Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Vấn đề bản thể luận và áp dụng thực tiễn vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.2 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HTTT KINH TẾ VÀ TMĐT
----------

BÀI THẢO LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Tên đề tài: Vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin và sự vận
dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam

Nhóm thực hiện: nhóm 8
Giảng viên: Nguyễn Thị Liên
Lớp học phần: 2177MLNP0221

Hà Nội - 2021

1


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8

71

Lê Thu Ngân

72

Nguyễn Thị Thúy Ngân

73

Trần Thị Thu Ngân



74

Đào Mỹ Ngọc

75

Triệu Hồng Ngọc

76

Lê Thị Thảo Nguyên

77

Nguyễn Quang Nguyên

78

Nguyễn Thị Thảo Nhi

79

Nguyễn Thị Nho

80

Nguyễn Thị Kim Oanh

BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ


2


STT

Họ và tên

Chức vụ

Công việc được Đánh giá điểm
giao

71

Lê Thu Ngân

TV

PP

A

72

Nguyễn Thị Thúy Ngân

TV

Tìm tài liệu


A

73

Trần Thị Thu Ngân

TV

Tìm tài liệu, Word

A

74

Đào Mỹ Ngọc

TV

Tìm tài liệu

A

75

Triệu Hồng Ngọc

TV

Tìm tài liệu


A

76

Lê Thị Thảo Nguyên

TK

Tìm tài liệu

A

77

Nguyễn Quang Nguyên

TV

Thuyết trình

78

Nguyễn Thị Thảo Nhi

TV

Word

A


79

Nguyễn Thị Nho

TK

Tìm tài liệu

A

80

Nguyễn Thị Kim Oanh

NT

PP

A

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 5
NỘI DUNG............................................................................................................................6
Chương I. Vấn đề bản thể luận trong triết học Mác - Lênin.............................................6
3


1. Cơ sở lý luận....................................................................................................................6
1.1 Khái niệm “triết học”......................................................................................................6

1.2 Khái niệm “bản thể luận”...............................................................................................7
2. Quan niệm về bản thể luận trước Mác..........................................................................7
2.1 Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông............................................7
2.2 Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Tây............................................10
3. Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác - Lênin............................................14
3.1 Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác - Lênin............................................14
3.2 Cách tiếp cận vấn đề bản thể luận...............................................................................14
3.3 Quan niệm vật chất.......................................................................................................15
3.4 Quan niệm về ý thức.....................................................................................................16
3.5 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức............................................................................17
3.6 Ý nghĩa phương pháp luận...........................................................................................18
Chương II. Vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.......................19
1. Nhận thức....................................................................................................................... 19
2. Trong hoạt động thực tiễn.............................................................................................32
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 40

LỜI MỞ ĐẦU

4


Hiện nay, Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và đang có những bước tiến đáng kể, đạt được nhiều thành tựu
đáng ghi nhận trên nhiều lĩnh vực. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là làm sao để cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, theo đúng như những gì mà Bác Hồ
mong mỏi “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành.” Bởi vậy, Đảng và Chính phủ luôn đặt nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và phát triển kinh tế lên hàng đầu. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó thì Đảng ta đã chỉ ra rằng
phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho

mọi hoạt động. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải dựa trên lập trường, quan điểm của chủ
nghĩa Mác cũng như tư tưởng mà Bác Hồ đã vạch ra để áp dụng vào thực tế hoàn cảnh xã
hội đất nước hiện nay, tìm ra đường lối đúng đắn, phương châm phù hợp để phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên, nhóm chúng em quyết định đi
sâu vào phân tích đề tài “Vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin và sự vận dụng của
Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam”. Từ đó đưa ra kết luận chính xác nhất.

NỘI DUNG
Chương I. Vấn đề bản thể luận trong triết học Mác - Lênin
1. Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm “triết học”
5


Triết học là một môn học gạo cội. Trước khi có sự ra đời của triết học Mác-Lênin,
triết học cịn được coi là khoa học của mọi loại khoa học. Nhận định này là hợp lý vì phần
lớn các nhà triết học lỗi lạc trong lịch sử triết học đều bắt nguồn từ các nhà khoa học và khoa
học nào cũng cần tri thức triết học với tư cách là phương pháp luận để hướng dẫn khoa học
phát triển. Triết học ra đời từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI Trước Cơng Ngun, từ đó
đến nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học.
Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người
đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo Học viện Báo chí và Tuyên truyền: triết học là bộ môn nghiên cứu về những
vấn đề chung và cơ bản của con người trong thế giới quan đó; những vấn đề có kết nối với
chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Nhưng tất cả các cách
định nghĩa đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới
với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của
chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói
riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.

Tóm lại, triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà
nó giải quyết các vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung
nhất và sự phụ thuộc của nó và tính duy lý trong việc lập luận. Triết học đã ra đời trong xã
hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây) và trong thời kỳ chuyển từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang
xã hội phong kiến (phương Đông) gắn liền với sự phân công lao động xã hội - tách lao động
trí óc ra khỏi lao động chân tay, khi con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có
một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút
được cái chung từ vô số sự vật, hiện tượng riêng lẻ, xây dựng nên các học thuyết lý luận.
Triết học đã ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiễn quyết định.
1.2 Khái niệm “bản thể luận”
Thuật ngữ bản thể luận (ontology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa là “học
thuyết về tồn tại”. Trong lịch sử triết học, trước thế kỷ XVII, thuật ngữ “bản thể luận” chưa
6


được xuất hiện với tư cách một khái niệm mà chỉ dưới dạng những tư tưởng về nó, những tư
tưởng về tồn tại. Tên gọi “bản thể luận” chỉ được xuất hiện lần đầu tiên tại thế kỷ XVII.
Trong Lexicon philosophicum (bách khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius (1547 1628) và được xuất bản tại Phrăngphuốc (Đức) vào năm 1613. Như vậy, tên gọi “bản thể
luận” xuất hiện vào thế kỷ XVII nhưng tư tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong
lịch sử triết học trong cả triết học phương Đông và cả triết học phương Tây.
Trong triết học trước Mác, “bản thể luận” được hiểu là “triết học đầu tiên” là học
thuyết về sự tồn tại nói chung nên nó cùng nghĩa vơi siêu hình học - một hệ thống những
định nghĩa phổ biến có tính chất tư biện về tồn tại.
Đến Mác-Lênin quan điểm bản thể luận dùng để chỉ những quy luật của sự vận động
phát triển của những cái đang tồn tại. Vật chất và ý thức tồn tại đều chịu sự chi phối của
những quy luật đó.
→ Tóm lại, bản thể luận được hiểu là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc, về tồn tại
hay bản thể luận là quan niệm về thế giới, nó bàn tới tất cả những gì đang tồn tại trong thế
giới khách quan ở bản thân nó, và nó tồn tại theo tính quy luật của nó.
2. Quan niệm về bản thể luận trước Mác

2.1 Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông
Về mặt địa lý, “ phương Đông cổ đại” bao gồm một vùng đất hết sức rộng lớn, từ Ai
Cập, Babilon tới Ấn Độ, Trung Hoa... và nơi đây được ví với cái nơi của nền văn minh nhân
loại. Người phường Đông cổ đại đã sớm lợi dụng từ những thuận lợi của vùng đồng bằng
phì nhiêu để có thể phát triển sản xuất. Chính dựa trên những điều kiện đó, lịch sử triết học
của các nước phương Đông xuất hiện từ rất sớm, vào khoảng thiên nhiên kỷ thứ III TCN. Sự
phát triển của tư tưởng và triết học phương Đơng cổ, trung đại có những đặc điểm mang đậm
bản sắc độc đáo so với triết học phương Tây, thể hiện đậm nét ở một số quốc gia tiêu biểu
như Trung Quốc, Ấn Độ... với những quan niệm về bản thể luận rất đặc sắc.
2.1.1 Quan niệm của triết học Trung Quốc cổ trung đại về bản thể luận

7


Trường phái triết học Âm dương - Ngũ hành: Trường phái triết học cổ của Trung
Quốc lại hướng đến việc lý giải sự tồn tại của thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự
nhiên trong thế giới.Quan điểm duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát, lấy tự
nhiên để giải thích những gì thuộc về tự nhiên. Đây là quan niệm học thuyết về sự liên hệ,
sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong thế giới là âm và dương và ngũ hành là bản thể
làm nên sự tồn tại của thế giới.
Quan niệm của các triết gia: Quan điểm về Đạo của Lão tử là quan điểm tiêu biểu của
người Trung Quốc cổ đại về bản thể luận. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất nhưng
lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự thống nhất của thế giới, là bản nguyên
sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể
vật chất của khối “hỗn độn”,“mập mờ”, “thấp thống” không có đặc tính, khơng có hình thể,
nhìn khơng nhìn, thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn
tại bất luận con người có nhận thức được hay không.
Quan điểm của phái Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt của xã hội Trung Quốc suốt hơn
hai nghìn năm lịch sử, cũng như tác động đến Việt Nam và một số nước Đông Á khác. Nho

giáo chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc về mối liên hệ, về vận động, về quy luật
với mục tiêu là xây dựng những cơ sở lý luận cho các quan điểm chính trị, đạo đức và xã hội
và con người nên lại đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản nguyên của tồn tại.
Theo Mạnh Tử “Tâm” là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý và
trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan hệ với Tính,
đem tâm tính đấy là ứng xử với vạn vật được gọi là Tình. Tâm - Lương Tri - Lương năng là
cơ sở để xây dựng luân lý đạo đức, nó là cái tự nhiên có ở con người chứ khơng phải qua
học tập, là cái vĩnh viễn không thay đổi, do vậy con người cần “phản tỉnh” để hành xử cho
hợp

lễ

nghĩa.

2.1.2 Quan niệm của triết học Ấn Độ cổ trung đại về bản thể luận
Tri thức và văn hóa Ấn Độ truyền thống hết sức đa dạng, phong phú và có những yếu
tổ phỏng đoán vượt thời gian. Nét đặc biệt trong văn hóa Ấn Độ là mang dấu ấn sâu đậm về
mặt tín ngưỡng, tơn giáo và tâm linh, với nhiều yếu tố thần bí. Những kiến thức và văn hóa
8


đó đã trở thành những chất liệu trực tiếp cho sự xuất hiện các trường phái triết học ở Ấn Độ
thời cổ đại. Các nhà triết học ở Ấn Độ cho rằng bản thể của thế giới chính là các vị thần có
tính chất tự nhiên, vũ trụ tồn tại ba thế lực có liên hệ mật thiết với nhau là thiên giới, trần thế
và địa ngục. Sớm nhất là trong khoảng thế kỷ VIII – VI trước Công Nguyên, bộ kinh
Upanisad đã cho rằng bản nguyên tối cao bất diệt của thế giới là “tinh thần vũ trụ tối cao”
Brahman, đó là thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế
giới đều nảy sinh ra và nhập về nó sau khi chết. Ngồi ra có nhiều các trường phái khác nhau
như phái Samkhya, trường phái Nyaya Vaisesika và Phật giáo.
Phái Samkhya có tư tưởng rất cổ và ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, nó có tinh thần duy

vật, phủ nhận sự tồn tại của Brahman và thần. Phái Samkhya cho rằng thế giới là thế giới vật
chất và nó tồn tại và vận động theo quy luật nhân quả, kết quả đã tồn tại trong nguyên nhân
trước khi nó xuất hiện. Quan niệm về bản thể bắt đầu từ nguyên nhân.
Phái Nyaya - Vaisesika quan niệm bản nguyên duy nhất, đầu tiên của thế giới là
những hạt vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng được phân biệt ở chất lượng, khối
lượng và hình dạng, tồn tại trong một môi trường đặc biệt được gọi là Anu (nguyên tử).
Phái Lokayata quan niệm bản nguyên của tồn tại được hình thành từ bốn yếu tố: đất,
nước, lửa, khơng khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian
và cấu thành vạn vật. Thế giới xung quanh ta đa dạng chính là do sự kết hợp khác nhau của
các

yếu

tổ

bản

ngun

đó.

Phật giáo là một tơn giáo mang tư tưởng giải thoát chúng sinh ra khỏi nỗi khổ cuộc
đời. Phật cho rằng bản nguyên của thế giới chính là Tâm. Tâm ban đầu vốn trịn đầy, chưa
xao động, giống như mặt nước, khi gió thổi (vọng tâm sinh khởi) mà tạo ra sóng to, sóng
nhỏ, bọt hay bong bóng khác nhau. Gió ngừng thổi thì mặt nước trở lại yên lặng. Vậy tâm
ban đầu không thay đổi, khi có tác động từ bên ngồi, có sự tiếp xúc lục căn (sáu giác quan)
và lục trần (thế giới khách quan) thì mới làm tâm xao động sinh ra tham, sân, si. Khi vượt
qua được tham, sân, si tức là con người đã được giác ngộ, được giải thoát, trở về cái tâm ban
đầu thanh tịnh. Một khái niệm khác của Phật giáo khi đề cập đến vấn đề bản thể luận là
“khơng”. Và trong kinh Phật có cụm từ “sắc sắc khơng khơng” để nói về sự vô thường của

cuộc sống vạn vật tự sinh tự diệt, chuyển biến không ngừng trong từng phút giây.

9


2.2 Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Tây
Khái niệm “bản thể luận” được xuất hiện ở thế kỷ XVII tại phương Tây. Khái niệm
này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học phương Tây tới mức chính
nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của phương pháp tư duy triết học Tây Âu.
Trong mỗi thời kỳ, triết học Phương Tây lại có những nhà triết học tiêu biểu với nhiều quan
niệm về “bản thể luận” khác nhau, điều đó đã tạo nên một bức tranh đầy màu sắc về triết học
phương Tây.
2.2.1 Quan niệm của triết học Hy lạp cổ đại

Thời kỳ này các nhà triết học cũng chính là các nhà khoa học, chính vì vậy quan
niệm về bản thể luận của những nhà triết học thời này rất phong phú, mang đậm dấu ấn
cùng những ngành khoa học họ nghiên cứu.
● Ta-let (624-546 TCN) : Ơng cố gắng đi tìm một nguồn gốc chung, một thực thể
chung làm cơ sở của mọi vật. Đối với ơng, thực thể đó chính là nước. Trong cơng
cuộc đi tìm cách xây dựng “bản thể luận mới”, chúng ta phải kể đến Pi-ta-go (571497 TCN). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà tóan học. Ơng cho rằng bản nguyên
thể giới là những con số. Con số là lực lượng chi phối toàn bộ thế giới theo một quy
luật nhất định. Vì vậy, con số khơng chỉ là bản nguyên của tồn bộ sự vật mà còn là
cơ sở của hiện tượng tinh thần. Con số tồn tại vĩnh viễn nên linh hồn cũng bất tử. Nó
chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Tuy nhiên, quy luật tốn học chỉ là một loại
quy luật, ngồi ra còn rất nhiều những quy luật khác.
● Hê-ra-clit (khoảng 530 - 470 TCN) : Ông được coi là đại biểu vĩ đại nhất của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Ông quan niệm về bản thể luận của thế giới là
lửa. Lửa là nguồn gốc của mọi sự trong vũ trụ, là cơ sở của linh hồn con người. Theo
ông, cả vũ trụ là một ngọn lửa vĩnh hằng, khồng không bùng cháy và tàn lụi. Lửa
trao đổi với tất cả và tất cả trao đổi với lửa. Cũng như chúng ta đổi hàng hóa vấy

vàng và vàng thành hàng hóa.
● Đê-mơ-crit (460-370TCN) : Ơng đã tiếp tục con đường phân tích những cấu trúc của
tồn tại, trong quan hệ của nó với ngun tử. Theo Đê - mơ crits, cơ sở của thế giới
10


vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là các hạt vật chất nhỏ, không thể phân chia được
và tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, các nguyên tử khác nhau về hình thức, trật tự và tư
thế. Ngun tử khơng những vơ hạn về số lượng mà cịn vơ hạn về hình thức. Các
ngun tử khơng kết hợp với nhau tùy tiện, ngẫu nhiên mà theo trật tự nhất định. Sở
dĩ các sự vật của thế giới khác nhau là do cấu tạo của nguyên tử khác nhau lại được
sắp xếp theo những trật tự khác nhau và đặc biệt là ở những tư thế khác nhau.
● Platon: Khác với Đê-mô-crit, Platon chia thế giới thành 2 bộ phận: thế giới của
những ý niệm và thế giới của những sự vật cảm tính. Ơng cũng kế thừa quan điểm
của Pi-ta-go về những con số. Theo ông,sự tồn tại của thế giới các ý niệm thơng qua
các quan hệ tỷ lệ tốn học tác động vào vật chất tạo ra thế giới các sự vật cảm tính.
Chỉ có ý niệm mới tồn tại chân thực, mới là đối tượng của nhận thức chân lý, cịn có
sự vật cảm tính chỉ là kết quả của sự bắt chước ý niệm.
2.2.2 Quan niệm triết học Tây Âu thời trung cổ

Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II - V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ nô lệ và là
sự ra đời của chế độ phong kiến, và chế độ phong kiến kéo dài đến thế kỷ thứ XIV với sự
thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến và phương thức sản xuất phong kiến cùng chế
độ phong kiến phân quyền. Triết học thời kỳ này là nển triết học kinh viện lấy vấn đề
trung tâm là cuộc đấu tranh giữa niềm tin tơn giáo và trí tuệ. Cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy thức và chủ nghĩa duy danh là biểu hiện cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Tây Âu thời kỳ này. Tiêu biểu nhất trong thời
kỳ này là nhà triết học Tô-mát Đa-canh. Triết học của ông được nhờ Thiên Chúa coi là học
thuyết duy nhất đúng đắn và làm hệ tư tưởng của mình. Về quan niệm về bản thể luận, ông
cho rằng Thượng đế là cơ sở tồn tại của thế giới.

2.2.3 Quan niệm của triết học Tây Âu thời Phục hưng (TK15-16)

Cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, cũng như sự phát triển khoa học và
nghệ thuật, triết học thời kỳ phục hưng đã có một bước ngoặt trong sự phát triển, mở đầu
cho một thời kỳ phát triển mới của chủ nghĩa duy vật. Về vấn đề bản thể luận trong thời kỳ
này, có một nhà triết học tiêu biểu là Giooc-đa-nơ Bru-no (1548-1600) ông là nhà triết học,
11


đồng thời là nhà khoa học tự nhiên vĩ đại người Italia. Phạm trù trung tâm trong triết học của
ông là Cái duy nhất (Uno). Uno chính là thượng đế tồn tại dưới dạng giới tự nhiên (Tự nhiên
thần luận). Ông cũng đã kế thừa và chịu ảnh hưởng của Aritx- tốt, ơng cho rằng có sự thống
nhất giữa vật chất và hình dạng trong Uno, mọi hình dạng chẳng qua chỉ là hình dạng của vật
chất mà thơi. Ơng cũng tiếp nhận tư tưởng về sự thống nhất vật chất của vũ trụ khi cho rằng:
“ Mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất cả mọi vật. Chúng ta ở trong vũ
trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta”. Bên cạnh đó, ơng cũng xây dựng thuyết đơn từ

(monad): Theo đó, mọi sự vật và cả vũ trụ đều được cấu tạo từ đơn tử, là những phần tử
vật chất nhỏ nhất có chứa khả năng tinh thần. Ông cũng kế tục và phát triển học thuyết
của Cơpéc-ních mặt trời là trung tâm, nhưng ơng cũng bổ sung thêm rằng, có vơ số thế
giới, xung quanh trái đất có một bầu khơng khí cùng xoay với trái đất và mặt trời cũng
đổi chỗ với các vì sao. Với học thuyết đó, Bruno đã bác bỏ một quan điểm cơ bản của tôn
giáo về sự tồn tại của thế giới bên kia, thế giới thần linh. Ơng cịn cho rằng thế giới vật
chất tồn tại khơng ngừng, khơng có chúa trời nào thống trị vũ trụ đó cả.
2.2.4 Quan niệm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (TK 17-18)

Cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm
cho xã hội phong kiến Tây Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị và
tinh thần. Từ đó dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản, nhà nước tư sản được hình thành,
dân tộc tư sản ra đời. Triết học thời kỳ này khác về chất so với triết học duy vật cổ đại Hy

lạp, thể hiện ở phương pháp siêu hình, sự gắn bó với khoa học thực nghiệm. Một đại diện
tiêu biểu của thời kỳ này là Phăng-xi Bê-cơn (1561-1626) người Anh. Ông là người đã kế
thừa những tư tưởng duy vật cổ đại Hy Lạp trong quan niệm về thế giới, thể hiện ở chỗ ơng
thường xun trích dẫn và ca ngợi những nhà duy vật. Ông kịch liệt chống lại quan điểm của
triết học kinh viện về vật chất (thụ động, trừu tượng, chế cứng, không vận động, dùng trong
tranh luận…). Ông đưa ra khái niệm “vật chất thứ nhất” để đối lập với khái niệm vật chất
này của triết học kinh viện, trên cơ sở đó, ơng đưa ra 19 dạng vận động khác nhau của “vật
chất thứ nhất”. Bên cạnh đó, ơng cũng ủng hộ quan điểm của Ăm-pê-đốc-lơ về sự không

mất đi của vật chất. Theo ông, tổng vật chất là giữ ngun. Ơng cịn cải biến học thu yết
về bốn nguyên nhân của Arix-tốt theo hướng duy vật.
12


Nhà triết học thứ hai trong thời kỳ này là Rơ-nê Đê-các-tơ (1596-1654), nhà triết học
và khoa học nổi tiếng người Pháp. Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đê-các-tơ
đứng trên lập trường nhị nguyên luận. Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần
tồn tại độc lập với nhau, cùng song song là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới. Thực thể vật chất là đối tượng nghiên cứu của vật lý, còn thực thể tinh thần là đối

tượng nhiên cứu của triết học. Tuy nhiên, cả hai thực thể này đều là phụ thuộc vào một
thực thể thứ ba là Thượng đế. Ông cố gắng đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, giữa tồn tại và tư
duy nhưng cuối cùng lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Ơng cịn phát hiện ra nguyên tắc
quyết định luận trong thế giới, có những dự báo khoa học về nguồn gốc vũ trụ, về sự phát
triển đa dạng của các loài sinh vật. Quan niệm của ơng về bản thể luận có nhiều điểm tiến
bộ nhưng cịn mang tính máy móc, siêu hình.
2.2.5 Quan niệm trong triết học cổ điển Đức (TK XVIII - nửa đầu TK XIX)
Bản thể luận duy tâm cổ điển Đức chịu tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội
và chính trị đương thời. Trong khi Anh và Pháp tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa

thì nước Đức vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế và chính trị. Vì giai cấp tư sản Đức yếu
kém, khơng đủ khả năng nắm chính quyền, nên các nhà lý luận của giai cấp này là những
nhà triết học duy tâm, sáng lập ra các hệ thống triết học rất trừu tượng, tách khỏi đời sống
thực tiễn. Các nhà triết học duy tâm Đức, bắt đầu từ Can-tơ trở đi đã xây dựng bản thể luận
triết học trong tư duy, ý thức của chủ thể, đặc biệt đề cao tính năng động và tính duy lý của
chủ thể.
 Can-tơ đã có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng bản thể luận độc đáo, đó
chính là học thuyết vật tự có. Theo ơng, vật tự có là bản chất của mọi vậ khách quan
tồn tại bên ngồi con ngời, nó thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm, siêu nhiên, con người
khơng thể nào nhận thức được. Ví dụ như Chúa trời, tự do.
 Tiếp nối các bậc tiền bối, Hê-ghen. Ông cho tinh thần thế giới là có trước, tồn tại vĩnh
viễn. Tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên rồi lại thơng qua xã hội, lịch sử trở
về chính nó.

13


 Lút-vích Phoi-ơ-bắc, một nhà triết học lỗi lạc đã khôi phục lại địa vị xứng đáng cho
chủ nghĩa duy vật trước Mác. Ông cho rằng thế giới vật chất là có trước, nó tồn tại và
vận động nhờ chính nguyên nhân ở trong nó, ý thức có sau, ý thức là sản phẩm, thuộc
tính của bộ óc của con người. Ơng cũng có quan điểm duy vật về khơng gian, thời
gian. Theo ơng, khơng có khơng gian, thời gian ngồi vật chất, cũng khơng có vật chất
tồn tại ngồi không gian, thời gian.
3. Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác - Lênin
3.1

Quan

niệm


về

bản

thể

luận

trong

triết

học

Mác

-

Lênin

Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thức thể
ban đầu nào đó là coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới,
tất cả để bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến phát triển, đã xuất hiện những tư tưởng
biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học
duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, thời kỳ này thì các nhà triết học đã
đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất. Chỉ đến triết học Mác-Lênin mới có thể giải
quyết triệt để những hạn chế theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm 40 của thế
kỷ XIX với sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng
chính trị xã hội độc lập dấu tranh lại giai cấp tư sản vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực hiện

cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu khác nhất cho sự ra đời triết học Mác.
3.2

Cách

tiếp

cận

vấn

đề

bản

thể

luận

Về cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học Mác-Lênin là:
 Một là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người;
 Hai là mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất,
hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những
quy luật khách quan phổ biển của thế giới vật chất;

14



 Ba là thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Trong thế giới không có gì
khác ngồi những q trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn
gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
3.3

Quan

niệm

vật

chất

Vật chất, với tư cách là phạm trù cơ bản của triết học, ngay từ khi mới ra đời đã được
các nhà triết học quan tâm giải quyết. Phát triển quan niệm của Mác và Ăng-ghen, Lênin đã
đưa ra định nghĩa về vật chất: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Định nghĩa trên đã có ý nghĩa to lớn khi Lênin đã làm rõ:
 Thứ nhất với tư cách là thực tại khách quan, vật chất không tồn tại phụ thuộc vào ý
thức con người, kiên định và triệt để quan niệm nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật,
không thể quy vật chất nói chung về vật thể, khơng thể đồng nhất vật chất với những
dạng cụ thể của cật chất như các nhà duy vật cổ đại.
 Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cảm
giác cho con người.
 Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ảnh nó.
Vậy, Lênin đã đưa ra được phương pháp định nghĩa mới, mang tính trừu tượng hóa,
khái quát hóa cao. Định nghĩa này là một dấu mốc lớn, bác bỏ thuyết không thể biết, khắc
phục những sai lầm, hạn chế trong quan điểm duy tâm, siêu hình về vật chất. Bên cạnh đó,
quan niệm này cũng đã khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học,

định hướng cho sự phát triển của khoa học cụ thể. Cho đến bây giờ và mai sau, khoa học
không thể bác bỏ được định nghĩa của Lênin về vật chất.
Theo Ph.Ăng-ghen: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Nghĩa là, vật chất
chỉ tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Khơng
thể có vật chất khơng vận động, thơng qua vận động mà bộc lộ đặc điểm, tính chất, kết cấu
của nó và từ đó, con người có thể nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan.

15


Mang tính kế thừa, Mác-Lênin khẳng định vật chất gắn liền với vận động, nhưng
trong q trình vận động khơng ngừng đó vẫn bao hàm cả hiện tượng đứng im. Tuy nhiên,
đứng im chỉ là tương đối khi nó biểu hiện sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định
tương đối về vật chất hoặc nó chỉ xảy ra khi đặt nó trong một mối quan hệ xác định chứ
không phải trong mọi quan hệ cùng lúc và đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động
nhất định chứ khơng phải với mọi hình thức vận động. Vì vậy, đứng im chỉ là tạm thời,
tương đối, vận động mới là vĩnh viễn, tuyệt đối, bởi vận động diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc,
trong mọi sự vật, hiện tượng, nó tồn tại từ đầu khi sự vật ra đời cho đến khi sự vật kết thúc,
sự vật đó mất đi, sự vật khác lại ra đời lại có hình thức vận động của mình. Khơng gian và
thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, khơng có vật chất tồn tại ngồi khơng gian


thời

gian.

3.4 Quan niệm về ý thức
Trên cơ sở của những thành tựu khoa học, ý thức được định nghĩa là thuộc tính của
vật chất nhưng không phải là mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất

có tổ chức cao là bộ óc con người. Nói một cách khác, ý thức có nguồn gốc tự nhiên, đồng
thời nó chỉ xuất hiện ở giai đoạn phát triển cao nhất của thế giới vật chất, đó là sự xuất hiện
của con người cùng bộ não. Bên cạnh đó, ý thức cịn có nguồn gốc xã hội, nó được hình thức
chủ yếu do hoạt động lao động cải tạo, biến đổi thế giới khách quan của con người và xuất
hiện ngơn ngữ. Thơng qua lao động, con người có thể tác động vào thế giới khách quan làm
cho nó bộ lộ những thuộc tính, kết cấu, những quy luật vận động của mình để dần hình thành
tri thức. Trong quá trình lao động, ngơn ngữ cũng xuất hiện với vai trị là hệ thống tín hiệu
vật chất mnang nội dung ý thức. Khơng có ngơn ngữ thì ý thức khơng thể tồn tại và thể hiện
được.
Vậy, bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của
con người một cách năng động, sáng tạo. Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiện
thuần túy mà là một hiện tượng mang tính xã hội, ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã
hội, là sản phẩm của các quan hệ xã hội, chịu sự chi phối chủ yếu của các quan hệ xã hội,
các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người và phản ánh những quan hệ xã hội .

16


3.5

Mối

quan

hệ

giữa

vật


chất



ý

thức

Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của con người thành
một lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Họ coi con người là tồn tại duy nhất,
tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả, cịn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện
khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Trong khi đó, chủ nghĩa
duy vật siêu hình thì tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật
chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, khơng
thấy được tính năng động sáng tạo, vai trị to lớn của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực khách quan.
Triết học Mác-Lênin khẳng định vật chất và ý thức, có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó vật chất đóng vai trị quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có tác động trở lại đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người:
 Vật chất quyết định sự ra đời cuả ý thức bởi ý thức ra đời là kết quả tất yếu của q
trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, dẫn đến sự xuất hiện của một kết cấu đặc
biệt là bộ não người từ đó có khả năng phản ánh bằng ý thức. Vật chất quyết định nội
dung, sự vận động, biến đổi của ý thức. Thế giới khách quan đa dạng ra sao sẽ được
phản ánh và cải biến trong bộ não người. Khi thế giới khách quan thay đổi thì nội
dung phản ánh của ý thức cũng thay đổi theo.
 Ngược lại, ý thức có vai trị chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, chính vì vậy
nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý
thức giúp con người nhận thức được quy luật khách quan, trên cơ sở, con người xác
định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Chính vì vậy, nếu
ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hồn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy

tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản
ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người khơng phù hợp vớiquy luật
khách quan, do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ
17


giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét mối quan hệ khác như: lý luận


thực

tiến,

khách

thể



chủ

thể,

vấn

đề


chân

lý.

3.6 Ý nghĩa phương pháp luận
Những quan điểm về bản thể luận trong triết học Mác-Lênin đã giải quyết triệt để hai
mặt trong một vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức, nhưng ý thực lại có tác động ngược trở lại tới vật chất. Từ đó, con người cần:
 Xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng quy luật khách quan
 Phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
 Nhận thức vai trị tích cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong việc sử dụng một cách
hiệu quả nhất những điều kiện phương tiện vật chất hiện có
 Cần khái quát tổng kết thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực nhận thức, năng
lực chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ động ngồi chờ ỷ lại vào hoàn cảnh vào điều
kiện vật chất.
Quan điểm triết học Mác-Lênin đã khắc phục hạn chế sai lầm của chủ nghĩa duy vật
trước Mác về vật chất: Bác bỏ phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về
vấn đề này. Nó tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm vật
chất trong lĩnh vực đời sống xã hội.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm rút ra trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là mọi đường lối, chủ
trương của Đảng. Một trong những bài học lớn về sự thành cơng của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam là bài học kiên định lập trường, vận dụng
sáng tạo lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta. Rõ ràng, muốn xây dựng nền kinh tế xã hội nên nền tảng lực lượng sản xuất
tiên tiến, hiện đại, theo V.I.Lênin, dứt khốt phải giữ vững vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng
nhân, thơng qua đội tiền phong của mình là Đảng cộng sản. Đồng thời phải thường xuyên
làm tốt việc củng cố nền chun chính vơ sản, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là
khối liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức. Nhờ sự trung thành và vận dụng sáng tạo


18


chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam nên cách mạng nước ta giành
những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, lập nên những kỳ tích vĩ đại.

Chương II. Vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
1. Nhận thức
Tại Việt Nam, từ những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa Mác- Lênin thâm nhập vào
thông qua lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và một số chiến sĩ cách mạng tiền bối thời bấy giờ và
ngày càng được truyền bá rộng rãi. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại cho chúng ta nền tảng
tư tưởng vững chắc, những điểm tựa lý luận, phương pháp luận khoa học sâu sắc, giúp
chúng ta nâng cao tầm tư tưởng, tầm trí tuệ, tư duy độc lập, sáng tạo, tìm ra con đường và
giải pháp đúng để xử lý các vấn đề quan trọng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng ta
đã có những nhận thức đúng đắn về triết học, nhận rõ luận điểm có tính phương pháp luận
hết sức sâu sắc của Lenin về mối quan hệ biện chứng giữa “tính phổ biến” và “tính đặc thù”
của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó
là điều khơng thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội khơng
phải một cách hồn tồn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức
này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ
sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối vớicác mặt khác
nhau của đời sống xã hội”. Đồng thời, V.I.Lênin cũng căn dặn: “Chúng ta không hề coi lý
luận của Mác như là một cái gì đã xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin
rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”. Trong thời kì đổi mới, luận điểm của Lênin đã ln được Đảng ta quán triệt như một
nguyên lí phương pháp luận khoa học và cách mạng của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên những phương diện:
1.1 Tư tưởng của Lênin là cơ sở lí luận, được vận dụng kiên định và sáng tạo, từng

bước định hình con đường và bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện
cụ thể của Việt Nam.

19


Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh lịch sử đặc
thù của Việt Nam. Người đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội nhờ có sự giác ngộ
chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm bắt được tinh thần và xu thế phát triển của thời đại, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người đã nhiều lần khẳng định rằng,
chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập
dân tộc, mới xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và nơ dịch, mới giải quyết tận gốc vấn đề
giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Có những khoảng thời gian chúng ta nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, đặc
biệt là giai đoạn trước đổi mới, hệ quả là đất nước rơi vào khủng hoảng về kinh tế - xã hội
trầm trọng. Xuất phát từ thực tiễn đó, trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã hoạch định
đường lối đổi mới.
Đổi mới khơng có nghĩa là Đảng ta từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà đổi
mới chính là để nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Giai đoạn
trước đổi mới, nếu quan niệm kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền là sản phẩm của chủ
nghĩa tư bản, đối lập một cách trừu tượng chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, thì đổi mới
là để nhận thức lại đúng đắn hơn, coi kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền là sản phẩm
phát triển của nhân loại đạt được trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa, cần phải kế thừa yếu tố
hợp lý, vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lĩnh hội tinh thần tự phê phán về những sai lầm nghiêm trong khi coi thường quy luật
khách quan và yêu cầu cần thay đổi căn bản những quan niệm, tư duy trước đây về chủ
nghĩa xã hội của Lênin trong bước chuyển đổi từ “chính sách cộng sản thời chiến” sang
“chính sách kinh tế mới” năm 1921, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng
12-1986) đã có những bước ngoặt lớn trong đổi mới tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa thiết
phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của
nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng
quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ
20


quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm đổi mới về tư duy kinh tế
nêu trên Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) khẳng định và bổ sung với những bước
tiến mới.
Từ kinh nghiệm của 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác
định 6 đặc trung cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “…Đại hội là sản phẩm trí
tuệ của tồn Đảng và của nhân dân trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những giá trị của lồi người vào giai đoạn hiện nay của sự nghiệp
cách mạng nước ta. Kết quả đó khẳng định Đảng ta kiên trì và tích cực đẩy mạnh cơng cuộc
đổi mới do chính bản thân Đảng khởi xướng theo những nguyên tắc đã được xác định… Đổi
mới tồn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc
sống, là q trình khơng thể đảo ngược”.
So với 6 đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã nêu ra, Đại hội X đã bổ sung 2 đặc trưng là
xây dựng “ xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” và “ có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng(1-2011) tiếp tục bổ sung và phát triển
cương lĩnh cho phù hợp với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong
đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị,

tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc.
Trải qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 2 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, Đại hội XII đi sâu
kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, nhìn lại 30 năm đổi mới, rút ra những bài học;
xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đại hội đã
tiếp tục khẳng định và phân tích sâu sắc hơn 8 đặc trưng của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
cho phù hợp hơn với thực tiễn, bối cảnh mới. Đại hội XII rút ra ba kết luận quan trọng:
21


● Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới v à
phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
● Những thành tựu đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là
phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của lịch sử.
● Đồng thời, những thành tựu cũng khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo.
→ Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Ðảng ta đã dẫn dắt cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng và nhân
văn cao cả là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin. Công cuộc đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng
thu được những thành tựu to lớn. Kiên định với bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam nhất định Ðảng
ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
V.I Lênin đã bảo vệ và phát triển học thuyết của Mác - Ăngghen, nâng lên trình độ
cao mới trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao là chủ nghĩa đế quốc

trong hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Kế thừa học thuyết của C.Mác
trong điều kiện mới, V.I Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, khởi
thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người đã xác định kế hoạch xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), phác hoạ những đường nét cơ bản của sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế chậm phát triển. Những quan điểm của
Lênin trong chính sách kinh tế mới về phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ
hàng hoá tiền tệ kinh tế thị trường, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dường như mâu thuẫn
với quan niệm của Mác và Ăngghen khi cho rằng chủ nghĩa cộng sản xố bỏ bn bán, cùng
với việc xã hội nắm lấy tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá cũng bị loại trừ.

22


Biện chứng của lịch sử là ở chỗ để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường và như vậy phải trải qua chế độ tư
hữu trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng của sự phát triển mà
Lênin đã vận dụng sáng tạo trong NEP. Chính vì khơng nhận thức và vận dụng được quy luật
này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa cũ như Liên Xô và Đông Âu trước đây đã chủ trương
nhanh chóng xố bỏ chế độ tư hữu, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, khơng
thừa nhận nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, khơng phát triển quan hệ hàng hố - tiền
tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược cơng nghiệp hố theo hướng nội là chủ yếu,
khơng tích cực tham gia vào phân cơng hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong nền
kinh tế. Tư duy này đã kìm hãm sự phát triển dẫn đến khủng hoảng trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng
sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình Đổi mới, nhất là đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng ta, khẳng định quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn của
nước ta là q trình chuyển hố nền kinh tế cịn mang nhiều tính tự túc cấp thành nền kinh tế
hàng hoá, khẳng định sự cần thiết của việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới chủ
nghĩa xã hội, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy nhận thức của Đại hôi
VI mặc dù chưa đạt tới nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt nền tảng cho sự phát

triển của Đảng ta ở các đại hội sau.
Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Sản xuất hàng hố khơng đối
lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và cả khi chủ nghĩa xã hội
đã được xây dựng"
Chỉ đến Đại hội IX (tháng 4/2001) Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm kinh tế
thị trường định hướng XHCN, khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là
đường lối chiến lược nhất qn, là mơ hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mơ hình kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển,
vừa có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng
phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sự khẳng định của Nghị quyết Đại hội
23


IX về mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một bước
phát triển mới về nhận thức lý luận so với mô hình nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được xác định tại Đại hội VIII.
Đại hội XI đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung phát triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam qua
30 năm Đổi mới, tham khảo kinh nghiêm quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã bổ sung hoàn
thiện và xác định cụ thể hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

→ ChínhV.I Lênin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: "Chúng ta khơng
hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả
những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được". Đảng ta đã thực
hiện đổi mới, sáng tạo, thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và
khẳng định nó khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của
các nước trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.2 Đảng ta đã vận dụng, phát triển các nguyên lí của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là tư
tưởng của Lênin vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hầu hết những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như đã trình bày cho đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Tuy
nhiên, có những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, chẳng hạn luận điểm “liên minh công nông là ngun tắc tối cao của chun chính vơ sản”. Bởi vì hiện nay, cơ cấu xã hội - giai
24


cấp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thay đổi. Nhiều nước tỷ lệ dân cư là nơng dân
đã giảm xuống tuyệt đối; hơn nữa, q trình trí thức hóa cơng nhân, cơng nhân hóa nơng dân
cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc
gia, dân tộc để xác định liên minh giai cấp và các tầng lớp cho đúng…
Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,tư tưởng Hồ Chí Minh về
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vào điều kiện cụ
thể cách mạng Việt Nam, ngay từ văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam
năm 1951, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là chính
quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm
nền tảng do giai cấp cơng nhân lãnh đạo”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
năm 1991, Đảng ta xác định: xây dựng khối liên minh cơng - nơng - trí làm nền tảng cho

khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo”.
Tổng kết thành tựu của 25 năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ
một trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi của lịch sử”.
→ Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức và trở thành nịng cốt của khối đại
đồn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ
trí thức do Đảng lãnh đạo”.
1.3 Những tư tưởng của Lê-nin về Đảng Cộng sản mới đã được vận dụng sáng tạo và
đã đạt được những thành tựu trong việc xây dựng và củng cố vai trò lãnh đạo đất
nước và xã hội của Đảng cầm quyền Việt Nam - đây là nhân tố quan trọng trong sự
phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảm bảo thắng lợi của công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
25


×