HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRI
Tên đề án:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
HÀ NỘI - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong đề án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đúng quy định. Đề án này phù hợp
với vị trí, chức vụ, đơn vị công tác của tôi và chưa
được triển khai thực hiện trong thực tiễn.
Tác giả
Tạ Hữu Huy
ii
MỤC LỤC
Trang
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do lựa chọn đề án
1.2. Mục tiêu của đề án
1.3. Nhiệm vụ của đề án
1.4. Giới hạn của đề án
1
1
3
3
3
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. Căn cứ xây dựng đề án
2.2 Nội dung cơ bản của đề án
2.3. Tổ chức thực hiện đề án
2.4. Dự kiến hiệu quả của đề án
5
5
13
22
27
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị với các tổ chức và cá nhân để thực hiện đề án
28
28
29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
30
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật Tố tụng hình sự
KSND
:
Kiểm sát nhân dân
KSV
:
Kiểm sát viên
VKS
:
Viện kiểm sát
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ ÁN
Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn cơ quan cấu thành nên bộ máy
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế định về Viện kiểm sát
nhân dân là một đặc điểm riêng có của kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo
sáng kiến vĩ đại của V.I Lênin. Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy Nhà
nước, thời gian qua Ngành Kiểm sát đã không ngừng trưởng thành và lớn
mạnh. Từ khi ra đời ngày 26/7/1960 đến năm 2001, Viện kiểm sát nhân dân là
cơ quan duy nhất trong bộ máy Nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Từ năm 2002 đến nay, chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân đó là: “thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp”. Chức năng này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 107 Hiến
pháp năm 2013.
Từ khi ra đời đến nay, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân đã phát huy
được vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức năng của mình, góp phần vào công
cuộc bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích bảo vệ và xây
dựng thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, duy trì và ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hội nhập khu vực và quốc tế.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội theo cơ chế thị
trường ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, kéo theo đó là tình hình tội phạm
gia tăng ở các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đứng trước những đòi hỏi và yêu
cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, việc
nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó
có Viện kiểm sát nhân dân là một trong những nội dung quan trọng được thể
hiện ở nhiều Nghị quyết của Đảng trong thời gian qua, cụ thể: Chỉ thị số 53CT ngày 21/3/2000; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/32014 của
Bộ Chính trị. Với mục tiêu không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội, Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh:
2
Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng khác…việc phán quyết của Hội đồng xét xử phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào
chữa, bị cáo để banh hành những bản án, quyết định đúng pháp luật
có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [4].
Thực tiễn đã chứng minh, trong thời gian qua ngành Kiểm sát trong đó
có Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự. Qua đó góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm, bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của Ngành Kiểm sát vẫn
còn những hạn chế nhất định, phần nào đó chưa đáp ứng được yêu cầu của xã
hội và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Một số nguyên nhân chính có thể
nêu ra đó là: Chính sách hình sự, các quy định về tố tụng hình sự trong giai
đoạn xét xử còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi bổ sung; Việc chuẩn bị hồ
sơ tài liệu, luận tội, đề cương xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa còn chưa
được chú trọng; hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên với Luật sư, người
bào chữa và những người tham gia tố tụng trong vụ án còn hạn chế.
Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với một người để đưa ra Tòa xét xử
phải đảm bảo các điều kiện theo luật định, phải đảm bảo tính có căn cứ, đảm
bảo đúng quy định của pháp luật (pháp luật hình sự và tố tụng hình sự). Nếu
như điều tra thiếu chứng cứ hoặc chứng cứ không rõ ràng, không chính xác,
không được thu thập một cách hợp pháp hoặc với con người cụ thể và hành vi
cụ thể của họ không cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự
thì không thể bị truy tố xét xử.
Trong quá trình tố tụng đối với một vụ án hình sự thì mỗi giai đoạn giữ
vị trí, vai trò quan trọng khác nhau. Ví dụ để xét xử đúng người, đúng tội thì
trước hết việc điều tra phải đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật. Tuy nhiên,
việc điều tra theo pháp luật mới chỉ là một giai đoạn đầu, việc có kết tội bị cáo
hay không phải được tiến hành tại phiên tòa. Kết quả điều tra, xét hỏi, tranh
3
tụng tại phiên tòa là căn cứ, là cơ sở để kết tội bị cáo. Do vậy, việc thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Kiểm sát viên là rất
quan trọng, đây là khâu quyết định của hoạt động tố tụng để Kiểm sát viên đề
nghị Hội đồng xét xử ban hành bản án, quyết định đúng pháp luật. Từ những
lý do nêu trên, học viên chọn và thực hiện đề án “Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của kiểm
sát viên viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La” làm đề án
tốt nghiệp là vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
Trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn
của việc bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời
nghiên cứu thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La từ năm 2011 đến hết năm 2015, qua đó đề ra giải
pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La giai đoạn hiện nay.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ các khái niệm, những yếu tố bảo đảm và tiêu chí đánh
giá chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
- Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
- Đối tượng: Đề án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về công
tố, thực hành quyền công tố, chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
4
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
thực trạng, một số giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
- Phạm vi: Đề án tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
- Về không gian: Đề án tập trung nghiên cứu trong phạm vi không gian
là cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
- Về thời gian: Đề án nghiên cứu về mặt thực tế chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; đồng thời
đưa ra các giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021.
5
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1. Căn cứ khoa học, lý luận của đề án
* Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà
nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công
tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các kiểu
Nhà nước hiện đại ngày nay. Nó là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản
chất giai cấp của từng kiểu Nhà nước, là một bộ phận không thể tách rời khỏi
công quyền. Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý xã hội, điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị
sử dụng bộ máy Nhà nước để chuyên chính đối với giai cấp đối kháng trong
xã hội, nhằm củng cố quyền lực chính trị, lợi ích kinh tế, duy trì và ổn định
trật tự xã hội. Những hành vi và việc làm trái với ý chí của giai cấp thống trị,
gây thiệt hại đến lợi ích của giai cấp thống trị, xâm phạm đến trật tự xã hội
đều bị coi là hành vi vi phạm và bị pháp luật trừng trị. Quyền trừng trị đó nằm
trong tay Nhà nước mà không một tổ chức hay cá nhân nào thay thế được.
Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1994
tại các trang 200, 204, 973 thì: “Công” có nghĩa là thuộc về Nhà nước chung
cho mọi người, khác với “tư”. Còn “tố” nghĩa là công khai cho mọi người biết
việc làm sai trái, phạm pháp của người khác. “Công tố” là điều tra, truy tố,
buộc tội người phạm tội và phát biểu ý kiến trước Tòa án. Đây là một khái
niệm rộng, bao gồm bốn nội dung: Điều tra, truy tố, buộc tội người phạm tội
và phát biểu trước Tòa án.
Theo Từ điển luật học ghi: “Công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” [42, tr.188].
Để hiểu cũng như đưa ra được khái niệm đúng và đầy đủ về quyền công
tố, chúng ta phải đặt nó trong một chỉnh thể và xem xét nó trong mối liên hệ
với tính đặc thù của một ngành luật, một lĩnh vực pháp luật. Đối với ngành
luật tố tụng hình sự, luôn luôn tồn tại ba chức năng cơ bản, cụ thể: Chức năng
buộc tội (kết quả điều tra xác minh hành vi phạm tội), Chức năng bào chữa
6
(gỡ tội) và chức năng xét xử. Với tư cách là một chức năng tố tụng, được quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm chống lại một cá nhân cụ thể thực
hiện hành vi phạm tội, chức năng buộc tội thực chất là hoạt động truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Trong chức năng buộc tội, hình
thức buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực công) giữ vai trò
chính, trung tâm của hoạt động tố tụng, nó thu hút hoạt động của tất cả các
chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng. Khi nói đến chức năng nhiệm vụ
cũng như vị trí, vai trò của Công tố viên, các Nhà làm luật nước ngoài
thường gọi họ là “người buộc tội nhân danh Nhà nước” được dịch ra tiếng
Việt là “Công tố”.
Từ những phân tích, nhận định và đánh giá nêu trên, chúng ta có thể
rút ra được khái niệm quyền công tố: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền
lực Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và bảo vệ quan điểm truy tố tại
phiên tòa.
* Khái niệm thực hành quyền công tố
Việc xác định khái niệm quyền công tố và tiếp đó là thực hành quyền
công tố có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, nó không chỉ giúp chúng ta
phân định rõ ràng, đúng chức năng nhiệm vụ, cũng như vị trí vai trò của
VKSND trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và trong mối quan hệ
giữa các cơ quan tư pháp nói riêng mà còn giúp cho việc nhận thức được
thống nhất, qua đó giúp cho công tác thực tiễn đạt được kết quả cao hơn. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tích cực
triển khai và thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.
Việc Cơ quan điều tra, VKS thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, Tòa án
chỉ có quyền khởi tố vụ án và đề nghị VKS khởi tố vụ án tại phiên tòa khi
phát hiện có tội phạm mới, cơ quan điều tra bắt người phạm tội, thu thập
chứng cứ…thực chất chỉ là những hoạt động hỗ trợ, phục vụ công tác công tố.
Trước cơ sở kết quả điều tra, lời luận tội của Kiểm sát viên và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Tòa án áp dụng căn cứ pháp luật để quy kết trách nhiệm
đối với bị cáo. Bản án của Tòa án chính là sự chấp nhận hoặc không chấp
nhận buộc tội của Viện kiểm sát đối với người phạm tội.
7
Trên cơ sở những nhận định và đánh giá nêu trên, có thể đưa ra khái
niệm thực hành quyền công tố: Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm
sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội trong các giai đoạn của quá trình tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) hình
sự.
* Khái niệm chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Khái niệm chất lượng là phạm trù rộng và trừu tượng. Về mặt lý luận
cũng như thực tiễn cho thấy, cơ sở của chất lượng chính là quyền và nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật. Nếu chủ thể không có quyền và
nghĩa vụ pháp lý theo quy định thì sẽ không phát sinh việc thực hiện nghĩa vụ
pháp lý. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng việc xác định quyền và nghĩa vụ
của chủ thể chỉ mang tính chất tương đối (định tính), bởi lẽ: có những trường
hợp cùng một quy phạm nếu xét trong mối quan hệ pháp luật này thì quy
phạm pháp luật đó là quyền được thực hiện, nhưng nếu xét trong mối quan hệ
pháp luật khác thì quy phạm pháp luật đó là nghĩa vụ chủ thể phải thực hiện.
Có thể khẳng định: Quyền của chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho
phép chủ thể thực hiện các hành vi theo quy định của pháp luật. Nói theo cách
khác, thì quyền của chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất
định, được pháp luật cho phép hoặc pháp luật không cấm.
Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà các chủ thể bắt buộc phải thực
hiện nhằm đáp ứng yêu cầu của các chủ thể khác theo quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ pháp lý tự nó không phải là hành vi mà chỉ là sự cần thiết phải xử sự
của các chủ thể.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể là hai mặt của một thể thống nhất
mà mỗi chủ thể khi thực hiện nhiệm vụ của mình phải thực hiện đầy đủ và
tích cực, không thể chỉ thực hiện quyền mà không gắn với nghĩa vụ và ngược
lại. Nội dung, đặc điểm và phạm vi của quyền và nghĩa vụ của chủ thể cũng
như biện pháp thực hiện đều do Nhà nước quy định hoặc do các bên tự xác
lập trên cơ sở của pháp luật hiện hành.
8
Như vậy, nội dung chất lượng của KSV trong hoạt động Thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đó là việc thực
hiện đầy đủ, có trách nhiệm những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định cụ
thể như sau:
Trước hết, tại Điều 37 BLTTHS quy định:
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
Tham gia phiên tòa, đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên quan
đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc
luận tội, phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án, tranh luận với
người tham gia tố tụng tại phiên tòa.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa
án, những người tham gia tố tụng và kiểm sát bản án, quyết định của
Tòa án [25].
Điều 18 Luật tổ chức VKSND quy định:
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình
sự, VKSND có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Đọc cáo trạng, quyết định của VKSND liên quan đến việc giải quyết
vụ án tại phiên tòa.
Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm;
tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm.
Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án của VKSND tại phiên
tòa giám đốc thẩm, tái thẩm [26].
Điều 19 Luật tổ chức VKSND quy định:
Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện
KSND có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân.
9
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của những
người tham gia tố tụng.
Kiểm sát bản án và quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp hoặc cấp dưới chuyển hồ sơ
những vụ án hình sự để xem xét quyết định việc kháng nghị [26].
Trên cơ sở những phân tích, nhận định và đánh giá nêu trên có thể đưa ra
khái niệm chất lượng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự như sau: Chất lượng của Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là việc thực
hiện đầy đủ và tích cực nhiệm vụ quyền hạn của KSV được pháp luật quy
định trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự đảm bảo cho việc truy tố xét xử kịp thời, nghiêm minh, theo
đúng quy định của pháp luật.
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
- Các văn bản của Trung ương
Nghị quyết số 08-NQ/TW "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới”
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020”
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công
tác xây dựng đảng (trình bày tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X)
Hiến pháp năm 2013
BLHS 1999 (sửa đổi 2009)
BLHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016
BLTTHS 2003
BLTTHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
Luật Luật sư 2006 (sửa đổi 2012)
- Các văn bản của địa phương
Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu (2011), Báo cáo tổng kết công
10
tác ngành kiểm sát nhân dân năm 2011 phương hướng nhiệm vụ năm 2012.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu (2012), Báo cáo tổng kết công
tác ngành kiểm sát nhân dân năm 2012 phương hướng nhiệm vụ năm 2013.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu (2013), Báo cáo tổng kết công
tác ngành kiểm sát nhân dân năm 2013 phương hướng nhiệm vụ năm 2014.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu (2014), Báo cáo tổng kết công
tác ngành kiểm sát nhân dân năm 2014 phương hướng nhiệm vụ năm 2015.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu (2015), Báo cáo tổng kết công
tác ngành kiểm sát nhân dân năm 2014 phương hướng nhiệm vụ năm 2016.
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
* Khái quát chung về Mộc Châu
- Đặc điểm về tự nhiên
Mộc Châu là huyện miền núi nằm trên cao nguyên đá vôi vùng Tây Bắc
với độ cao trung bình hơn 1.000 m so với mặt nước biển, về hướng Đông nam
của tỉnh Sơn La, có diện tích tự nhiên 2.061 km2. Mộc Châu tiếp giáp với các
khu vực
- Phía Đông và Đông nam giáp tỉnh Hoà Bình.
- Phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Yên Châu.
- Phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá và nước CHDCND Lào với đường biên
giới chung dài 36 km.
- Phía bắc giáp với huyện Phù Yên.
Về vị trí và mối liên hệ trong Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, Mộc
Châu là khu vực có những lợi thế không nhỏ thể hiện ở những điểm sau.
Thứ nhất, Mộc Châu là cửa ngõ đặc biệt quan trọng kết nối Sơn La và
các tỉnh vùng Tây Bắc với Hà Nội và vùng đồng bằng sông Hồng thông qua
quốc lộ 6, đồng thời, Mộc Châu còn có cửa khẩu Quốc gia Lóng Sập thông
với tỉnh Hủa Phăn và cố đô Luông Phra Bang (Luang Prabang) của nước
CHDCND Lào và xa hơn là sang các nước ASEAN như Thái Lan,
Myanmar…. Đối với thủ đô Hà Nội, Lóng Sập là cửa khẩu Quốc gia sang Lào
có khoảng cách ngắn nhất.
11
Thứ hai, Mộc Châu là một trong những điểm nút giao thông quan trọng
trên quốc lộ 6. Từ Mộc Châu có thể kết nối thuận lợi với Sơn La, Hòa Bình,
Lào, Điện Biên, Lai Châu.
Thứ ba, Mộc Châu nằm gần sân bay Nà Sản - Thành phố Sơn La với
khoảng cách không quá xa (hơn 100 km) tương đối thuận tiện cho vận chuyển
khách du lịch. Trong tương lai, khi sân bay Nà Sản được đầu tư nâng cấp mở
rộng sẽ tạo ra cơ hội thuận lợi để Mộc Châu kết nối với các thị trường du lịch
trong nước, khu vực và quốc tế.
- Đặc điểm về dân cư, dân tộc, tôn giáo
Đến năm 2013, sau khi tách một phần diện tích và dân số để thành lập
huyện Vân Hồ, huyện Mộc Châu có diện tích 1.081,66 km² và dân số 104.730
người.
Mật độ trung bình 79 người/km2, với nhiều dân tộc khác nhau trong đó
dân tộc Kinh chiếm 29,4%, Thái 33,2%, Mường 15,8%, Mông 14,6%, Dao
6,2%, Sinh Mun 0,4%, Khơ Mú 0,3%…Dân cư phân bố tại 2 thị trấn và 27
xã. Trong đó dân cư chủ yếu tập trung ở hai thị trấn, các xã còn lại dân số ít,
chủ yếu là người dân tộc thiểu số.
Trước năm 2013, Mộc Châu có 12 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong
đó chiếm đa số là người thái: 33%, người Mông 18%, người kinh 15%, ngoài
ra còn có người Khơ Mú, Dao, Tày...Người Thái có nhiều món ăn đặc sắc,
phong phú, hàng năm các lễ hội Hoa Ban, Hết CHá, Cầu mưa được tổ chức
vào mùa xuân với mong muốn mùa màng bội thu...Vào ngày 30/8-2/9 hàng
năm huyện tổ chức ngày hội văn hóa cho người H'Mong từ các tỉnh miền núi
phía bắc đổ về thị trấn Mộc Châu. Ngày hội là dịp cho các đôi trai gái người
H'Mong có cơ hội tìm hiểu về nhau.
- Đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội
Trong toàn tỉnh Sơn La, vùng Mộc Châu có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhất. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005-2013 đạt 19,74%/năm,
khá cao so với mặt bằng của tỉnh Sơn La. Vùng Mộc Châu có sự phát triển
khá mạnh về sản xuất chế biến sữa, chè, các sản phẩm nông nghiệp, lâm
nghiệp khác và hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch tăng trưởng nhanh.
12
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng
ngành Công nghiệp - Xây dựng và Thương mại - Dịch vụ, giảm tỷ trọng
ngành Nông lâm nghiệp.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người đã có những bước tăng trưởng đáng
kể, năm 2005 mới đạt 9,12 triệu đồng, đến năm 2010 đạt 16,44 triệu đồng và
đến năm 2013 đạt 19,91 triệu đồng.
- Tình hình tội phạm ở Mộc Châu
Với vị trí địa lý, tình hình kinh tế, văn hoá - xã hội như trên của huyện
Mộc Châu, tình hình vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội ở Mộc Châu trong
những năm gần đây có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Mộc
Châu vốn là địa bàn phức tạp về tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy. Các
đối tượng lợi dụng địa bàn này để mua bán, vận chuyển trái phép chất ma
túy về các tỉnh miền xuôi tiêu thụ. Chúng hoạt động với những thủ đoạn
hết sức tinh vi, xảo quyệt, sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng chống trả lực lượng
thi hành công vụ.
Tình hình tội phạm tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý cho đến nay
vẫn diễn biến phức tạp, xu hướng chuyển từ mua bán thuốc phiện sang heroin,
ma tuý tổng hợp, ma túy đá ngày càng tăng. Kinh tế của người dân chậm phát
triển, sản xuất vẫn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Sản phẩm lao động chưa đủ
trang trải đời sống hàng ngày của người dân. Do kinh tế khó khăn cộng với
trình độ dân trí kém phát triển, không ít đồng bào dân tộc ít người đã bị những
đối tượng xấu lợi dụng thuê, dụ dỗ, ép vào con đường tội phạm, đặc biệt là tội
phạm về ma túy trong thời gian vừa qua và cũng có một bộ phận người dân
tộc thiểu số thấy lợi nhuận của ma túy nên đã tham gia tích cực, chủ mưu cầm
đầu nhiều đường dây ma túy lớn, đường dây xuyên quốc gia, như: đường dây
ma túy do Đặng Văn Ấu - người dân tộc Dao, Giàng A Tàng (Tàng
Kengnam) - người dân tộc Mông,…Tuy nhiên, đồng bào các dân tộc sinh
sống ở miền núi nói chung vốn có bản chất thật thà, sống chân thật, thẳng
thắn... nên trong nhiều trường hợp các đối tượng người dân tộc phạm tội do
nhận thức sai lầm, hoặc do được thuê mướn thì khi bị phát hiện, bắt giữ họ đã
thành khẩn khai báo giúp đỡ lực lượng phòng, chống tội phạm ma túy bắt giữ
13
đối tượng chủ mưu, cầm đầu và triệt phá thành công nhiều đường dây tội
phạm ma tuý liên tỉnh, xuyên quốc gia.
Để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm hình sự, lực lượng cảnh sát điều
tra tội phạm về TTXH Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành rà
soát các đối tượng, nắm chắc tình hình cơ sở và xác định những địa bàn phức
tạp liên quan đến hoạt động của tội phạm, nhất là tội phạm trộm cắp, mua bán
người; tăng cường các biện pháp nghiệm vụ, tuần tra, kiểm soát trên các tuyến
đường, tụ điểm phức tạp liên quan đến mất ANTT; Chủ động phòng ngừa và
đấu tranh với đối tượng tội phạm nguy hiểm, góp phần kiềm chế sự gia tăng
các loại tội phạm trên địa bàn. Tính đến tháng 10 năm 2014, Công an huyện
Mộc Châu đã điều tra khám phá làm rõ 86 vụ, 155 đối tượng phạm tội về
TTXH, trong đó có những vụ việc phức tạp, xảy ra trong thời gian dài, đã
mang lại niềm tin trong quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Công an huyện
Mộc Châu còn phối hợp với các ngành chức năng tổ chức những buổi tuyên
truyền, ký cam kết, vận động quần chúng nhân dân chấp hành nghiêm những
chính sách của pháp luật về đảm bảo ANTT trên địa bàn. Để công tác đấu
tranh với tội phạm trên địa bàn huyện Mộc Châu tiếp tục phát huy hiệu quả,
bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của lực lượng công an; Các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp và người dân trên địa bàn huyện cần nâng cao tinh thần cảnh
giác với phương thức, thủ đoạn của tội phạm, có phương án tự bảo vệ tài sản;
Đồng thời tích cực tham gia tố giác tội phạm và tăng cường công tác phối hợp
với lực lượng Công an trong công tác phòng ngừa và đấu tranh với các loại tội
phạm góp phần đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
2.2.1. Thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân
dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
2.2.1.1. Những kết quả đạt được
Theo báo cáo tổng kết công tác của Viện KSND huyện Mộc Châu, số vụ
án đã xét xử sơ thẩm án hình sự trong thời gian 05 năm (2011- 2015) là: 1065
vụ/1695 bị can, trong đó các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định được 26
vụ án xét xử theo cải cách tư pháp và 148 vụ án xét xử lưu động tại các địa
14
bàn có “điểm nóng” về tội phạm. Qua công tác xét xử lưu động đã phục vụ tốt
được nhiệm vụ chính trị tại địa phương, góp phần phổ biến và tuyên truyền
giáo dục pháp luật đến đông đảo quần chúng Nhân dân trên địa bàn.
15
Bảng 2.1: Tổng số vụ án, bị cáo Kiểm sát viên đã tham
gia thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử sơ thẩm
trong thời gian 05 năm (2011 - 2015)
THỐNG KÊ ÁN HÌNH SỰ THEO GIỚI TÍNH
Năm
Vụ
Bị cáo
2011
262
2012
2013
2014
2015
Tổng số
270
212
150
171
1.065
Ghi chú
Giới tính
406
Nam
368
Nữ
38
429
340
286
234
1.695
387
309
251
218
1.533
42
31
35
16
162
THỐNG KÊ ÁN HÌNH SỰ THEO MỨC ÁN
Mức án
Ghi chú
Từ 3
Trên 7
Dưới 3 năm đến năm đế
Năm
Vụ
Bị cáo
năm
dưới 7
dưới 15
năm
năm
2011
262
406
265
68
73
2012
270
429
306
64
59
2013
212
340
224
66
50
2014
150
286
198
49
39
2015
171
234
160
34
40
Tổng số
1.065
1.695
1.153
281
261
Nguồn: Báo cáo, thống kê nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La các năm 2011 đến 2015.
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự, KSV VKSND huyện Mộc Châu đã phát hiện nhiều vi phạm trong
việc áp dụng pháp luật, áp dụng hình phạt không đúng với tính chất và nhân
thân của bị cáo, áp dụng các biện pháp tư pháp không phù hợp,… KSV đã đề
xuất đến lãnh đạo VKS ban hành được 02 kháng nghị xét xử phúc thẩm, 13
kiến nghị và 07 thông báo rút kinh nghiệm đối với Tòa án và VKS, khắc phục
những vi phạm, thiếu sót tồn tại trong công tác xét xử sơ thẩm.
16
Đặc biệt trong thời gian 05 năm (2011 - 2015) không xảy ra án oan sai,
không bỏ lọt tội phạm. Không có vụ án nào Tòa án tuyên không phạm tội.
Đây là chất lượng xét xử đáng mừng đối với các cơ quan tư pháp của huyện
Mộc Châu nói chung và Viện KSND huyện Mộc Châu nói riêng.
Kết quả chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
các vụ án hình của Kiểm sát viên Viện KSND huyện Mộc Châu còn được
được thể hiện trên các hoạt động cụ thể:
Thứ nhất, về nghiên cứu hồ sơ vụ án
Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để phục vụ công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tạo điều kiện cho KSV nắm chắc nội dung,
các chứng cứ tài liệu của vụ án, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không oan sai và không bỏ lọt tội phạm. Trong những năm
qua, KSV VKSND huyện Mộc Châu đã nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng của việc nghiên cứu hồ sơ vụ án. Do vậy, trước khi giữ quyền công tố
tại phiên tòa, KSV được giao nhiệm vụ đã chủ động nghiên cứu, nắm chắc hồ
sơ vụ án, thủ tục tố tụng,…chặt chẽ. Đã thực hiện tốt các thao tác nghiệp vụ
theo quy định tại Điều 13 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử hình sự, cụ thể như: Thực hiện việc lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu hồ
sơ vụ án, đưa ra các quan điểm đề xuất lãnh đạo viện về các chứng cứ buộc
tội, chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,…
điều khoản áp dụng và mức hình phạt tương ứng với hành vi và tích chất mức
độ và người phạm tội đã gây ra. Cũng chính vì việc nghiên cứu kỹ hồ sơ như
vậy, nên đã phát hiện những sai phạm của Cơ quan điều tra, khắc phục được
tình trạng Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ hai, về xét hỏi tại phiên tòa
Xét hỏi tại phiên tòa là sự kiểm tra lại kết quả điều tra, xuất phát từ địa vị
pháp lý của KSV là người tiến hành tố tụng, là người bảo vệ quyết định truy
tố tại phiên tòa, nên KSV phải hỏi về toàn bộ nội dung vụ án để có cơ sở đề
xuất trong phần luận tội, đề xuất hình phạt cũng như các quyết định khác về
bồi thường dân sự, xử lý vật chứng,… Điều đó có nghĩa là KSV phải đảm bảo
tất cả các chứng cứ phải được kiểm tra công khai tại phiên tòa, không bỏ sót
17
một chứng cứ nào. Việc chủ động tham gia xét hỏi của KSV là rất quan trọng
để làm sáng tỏ vụ án. Trước khi tham gia phiên tòa, KSV đã xây dựng đề
cương xét hỏi, nội dung đề cương xét hỏi được chuẩn bị sát với các tình tiết,
chứng cứ của vụ án đã được thu thập trong hồ sơ. Do làm tốt công tác chuẩn
bị đề cương xét hỏi nên các KSV khi giữ quyền công tố tại phiên tòa nắm
vững nội dung vụ án, các chứng cứ và tình tiết có liên quan đến vụ án, cụ thể:
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, hoàn cảnh
phạm tội,…nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự. Tại
phiên tòa, KSV đã chú ý theo dõi, ghi chép việc xét hỏi của Hội đồng xét xử
và việc trả lời của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Tiến hành xét hỏi bổ sung những vấn đề mà Hội đồng xét xử chưa hỏi hoặc
hỏi chưa kỹ, chưa đầy đủ, hoặc bị cáo và những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa còn có mâu thuẫn,…Trên cơ sở đó, đấu tranh với bị cáo nhằm làm
rõ, sáng tỏ nội dung cũng như sự thật của vụ án.
Thứ ba, về luận tội
Nhiệm vụ rất quan trọng của KSV trong công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đó là luận tội - buộc tội bị cáo
tại phiên tòa. Thực tiễn, tổng kết công tác hàng năm của ngành KSND đều đã
khẳng định: KSV đã quan tâm và đầu tư thời gian làm tốt công tác chuẩn bị,
xây dựng chuẩn bị dự thảo bản luận tội, bám sát hướng dẫn về nghiệp vụ của
VKSND Tối cao, đạt được tính chính xác, chặt chẽ trong diễn đạt. Tại phiên
tòa sơ thẩm, về cơ bản KSV đã chú ý những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm
tra, những ý kiến đề nghị của bị cáo, người tham gia tố tụng để bổ sung kịp
thời vào dự thảo bản luận tội cho phù hợp với nội dung, tích chất của vụ án
cũng như diễn biến tại phiên tòa. Do vậy, đa số các bản luận tội không chỉ chú
ý đến hành vi phạm tội của bị cáo bằng các chứng cứ của vụ án đã được kiểm
tra tại phiên tòa một cách khách quan, toàn diện, đánh giá đúng tính chất, mức
độ nguy hiểm mà hành vi của bị cáo đã gây ra, nhân thân của bị cáo, các tình
tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, … mà còn phân tích, đánh giá
thủ đoạn phạm tội của bị cáo, chỉ rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Trong một số vụ án nhất định, còn chỉ rõ những mối nguy hiểm cho người bị
hại, người tham gia tố tụng và chính quyền địa phương biết những thiếu sót
18
trong việc quản lý tài sản là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc phạm
tội. Việc bổ sung kịp thời những chứng cứ, tài liệu được thẩm tra công khai
tại phiên tòa vào bản dự thảo luận tội làm cho việc luận tội có tính thuyết
phục cao, khắc phục được quan niệm trước đây “án tại hồ sơ”. Nhiều bản luận
tội, nhất là các vụ án trọng điểm, vụ án phức tạp, vụ án được dư luận quan
tâm, các KSV đã gắn với tình hình thực tế tại địa phương để tuyên truyền giáo
dục pháp luật, qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân,
ngăn ngừa những vi phạm và tội phạm xảy ra trên địa bàn.
Thứ tư, về tranh tụng tại phiên tòa
Căn cứ theo quy định của BLTTHS, sau lời buộc tội của KSV, phiên tòa
sẽ chuyển sang phần tranh tụng. KSV phải có trách nhiệm bảo vệ quan điểm
buộc tội của mình. Đây là giai đoạn thể hiện rõ nhất vai trò cũng như khả
năng đối đáp của KSV tại phiên tòa. Nếu như trước đây là khâu yếu của KSV
thường bị Luật sư, những người tham gia tố tụng và dư luận đánh giá còn
chưa làm tốt, còn mang tính áp đặt thì trong những năm gần đây, việc đối đáp
tranh tụng của KSV VKSND huyện Mộc Châu ngày càng được nâng cao về
chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn
cải cách tư pháp. Tại phiên tòa, các KSV đã thể hiện được tính chủ động, sáng
tạo tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm: Xây dựng đề cương đối đáp
tranh tụng, dự kiến các nội dung, vấn đề có thể bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng đưa ra ý kiến và đề nghị những quan điểm
không đồng thuận với bản cáo trạng, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo…Tại phiên tòa, KSV đã ghi chép
đầy đủ những câu hỏi và câu trả lời diễn ra tại phiên tòa, để làm căn cứ tranh
tụng đối đáp với Luật sư, người bào chữa, bị cáo phù hợp với nội dung, tình
tiết vụ án, các quy định của pháp luật cũng như diễn biến tại phiên tòa. Việc
phân tích lập luận của KSV tại phiên tòa đã tạo ra sự thuyết phục, đồng tình
của những người tham dự phiên tòa, bảo vệ được quan điểm truy tố theo cáo
trạng và luận tội của VKS, qua đó giúp cho Hội đồng xét xử ban hành bản án
đúng người, đúng tội, đúng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã gây ra, một
mặt nhằm răn đe, giáo dục người phạm tội, mặt khác còn mang tính chất
19
phòng ngừa tội phạm. Nhờ thực hiện tốt công tác này, nên trong giai đoạn vừa
qua không có vụ án nào Tòa án tuyên không phạm tội.
2.2.1.2. Một số hạn chế về chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân huyện Mộc Châu
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của KSV Viện KSND
huyện Mộc Châu trong công tác tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự còn có những hạn chế nhất định, cụ thể:
Một là, tình trạng KSV chưa làm hết trách nhiệm của mình trong việc
thực hiện chức năng của VKS. Do vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Thực hiện theo Luật tổ chức VKSND 2014, thực hiện “thông khâu” công tác
nghiệp vụ từ kiểm sát điều tra, đến giai đoạn kiểm sát xét xử do một KSV tiến
hành. Do vậy để phục vụ tốt công tác xét xử thì công tác Kiểm sát điều tra là
rất quan trọng. Nhưng ở giai đoạn này thì đôi khi KSV chưa thật làm tốt, ví
dụ: Công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Nhiều khi KSV chỉ tham gia với vai trò người chứng kiến, nên đã xảy ra
trường hợp có những chứng cứ buộc tội bị can không được thu thập và củng
cố ngay từ khi khám nghiệm. Hậu quả, sau khi khởi tố vụ án đã thiếu những
chứng cứ quan trọng không thể khắc phục được dẫn đến khó khăn cho việc xử
lý vụ án, phải khai quật tử thi, dựng lại hiện trường, vụ án có thể bị trả hồ sơ
điều tra bổ sung, thậm chí án bị cấp phúc thẩm hủy,...
Hai là, một số KSV còn thụ động “chờ án”, chỉ kiểm sát tại hồ sơ khi đã
kết thúc điều tra, nên không phát hiện kịp thời để yêu cầu điều tra hoặc cá
biệt, có phát hiện nhưng bỏ mặc không biết xử lý hoặc không báo cáo lãnh
đạo để có biện pháp tháo gỡ, khắc phục dẫn đến các tài liệu chứng cứ thu thập
không đạt yêu cầu, chất lượng hồ sơ kém khi ra xét xử, KSV không bảo vệ
được quan điểm truy tố hoặc bảo vệ được nhưng khi đề nghị giải quyết các
vấn đề liên quan đến vụ án không chính xác, không thuyết phục như: Phần bồi
thường dân sự trong vụ án hình sự, xử lý vật chứng, phạt bổ sung, truy thu,
cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm hành nghề,…
20
Ba là, công tác áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự. KSV chưa nghiên cứu kỹ để vận dụng áp dụng đối với
tùy trường hợp cụ thể, chủ yếu xét dưới góc độ nhân thân người phạm tội để
xem xét cũng đã gây khó khăn cho việc thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, cụ thể: Có những bị can trong vụ án đồng
phạm, thời hạn tạm giam kéo dài (gia hạn điều tra nhiều lần) khi xét xử, Tòa
án tuyên án treo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền (là hình phạt chính) đã ảnh
hưởng đến bị cáo, gia đình bị cáo và phần nào suy giảm lòng tin của Nhân
dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Bốn là, trong quá trình giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn còn một số ít
KSV chưa làm tốt nhiệm vụ của mình, cụ thể: Khi công bố bản cáo trạng đọc
không dứt khoát, rõ ràng mạch lạc, đặc biệt khi đọc đến phần quyết định truy
tố bị can ra xét xử nên không thu hút được sự chú ý của người tham dự phiên
tòa và tính thuyết phục chưa cao; một số bản cáo trạng, khi viết KSV chưa
chú ý đến văn phong pháp lý vẫn sử dụng những từ địa phương; một số bản
luận tội không phân tích được hết tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
bị cáo đã gây ra, chưa đánh giá đúng về nguyên nhân điều kiện phạm tội,
nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
chưa đi sâu phê phán và lên án hành vi phạm tội để qua đó nâng cao công tác
giáo dục, phổ biến tuyên truyền giáo dục qua phiên tòa đến đông đảo quần
chúng Nhân dân trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Năm là, việc tham gia xét hỏi, tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng vừa là quyền vừa là trách nhiệm của KSV,
nhưng vẫn còn có KSV chưa chú ý theo dõi diễn biến của phiên tòa nên chưa
chủ động và nhạy bén trong quá trình xét hỏi, tranh tụng để làm rõ hành vi và
sự thật khách quan của vụ án. Đối với những vụ án nghiêm trọng, vụ án có
nhiều bị cáo mà các bị cáo chối tội, đổ tội cho nhau, hứng cứ còn thiếu, quan
điểm của KSV khác với quan điểm của người bào chữa,…thì KSV giữ quyền
công tố chưa làm tốt việc xác định chứng cứ, tính chất, mức độ, hành vi, động
cơ thủ đoạn phạm tội để có đủ căn cứ, cơ sở buộc tội và phản bác những quan
điểm không đúng, trái pháp luật. Khi xét hỏi còn hạn chế là đặt câu hỏi dài
dòng, khó hiểu, nóng nảy khi quan điểm của người bào chữa trái ngược với
21
quan điểm của mình. Nhiều phiên tòa có sự thay đổi nội dung vụ án, phát sinh
những tình tiết mới khác với dự kiến xử lý vụ án đã được lãnh đạo duyệt như
có lợi cho bị cáo hay thay đổi tội danh,… Nhưng KSV không linh hoạt bổ
sung vào bản dự thảo luận tội, không dám quyết định những vấn đề thuộc
thẩm quyền của mình, việc đề xuất xử lý, áp dụng hình phạt theo diễn biến tại
phiên tòa.
Sáu là, khi tham gia phiên tòa xong, vẫn còn nhiều trường hợp chưa
quan tâm đến việc kiểm tra biên bản phiên tòa để phát hiện những thiếu sót
hoặc không chính xác để kiến nghị Hội đồng xét xử bổ sung hoặc điều chỉnh.
Căn cứ vào kết quả đạt được, có thể thấy khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, KSV huyện Mộc Châu chưa đề
xuất lãnh đạo VKS ban hành nhiều kiến nghị khắc phục bổ sung những thiếu
sót tồn tại và ban hành nhiều kháng nghị phúc thẩm. Chất lượng kiến nghị,
kháng nghị chưa cao dẫn đến việc kiến nghị, kháng nghị không được chấp
nhận. Việc Hội đồng xét xử tuyên khác với tội danh và mức hình phạt khác
với đề nghị của KSV vẫn còn xảy ra.
2.2.2. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện
Đề án cần thực hiện các nội dung sau đây nhằm phát huy những mặt đã
đạt được, từng bước khắc phục những tồn tại hạn chế, nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
Kiểm sát viên – Viện KSND huyện Mộc Châu:
- Nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng
lực công tác đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị, nhất là đội ngũ
KSV, Kiểm tra viên.
- Thực hiện nghiêm và có hiệu quả chế độ công vụ, nghiệp vụ đối với
đơn vị nhằm kịp thời kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh, khắc phục những vi
phạm, hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
công tác.
- Xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện làm việc cho Viện
KSND huyện Mộc Châu nhằm đảm bảo điều kiện làm việc đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ.