Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc nhận thức, giải quyết một số vấn đề trong cuộc sống cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.62 KB, 12 trang )

lOMoARcPSD|10162138

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Triết học Mác-Lênin

ĐỀ TÀI: Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng và vận dụng vào việc nhận thức, giải quyết một
số vấn đề trong cuộc sống cá nhân.

Giảng viên hướng dẫn : Đào Thu Hương
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Huyền

Lớp

: K24KTDND (Nhóm lớp 13)

Mã sinh viên

: 24A4021661

Hà Nội, ngày 5 tháng 1 năm 2022


lOMoARcPSD|10162138

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
Phần 1. Phần lý luận............................................................................................3
1. Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn nhất...............................................3
1.1. Cái riêng......................................................................................3
1.2. Cái chung.....................................................................................3
1.3. Cái đơn nhất.................................................................................3
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.................3
2.1. Cái riêng, cái chung theo trường phái duy thực và duy danh......3
2.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cái riêng và cái
chung..................................................................................................4
3. Phương pháp luận..............................................................................................5
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân..............................................6
1. Liên hệ thực tế...................................................................................................6
2. Liên hệ bản thân................................................................................................7
KẾT LUẬN..........................................................................................................9
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................10


lOMoARcPSD|10162138

MỞ ĐẦU
Khởi đầu vào cuối tháng 12 năm 2019 với tâm dịch đầu tiên tại thành phố Vũ Hán
thuộc miền Trung Trung Quốc, bắt nguồn từ một nhóm người mắc bệnh viêm
phổi không rõ nguyên nhân, đại dịch Covid 19 - một dịch bệnh truyền nhiễm đã
diễn ra trên phạm vi toàn cầu và cướp đi sinh mạng của hàng trăm triệu người.
Tác nhân virus SARS-CoV-2 và các biến thể mới của nó rải rác bao phủ tồn bộ
thế giới, reo rắc chết chóc và đói nghèo đến khắp mọi ngóc ngách của cuộc sống,
trong đó có Việt Nam.
Theo thống kê được cập nhật bởi Our World in Data, tính đến ngày 31 tháng 12

năm 2021, trên toàn thế giới có 286 540 045 ca nhiễm và 5 429 544 ca tử vong
do Covid 19.
Đại dịch Covid không chỉ cướp đi sinh mệnh của bao con người mà nó cịn đem
đến những ảnh hưởng tiêu cực khác: sự bất ổn về kinh tế xã hội, tình trạng bài
ngoại và phân biệt chủng tộc đối với người Trung Quốc và Đông Á, việc truyền
bá thông tin sai lệch trực tuyến và vũ khí sinh học.
Ở Việt Nam, virus đã đe dọa đến nhiều ngành nghề, gây hậu quả nghiêm trọng
đến du lịch, công thương nghiệp. Tăng tưởng kinh tế trong năm 2020 chỉ đạt
khoảng 1,5%- mức tăng chậm nhất trong 35 năm qua.
Trước sự lây lan và biến thể không ngừng của dịch bệnh, chính phủ các nước trên
thế giới đã tiến hành đáp trả nhằm bảo vệ sức khỏe người dân cũng như các nhóm
cộng đồng trên tồn cầu. Trong hồn cảnh đó, chính phủ Việt Nam đã đưa ra
những chủ trương, chính sách chung ngằm hạn chế thiệt hại do dịch bệnh gây ra.
Trong q trình học hỏi đó, triết học Mác Lênin, đặc biệt là cặp phạm trù cái
chung và cái riêng có vai trị là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức. Chính
vì vậy, em đã chọn nội dung: “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc nhận thức, giải quyết một số vấn đề
trong cuộc sống cá nhân” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Qua đề tài này em muốn phân tích, làm rõ sự vận dụng quan điểm duy vật biện
chứng giữa cái chung và cái riêng trong việc nhận thức, giải quyết vấn đề phòng
chống đại dịch Covid-19 của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, làm rõ mối quan hệ
biện chứng giữa cái chung, cái riêng và ý nghĩa của cặp phạm trù này đối với cuộc
sống cá nhân của thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên chúng ta.
Triết học là bộ mơn có tính ứng dụng cao trong cuộc sống thực tiễn. Tuy nhiên,
do hiểu biết hạn hẹp và khả năng tìm hiểu vấn đề cịn chưa thấu đáo nên bài tiểu
luận của em không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm ngớ ngẩn. Em rất mong
nhận được sự góp ý của cơ để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn.
1



lOMoARcPSD|10162138

Em xin chân thành cảm ơn.

2


lOMoARcPSD|10162138

NỘI DUNG
Phần 1: Phần lý luận
1. Khái niệm về cái chung, cái riêng và cái đơn nhất
Theo quan niệm từ phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh
những sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới khách quan. Tuy nhiên, trong quá
trình so sánh, đối chiếu giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác;
phân biệt sự giống và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi đến sự phân biệt cái
chung, cái riêng.
1.1. Cái riêng
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, mỗi nhà trường, mỗi môn học là một cái
riêng.
1.2. Cái chung
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung
khơng những có ở một sự vật hiện tượng nào đó, mà cịn lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Q trình đồng hóa, dị hóa khơng chỉ diễn ra ở con người mà cịn diễn ra
ở động vật khác.
1.3. Cái đơn nhất
Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính chất chỉ tồn tại ở một sự
vật, hiện tượng nhất định và không lặp lại ở một sự vật, hiện tượng khác.

Ví dụ: Cấu tạo gen, dấu vân tay, suy nghĩ, nhân cách, năng lực của mỗi con người.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
2.1. Cái chung cái riêng theo trường phái duy thực và duy danh
Trong lịch sử triết học có hai xu hướng đối lặp giải quyết quan hệ giữa cái chung
và cái riêng.
Phái duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, khơng phụ thuộc vào cái
riêng. Có hai luận giải: Theo luận giải thứ nhất thì cái chung mang tính tư tưởng,
tinh thần, là các khái niệm chung nhất. Theo cách lý giải thứ hai thì cái chung
mang tính vật chất, tồn tại vĩnh viễn, độc lập với ý thức của con người. Cịn cái
riêng, hoặc hồn tồn khơng có, hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung; là cái thứ
yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra. Ví dụ: Tại Học viện Ngân hàng có rất nhiều
3


lOMoARcPSD|10162138

sinh viên. Mỗi sinh viên là một cái riêng, và thông thường sau 4 năm học sinh
viên sẽ tốt nghiệp ra trường. Và quá trình này sẽ được lặp lại ở thế hệ tân sinh
viên kế tiếp. Nhưng khái niệm “sinh viên” nói chung vẫn tồn tại vĩnh viễn, gắn
liền với môi trường Đại học.
Đối lập với phái duy thực, các nhà triết học duy danh như P.Abơla (1079-1142),
Đumxcot (1265-1308) cho rằng cái chung không tồn tại trong hiện thực khách
quan, chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực. Chẳng hạn như, họ cho
những khái niệm như con người, vật chất...chỉ là những từ trống rỗng, khơng phản
ánh cái gì trong hiện thực.
Cả hai quan niệm của phái duy thực và duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rồi
cái riêng ra khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc
ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại khách quan và mối liên hệ giữa chúng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được khiếm khuyết của cả hai xu
hướng đó trong việc lý giải mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.

2.2. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa cái riêng
và cái chung
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cái riêng, cái chung và cái đơn
nhất có mối quan hệ qua lại như sau:
Thứ nhất, cái chung khơng tồn tại trừu tượng, bên ngồi những cái riêng. Cái
chung chỉ tồn tại trong mỗi cái riêng, biểu hiện thơng qua mỗi cái riêng. Vì vậy,
để nhận thức cái chung, có thể dùng phương pháp quy nạp từ việc nghiên cứu
nhiều cái riêng.
Ví dụ: Trên cơ sở khảo sát hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp, có thể rút
ra kinh nghiệm về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, khơng có cái riêng
tồn tại độc lập, tuyệt đối, tách rời với cái chung. Vì vậy, để giải quyết vấn đề riêng,
không chỉ bất chấp cái chung, đặc biệt là cái chung thuộc bản chất, quy luật phổ
biến.
Ví dụ: Khơng có doanh nghiệp nào tồn tại mà khơng dựa vào các quy tắc chung
của thị trường, như là quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Nếu
doanh nghiệp nào bất chấp quy luật, nguyên tắc chung đó thì nó khơng thể tồn tại
trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú đa dạng hơn cái chung. Còn cái chung
là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Vì vậy, chẳng những việc
giải quyết mối vấn đề riêng khơng thể bất chấp cái chung mà cịn phải xét đến cái
phong phú, lịch sử khi vận dụng cái chung.
4


lOMoARcPSD|10162138

Ví dụ: Khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào giải quyết các vấn
đề riêng cần phải xét đến những điều kiện lịch sử cụ thể tạo nên cái đơn nhất cái
đặc thù của nó, cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết vấn đề

chung. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là cái chung, nhưng khi vận
dụng vào mỗi địa phương, mỗi vùng, ngành cụ thể cần phải gắn với điều kiện lịch
sử, bối cảnh cụ thể ở nơi đó.
Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những điều
kiện xác định của quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Vì vậy, tùy từng mục
đích có thể tạo ra các điều kiện để sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung
hoặc là từ cái chung trở thành cái đơn nhất.
Ví dụ: Một sáng kiến mới ra đời, nó là cái đơn nhất. Trong một tập thể, có sáng
kiến mới để thay đổi q trình quản lý sản xuất – nó là cái mới, cái tích cực, cái
đơn nhất. Với mục đích là nhân rộng sáng kiến đó, phát triển kinh tế xã hội, có
thể thơng qua việc tổ chức trao đổi, giáo dục, tuyên truyền để phổ biến sáng kiến
đó thành cái chung, cái phổ biến. Khi đó, cái đơn nhất trở thành cái chung.
Ngược lại, có những cái chung đã lạc hậu, lỗi thời, nó kìm hãm sự phát triển, sự
ra đời của cái mới, cái tiến bộ thì chúng ta phải loại bỏ điều kiện, tìm cách tác
động vào điều kiện để cho nó trở thành cái đơn nhất hoặc là loại bỏ điều kiện để
cho cái đơn nhất không thể trở thành cái chung theo nghĩa tiêu cực. Đồng thời,
mạnh dạn, dũng cảm xóa bỏ cái chung đã là cái cũ, cái lạc hậu, cản trở sự phát
triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nên khi xây
dựng cái chung, chúng ta phải xuất phát từ mỗi cái riêng. Đồng thời cũng không
thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
Thứ hai, để giải quyết cái riêng có hiệu quả thì khơng thể lảng tránh giải quyết cái
chung vì cái riêng và cái chung có mối liên hệ lẫn nhau, cái riêng tồn tại trong mối
quan hệ với cái chung không thể tách rời. Ví dụ giải quyết vấn đề của một trường,
một khoa nào đó thì khơng thể lảng tránh giải quyết vấn đề chung của nền giáo
dục của Việt Nam. Như tình trạng mua điểm là cái riêng, khi phát hiện vấn đề đó,
khơng thể lảng tránh giải quyết một số vấn đề chung, những điều tiêu cực trong
nền giáo dục Việt Nam hiện nay, đó là bệnh thành tích tác động chi phối, chất
lượng nghiên cứu, chất lượng giảng viên, người học cịn thấp.

Thứ ba, vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, khơng tồn tại ở bên ngồi mối
liên hệ dẫn đến cái chung. Vì vậy, để giải quyết cái riêng cũng phải gắn với cái
chung, cụ thể hóa cái chung trong mối hồn cảnh, điều kiện cụ thể, tránh tuyệt đối
hóa cái riêng, coi thường cái chung, khắc phục tư tưởng cá nhân cực đoan, tư
5


lOMoARcPSD|10162138

tưởng cục bộ, giáo điều. Ví dụ: Chúng ta vận dụng một cách rập khn, giáo điều
mơ hình của Liên Xô vào Việt Nam, mà không căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh
cụ thể của nước nhà, đặc điểm riêng để đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta rất
thấp, đó là nước ta là một nước nơng nghiệp lạc hậu, trình độ sản xuất rất thấp
kém, yếu tố con người và khoa học ký thuật còn rất hạn chế mà chúng ta lại tập
trung đầu tư vào công nghiệp nặng. Do đó, vào thời điểm đó, nền kinh tế nước ta
rơi vào tình trạng khủng khoảng trầm trọng.
Thứ tư, vì cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại. Nên cần
phát hiện, tạo điều kiện cho cái đơn nhất, cái mới, cái tiến bộ tích cực phát triển,
phổ biến thành cái chung. Đồng thời cần hạn chế đấu tranh loại bỏ thủ tiêu cái
chung đã cũ đã lạc hậu khơng cịn phù hợp.

Phần 2: Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân
1. Liên hệ thực tế
Đại dịch Covid 19 là vấn đề quan trọng được các quốc gia trên thế giới quan tâm
chú trọng hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ các nước đã đưa ra hàng
loạt biện pháp để giảm thiểu thiệt hại do dịch bệnh gây ra.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là cái chung. Chúng ta phải tuân
theo các biện pháp phòng chống dịch được đưa ra. Nhưng khi vận dụng cái chung
phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, khu vực. Các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nó là cái chung, nhưng khi vận

dụng vào từng địa phương nó lại là cái riêng, thì phải căn cứ vào từng điều kiện
hoàn cảnh của từng địa phương để xây dựng chủ trương, chiến lược sao cho phù
hợp với tình hình.
PGS.TS Trần Đắc Phu: “Dịch bệnh COVID-19 xảy ra trên tồn thế giới, trên quy
mơ diện rộng, trong đó có Việt Nam. Dịch bệnh COVID-19 xảy ra trên tồn thế
giới, trên quy mơ diện rộng, trong đó có Việt Nam. Có những vấn đề được đúc
kết và được hướng dẫn rất khoa học và cơ bản, do đó sự chỉ đạo cần có tầm cỡ
quốc gia, thống nhất theo một cái chung, tránh việc mỗi nơi làm một kiểu. Vừa
qua trong thực hiện chỉ thị 16 tại một số địa phương, đã xảy ra tình trạng mỗi nơi
làm một kiểu dẫn đến việc không thống nhất, ngăn sông cấm chợ; giải quyết không
đúng theo vấn đề chuyên môn, dẫn đến xét nghiệm không hiệu quả, truy vết khơng
thành cơng, hay phong tỏa khơng nghiêm… Do đó, cần phải có những hướng dẫn
cụ thể, cần những chính sách tầm cỡ quốc gia. Theo tôi, để công tác chống dịch
đạt hiệu quả cao, chúng ta cũng cần tập trung tháo gỡ các vấn đề khó khăn, hạn
chế trong cơng tác này, nhất là việc tháo gỡ khó khăn về chính sách. Tơi thấy vừa
qua, Chính phủ đã tập trung rất nhiều cho việc tháo gỡ chính sách: Chính sách về
đi lại, mua sắm, các chính sách về an sinh xã hội và người dân. Việc này phải
6


lOMoARcPSD|10162138

mang tầm quốc gia và chuyên sâu. Trên cơ sở đó, áp dụng linh hoạt tùy từng vùng,
từng địa phương, ví dụ như vùng đang có dịch nguy cơ cao thì chiến dịch và giải
pháp xét nghiệm cũng cần linh hoạt, thay đổi. Vấn đề truy vết cũng phải khác, vấn
đề cung cấp thực phẩm thiết yếu cũng cần linh hoạt hơn. Nhưng đối với những
vùng chúng ta gọi là “vùng xanh” thì chúng ta vẫn có thể truy vết và thực hiện xét
nghiệm được. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm, hiệu quả của địa phương,
các bộ ngành tổng kết, đúc rút thành những hướng dẫn, những quy định cụ thể để
cho các địa phương khác học tập. Việc này vừa bảo đảm hiệu quả công tác chống

dịch, vừa không để việc chống dịch xa rời thực tế.”
Chủ trương là chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước chúng ta, nhưng nó cần
được vận dụng sao cho phù hợp với tình hình của từng địa phương.
Theo bà Ngơ Thị Kim Yến - giám đốc Sở Y tế TP Đà Nẵng, vùng đỏ (nguy cơ rất
cao) thực hiện cách ly y tế theo hướng dẫn của Bộ Y tế, người dân tuyệt đối cách
ly ở trong nhà (trừ trường hợp đặc biệt). Khu vực này kiểm soát chặt chẽ 24/24
giờ khơng cho người, hàng hóa, phương tiện ra, vào. Người được phép ra, vào
vùng đỏ phải mang đồ bảo hộ đầy đủ (có kính chắn giọt bắn). Người dân khu vực
này sẽ được theo dõi sức khỏe hằng ngày và lấy mẫu xét nghiệm toàn dân với tần
suất 3 ngày/lần cho đến khi dỡ bỏ vùng đỏ theo nguyên tắc tuyệt đối khơng để lọt,
khơng để bỏ sót đối tượng. Đối với vùng xanh (bình thường mới), quy mơ vùng
xanh nhỏ nhất là cấp phường, xã, do chủ tịch UBND quận, huyện quyết định thiết
lập khi 14 ngày liên tục khơng có ca nhiễm COVID-19 trong cộng đồng. Áp dụng
các biện pháp theo quy định tại chỉ thị số 5 (quy định chống dịch cao hơn chỉ thị
16). Cán bộ, cơng chức, viên chức, lực lượng vũ trang, phóng viên, nhân viên,
người lao động theo quy định tại chỉ thị số 5 sống ở thôn, tổ dân phố "vùng xanh"
được đi làm, khi về phải khai báo y tế và áp dụng biện pháp phòng, chống dịch
theo 5K.
2. Liên hệ bản thân
Tại sao chúng ta phải đi học Đại học? Học Đại học là cái chung, nhưng đó chỉ là
cái bắt đầu, nó khơng phải là tất cả. Vì khi chúng ta bắt tay vào thực hiện một
công việc, một dự án nào đó, nó lại là cái riêng. Không người nào tiên phong dẫn
đầu nào thành công, mà một người khác sao chép, rập khuôn y nguyên mà thành
công được như thế. Không ai học lý thuyết mà thành công, cũng không ai đi làm
luôn mà thành công được. Vì cái chung, tức là lý thuyết rất đơn điệu, đơi khi tìm
hiểu sẽ khiến chúng ta cảm thấy nhàm chán. Ngược lại, cái riêng phong phú hơn
sẽ hấp dẫn, thu hút chúng ta. Tuy nhiên, cái chung bản chất hơn vì nó đã được
chứng minh lặp đi lặp lại nhiều lần, cái riêng sẽ nông hơn.
Bản thân chúng ta đang là những sinh viên trong độ tuổi mười tám đơi mươi – độ
tuổi có nhiều ước mơ, hồi bão và khát vọng làm giàu. Cặp phạm trù cái chung

7


lOMoARcPSD|10162138

cái riêng giúp chúng ta giải quyết về tư tưởng, luôn luôn phải học lý thuyết trước,
tức là nắm được cái chung, chúng ta có được thế chủ động, “đứng trên vai người
khổng lồ”, nhưng rất tiếc chúng ta lại thiếu những cái riêng. Để có được những
cái riêng địi hỏi cả một q trình lâu dài. Sự thành cơng của mỗi người khơng lặp
lại hồn tồn mà nó chỉ lặp lại cái chung. Theo thống kê của Laura Vanderkam –
một chuyên gia theo dõi thời gian biểu của những người thành cơng, có đến 90%
những người thành cơng như Bill Gates – nhà sáng lập Microsoft, Tim Cook –
CEO của Apple hay Mark Zeckerberg thức dậy trước 6h30 sáng. Buổi sáng đóng
vai trị quan trọng để kiểm sốt một ngày dài. Đây là khoảng thời gian con người
tập trung nhất cũng như ít khi bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngồi. Điều này
mang lại nhiều lợi ích và giúp họ kiểm soát được ngày mới trước khi nó bắt đầu.
Khi nhìn vào một sự vật hiện tượng chúng ta đừng vội đánh giá ngay bởi thứ
chúng ta nhìn thấy chỉ là cái riêng, mà khơng thể nắm bắt ngay cái chung. Chúng
ta khơng thể chỉ nhìn vào một người thành công mà kết luận ngay nhờ những yếu
tố nào mà thành công, cái chúng ta thấy được chỉ là một bộ phận, một mặt, một
khía cạnh nào đó. Bởi vì mỗi cá nhân đều có điều kiện, hồn cảnh, năng lực khác
nhau; thế nên chúng ta khơng thể rập khuôn, bắt chước y nguyên một người thành
công nào đó với mong muốn đạt được thành cơng giống họ.

8


lOMoARcPSD|10162138

KẾT LUẬN

Tiểu luận với đề tài “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan giữa cái chung
và cái riêng và vận dụng vào việc nhận thức, giải quyết một số vấn đề trong
cuộc sống cá nhân.” của em đã nêu ra những kiến thức cơ bản về cái chung, cái
riêng và mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Vận dụng vào cơng cuộc phịng
chống dịch bệnh của tồn thể dân tộc, Đảng và Nhà nước đã kịp thời đưa ra
những chủ trương, chính sách chung nhằm đồng hành cùng người dân trong nạn
dịch. Thực hiện đúng chủ trương chính sách chung đã đề ra, chúng ta đã đạt
được nhiều thành tựu trong cuộc chiến với đại dịch và bắt đầu bước nào đó khơi
phục nhịp sống bình thường, làm quen với việc “sống chung với dịch”, học tập
và làm việc theo đúng yêu cầu của Nhà nước. Tuy đạt được nhiều thành tựu
đáng kể, tuy nhiên dịch bệnh vẫn đang tiếp tục hoành hành và trở nên nguy hiểm
hơn với nhiều biến thể mới chưa có vắc-xin phịng ngừa. Do đó, Đảng và Nhà
nước cần tập trung khoanh vùng dập dịch, đưa ra chủ trương, chính sách sao cho
phù hợp với tình hình của từng địa phương.
Bên cạnh đó, đối với thế hệ trẻ - người nắm trong tương lai vận mệnh của đất
nước, nhất là vào trong thời kỳ dịch bệnh khó khăn, chúng ta cần phải nỗ lực
học tập, rèn luyện khơng ngừng. Tích cực học hỏi, giao lưu với bạn bè khắp nơi
trên khắp mọi miền tổ quốc. Có cho mình hành trang tri thức sẵn sàng cống hiến
cho đất nước mà không mất đi bản sắc, thương hiệu của cá nhân mình.

9

Downloaded by Quang Tran ()


lOMoARcPSD|10162138

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Bộ giáo dục và Đào tạo, nhà xuất bản Chính

trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội năm 2006
2. Nhập môn Max, Rius (Eduardo del Rio), người dịch: Nguyễn Hà, hiệu đính:
Bùi Văn Nam Sơn, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006.
Tài liệu trực tuyến
Cổng thơng tin điện tử bộ y tế, “Ứng phó với đại dịch trong tình hình mới, phải
quyết liệt, linh hoạt, mạnh mẽ hơn”, chinhphu.vn
truy cập lúc 15:05, 04/01/2022
Trường Trung, “Hỏi đáp về dịch COVID-19: Di chuyển giữa các vùng xanh đỏvàng-ở Đà Nẵng như thế nào”, tuoitrevn
truy cập lúc 15:26,
04/01/2022

10

Downloaded by Quang Tran ()



×