cấp, Lệnh tạm giam…vì thực tế trong các vụ án ma túy, người có hành vi
phạm tội thường cố tình khai báo gian dối để che dấu hoặc có khi là do việc dịch

tên từ tiếng dân tộc, ra tiếng việt hoặc do cách phát âm…hoặc sử dụng ngày âm
ngày dương lịch, hoặc lấy ngày, tháng, năm sinh của anh em trong gia đình.
+ Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can, nhất là ở những bản cung
đầu khi mới được tống đạt quyết định và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
+ Về hình thức biên bản, như: sử dụng một màu mực, việc ký xác nhận nội
dung bị tẩy xóa, gạch bỏ phần giấy trắng còn thừa, đọc lại biên bản hỏi cung trước
khi kết thúc buổi hỏi cung.
14


Nếu phát hiện thấy có những thiếu sót thì cần phải trao đổi với ĐTV để khắc
phục ngay ( VD như khi phát hiện biên bản có dấu hiệu bổ sung để hợp lý hóa nội
dung nào đó thì phải yêu cầu ĐTV giải thích và gặp trực tiếp bị can để xác định
biên bản hỏi cung đó có phải là kết quả của một buổi hỏi cung thực sự hay khơng,
nội dung trong biên bản hỏi cung có chính xác không.
- Kiểm sát về nội dung của biên bản hỏi cung
+ Nội dung của biên bản hỏi cung phải phản ánh được: diễn biến về hành vi
phạm tội của bị can, quá trình thực hiện hành vi phạm tội, thực hiện một mình hay
có đồng phạm, trước khi thực hiện hành vi phạm tội thì có sự bàn bạc, thống nhất
về phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm và che dấu hành vi phạm tội hay
không. Ma túy loại gì, đặc điểm nhận biết ra sao, cách thức bao gói, số lần thực
hiện hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm cụ thể của từng lần thực hiện hành vi
phạm tội…
Nếu phát hiện thấy mâu thuẫn trong lời khai của bị can với các bị can, đối
tượng khác, những vấn đề chưa được làm rõ nhất là về hành vi phạm tội của bị can,
những vấn đề đã được KSV đề ra trong yêu cầu điều tra rồi, mà ĐTV vẫn chưa
thực hiện thì phải tiếp tục đề ra yêu cầu điều tra, trong đó nêu lại cả những nội
dung đã yêu cầu chưa thực hiện và nội dung yêu cầu mới gửi cho ĐTV thực hiện.
7.3. Kỹ năng kiểm sát trực tiếp hoạt động hỏi cung của Điều tra viên.
Khi kiểm sát trực tiếp hoạt động hỏi cung của ĐTV phải nhận thức rõ về vị

trí, vai trị của KSV, để khơng làm thay nhiệm vụ của ĐTV. Chỉ đặt câu hỏi khi
ĐTV đã hỏi xong mà còn những vấn đề cần làm rõ, những vấn đề còn mâu thuẫn
hoặc những vấn đề còn bỏ ngỏ… do vậy cần lưu ý:
- Công tác chuẩn bị:
+ Nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu, xác định cụ thể những vấn đề cịn chưa rõ,
có mâu thuẫn, hoặc đã có manh mối nhưng còn bỏ ngỏ cần phải tiếp tục đấu tranh
với bị can.
+ Nắm chắc nội dung diễn biến của vụ án, loại ma túy thu giữ, khối lượng,
các đặc điểm về tang vật; thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội và phương thức che
dấu tội phạm của bị can.
+ Nắm chắc thông tin về lai lịch của bị can; các mối quan hệ gia đình, xã
hội, quan hệ với các đối tượng khác trong đường dây tội phạm về ma túy, nhất là
các thông tin đặc biệt, có ý nghĩa mở rộng vụ án.
+ Chủ động trao đổi với điều tra viên về kế hoạch, nội dung, phương pháp
tiến hành hỏi cung, nhất là trong các trường hợp bị can chối tội, kêu oan…
+ Các tình huống khi có luật sư tham gia, và đặt câu hỏi đối với bị can.
+ Việc mời người phiên dịch, người giám hộ tham gia buổi hỏi cung.
- Nội dung tiến hành trực tiếp kiểm sát việc hỏi cung:
+ Quan sát khơng gian nơi tiến hành hỏi cung, chọn vị trí ngồi phù hợp để có
thể quan sát được tồn bộ hoạt động hỏi cung.
15


+ Kiểm sát việc kiểm tra lý lịch, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can.
+ Kiểm sát việc xác định tình trạng sức khỏe bị can trước khi lấy lời khai.
+ Kiểm sát việc giải quyết các đề nghị của bị can.
+ Quan sát thái độ của ĐTV, phương pháp hỏi cung, cách đặt câu hỏi…
+ Nội dung hỏi có tập trung vào những vấn đề cần chứng minh trong vụ án.
+ Lưu ý, với trường hợp buổi hỏi cung được thực hiện ghi âm, ghi hình có
âm thanh, thì phải được thể hiện trong biên bản hỏi cung.

7.4. Kỹ năng hỏi cung bị can của Kiểm sát viên
Việc hỏi cung bị can của KSV thường diễn ra khi vụ án đã kết thúc giai đoạn
điều tra, hồ chính vụ án đã được chuyển sang Viện kiểm sát. Khác với hoạt động
kiểm sát hỏi cung thông qua biên bản hỏi cung hoặc kiểm sát trực tiếp hoạt động
hỏi cung của ĐTV, việc hỏi cung ở giai đoạn này chỉ mang tính chất kiểm tra lại
chứng cứ, bổ sung những vấn đề mà ĐTV cịn để sót chưa được hỏi, giải quyết triệt
tiêu những mâu thuẫn còn lại trong giai đoạn điều tra, tìm hiểu nguyên nhân vì sao
bị can lại kêu oan, lại chối tội trong khi trong hồ sơ đã có đầy đủ những chứng cứ
để buộc tội với bị can, hoặc khi KSV có căn cứ để nghi ngờ về tính khách quan,
tính trung thực trong lời khai của bị can… Khi thực hiện cần cú ý:
- Công tác chuẩn bị:
+ Nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định những
vấn đề cần phải tiếp tục hỏi để khẳng định lại, những vấn đề nào còn mâu thuẫn
cần phải làm rõ, những chi tiết nào có liên quan nhưng ĐTV chưa hỏi đến.
+ Xây dựng kế hoạch và nội dung cụ thể, đưa ra hệ thống những câu hỏi cụ
thể, câu hỏi trước, sau…
+ Nắm bắt nhân thân, lai lịch thái độ tâm lý của bị can… dự kiến các tình
huống phản ứng của bị can có thể xảy ra.
+ Xây dựng các phương án, phương pháp hỏi trong từng trường hợp cụ thể.
Chuẩn bị các tài liệu để đấu tranh, bác bỏ các lời khai bất hợp lý, không đúng sự
thật của bị can.
+ Thông báo cho người đại diện hợp pháp, người giám hộ hoặc luật sư của
bị can, người phiên dịch… hoặc mời ĐTV tham gia trong các trường hợp đặc biệt.
- Nội dung thực hiện:
+ Xác định vị trí cơng việc là người trực tiếp hỏi cung bị can.
+ Thực hiện đầy đủ các thủ tục như kiểm tra căn cước lai lịch bị can, tình
hình sức khỏe, giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của bị can, giải quyết các đề
nghị của bị can; giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia cùng (nếu
có) như người giám hộ, người phiên dịch, luật sư…
+ Giữ thái độ nghiêm nghị, tác phong đĩnh đạc, cách đặt câu hỏi từ tốn rõ

ràng ( lưu ý không để lộ cho bị can biết ý định hoặc nội dung các câu hỏi sẽ được
16


hỏi). Cần giữ thái độ bình tĩnh, tránh nóng giận hoặc có lời lẽ thiếu văn hóa với bị
can.
+ Sử dụng linh hoạt các phương pháp hỏi, không để quá lệ thuộc vào đề
cương có sẵn, nhưng vẫn đảm bảo được nội dung, kế hoạch đã đề ra.
+ Khi có tình tiết mới, như bị can khai báo thêm đồng phạm, thêm hành vi
phạm tội thì cần phải ghi nhận rõ ràng, cụ thể, chi tiết như: lý do bị can biết; biết
trực tiếp hay là chỉ nghe thấy, nhìn thấy, nghe kể lại…trong trường hợp này phải
yêu cầu bị can viết bản tự khai và ký xác nhận.
+ Khi hỏi cung phải quan sát và đánh giá về thái độ tâm lý của bị can đối với
từng vấn đề được hỏi.
+ Khi hỏi cung xong, phải hoàn thiện biên bản, chốt thời gian kết thúc, đọc
lại toàn bộ nội dung biên bản cho bị can nghe, hoặc để cho bị can tự đọc lại. Trong
trường hợp có người phiên dịch, người giám hộ, luật sư…thì phải cho họ xem lại,
nếu tất cả mọi người đều đồng ý thì thực hiện việc ký xác nhận vào từng trang biên
bản; nếu có ý kiến đề nghị sửa chữa hoặc bổ sung nội dung vào biên bản thì cũng
phải ghi rõ vào biên bản, đưa ra ý kiến chấp nhận hay không chấp nhận, tất cả
những nội dung bị tẩy, xóa, bổ sung đều phải được bị can và những người tham gia
ký xác nhận vào biên bản; trường hợp bị can khơng biết chữ thì phải cho điểm chỉ.
VI. Một số kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng THQCT và KSXXST
án ma túy
1. Việc nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn THQCT, KSXXST
Muốn nâng cao năng lực của KSV thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa xét
xử sơ thẩm án ma túy, thì cơng việc đầu tiên mang tính chất quyết định là KSV
tham gia phiên tòa phải trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án; Lập hồ sơ kiểm sát và
thực hiện đầy đủ các thao tác nghiệp vụ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử theo đúng quy
định. Cơng tác chuẩn bị càng tốt thì hiệu quả của KSV tại phiên tòa đạt càng cao.

- Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án KSV phải trích cứu các chứng cứ của vụ án
như lời khai của bị cáo, người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ liên quan
khác, xem xét kỹ các chứng cứ xác định tội phạm, tính chất, mức đội tội phạm,
năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo; các chứng cứ gỡ tội; các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, lưu ý xác định chính xác tuổi của bị cáo
là người chưa thành niên phạm tội. Từ đó, có cơ sở để đánh giá một cách tổng hợp
tính có căn cứ của cáo trạng, mặt khác cịn làm cơ sở, căn cứ chuẩn bị cho việc
tranh tụng tại phiên tòa.
- Nghiên cứu kỹ hồ sơ để phát hiện những thiếu sót trong cơng tác điều tra,
thu thập chứng cứ. Nếu phát hiện hồ sơ không đủ các chứng cứ hoặc vi phạm thủ
tục tố tụng thì phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung để đảm bảo nội dung truy tố
của cáo trạng. Đồng thời KSV phải đánh giá tính chất vụ án, tính chất hành vi
phạm tội, thủ đoạn, mục đích động cơ phạm tội, mức độ hậu quả gây ra, các tình
tiết giảm nhẹ, nguyên nhân điều kiện phạm tội, nhân thân của bị cáo, vai trò của

17


từng bị cáo trong vụ án có đồng phạm, có tổ chức để đánh giá chính xác các chứng
cứ, từ đó có cơ sở đề xuất xử lý đúng đắn theo đúng quy định của pháp luật.
- KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để tìm ra những vấn đề còn mâu
thuẫn, những điểm chứng cứ yếu, nếu bị can, bị cáo ra tòa phản cung chối tội thì
các chứng cứ đó có đủ để buộc tội khơng? cần phải củng cố, chuẩn bị những tài
liệu nào để buộc tội bị cáo... Chuẩn bị các tài liệu khác có liên quan đến việc kết
tội bị cáo và giải quyết vụ án.
Hồ sơ kiểm sát phải được lập theo đúng quy định của ngành, các tài liệu,
chứng cứ được trích cứu, sao chụp đầy đủ, có ghi rõ bút lục theo hồ sơ chính để
khi đối đáp tranh luận có thể nêu rõ bút lục của tài liệu trong hồ sơ chính, nâng cao
tính thuyết phục trong lập luận đối đáp, tranh luận.
2. Việc xây dựng đề cương xét hỏi theo trình tự sơ thẩm

Theo quy định tại khoản 3 Điều 209 BLTTHS “ KSV hỏi về những tình tiết
của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo”. Như vậy khi thực hành quyền
công tố tại phiên tịa xét xử sơ thẩm, thì địi hỏi KSV phải chủ động xét hỏi. Đó
khơng chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của KSV khi thực hành quyền cơng tố tại
phiên tịa. Việc xét hỏi tại phiên tòa làm cho những luận điểm trong cáo trạng được
chứng minh công khai, và là tiền đề cho việc luận tội của KSV có tính thuyết phục
trong phiên tịa sơ thẩm.
Khi xây dựng kế hoạch xét hỏi cần gắn liền với xây dựng kế hoạch tranh
luận tại phiên tòa, chuẩn bị các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn thi hành
pháp luật của các Cơ quan chức năng có liên quan đến việc xác định tội danh, điều
luật, khoản để áp dụng hình phạt; trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án để chủ động đối đáp, tranh luận.
- KSV cần có một bản đề cương xét hỏi, nhất là đối với các vụ án phức tạp,
có nhiều bị cáo, bị truy tố về nhiều tội khác nhau; nội dung xét hỏi đối với từng
người.
Thông qua hoạt động kiểm sát điều tra, nghiên cứu hồ sơ vụ án, việc phúc
cung bị can, KSV cần dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tịa như việc
bị cáo chối tội, phản cung, những người tham gia tố tụng khác ( người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng…) có thể khai tại phiên tịa khác với lời
khai lúc trước đã khai trong hồ sơ vụ án, thì phải chuẩn bị những nội dung, căn cứ
gì để phản bác hoặc chấp nhận.
Trên cơ sở tài liệu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên phải xây dựng dự thảo luận tội
trong đó dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tịa để kết hợp với kết quả
xét hỏi, thẩm tra chứng cứ tại phiên tịa nhằm phân tích, đánh giá chứng cứ để
chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay khơng, thời gian, địa điểm và các tình
tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay
khơng có lỗi, lỗi cố ý hay vơ ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng, mục
đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị cáo; tính chất, mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra. Trên cơ sở phân tích, đánh giá chứng cứ phải đưa ra

18


những nhận định thể hiện việc quyết định truy tố ghi trong cáo trạng là hồn tồn
đúng, hoặc có nội dung gì cần phải thay đổi như: Thay đổi tội danh, khung hình
phạt nhẹ hơn; rút một phần hay tồn bộ quyết định truy tố…
Tại phiên tòa Kiểm sát viên cần chủ động tham gia xét hỏi, ghi chép những
tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, những ý kiến đề nghị của bị cáo, người bào
chữa và người tham gia tố tụng khác để bổ sung, sửa chữa kịp thời bản dự thảo
luận tội cho phù hợp với thực tế diễn biến tại phiên tòa.
Khi đối đáp, tranh luận KSV phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ của vụ án
đã được xét hỏi thẩm tra tại phiên tòa, và dựa vào các căn cứ pháp luật đang có
hiệu lực thi hành, vận dụng đầy đủ, chính xác những kiến thức của mình về BLHS,
BLTTHS để tranh luận. Đồng thời, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể để vận dụng
linh hoạt. KSV phải tập trung tư tưởng theo dõi diễn biến phiên tịa, tích cực tham
gia xét hỏi đấu tranh làm rõ các chứng cứ buộc tội, ghi chép đầy đủ câu hỏi của
người bào chữa, câu trả lời của bị cáo để phán đoán hướng bào chữa của người bào
chữa, của bị cáo, từ đó chuẩn bị ý kiến đối đáp, tranh luận.
Tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa xét xử
sơ thẩm hình sự, chính là việc tranh luận tại phiên tịa, việc trình bày luận tội bảo
đảm chính xác phù hợp với pháp luật và có tính thuyết phục. Giọng nói là phương
tiện quan trọng nhất trong q trình thực hiện việc luận tội, do vậy KSV thực hành
quyền cơng tố tại phiên tịa phải sử dụng phương pháp nói có sức truyền cảm, làm
cho người nghe cảm thấy bị lôi cuốn hướng vào những nội dung do KSV trình bày.
Có như vậy mới đảm bảo thực hiện tốt việc tranh tụng, và nâng cao chất lượng
THQCT của KSV tại phiên tịa xét xử sơ thẩm hình sự.
Trên đây là một số kỹ năng, kinh nghiệm về công tác THQCT, KSĐT và
KSXXST các vụ án hình sự về ma túy, xin được giới thiệu để các đồng chí nghiên
cứu, tham khảo, vận dụng trong thực tiễn công tác. Rất mong nhận được sự đóng
góp, bổ sung để kỹ năng nghiệp vụ kiểm sát trong lĩnh vực án ma túy ngày càng

hồn thiện hơn.
KT. VIỆN TRƯỞNG
PHĨ VIỆN TRƯỞNG

Nguyễn Tuấn Thảo

19



×