ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH
🙞···☼···🙜
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1
Thành phố Hồ Chí Minh – 2021
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình - tiếng gọi vơ cùng thiêng liêng đối với mỗi con người chúng ta, chẳng
ai có thể sống tốt, vui vẻ, hạnh phúc mà khơng có gia đình, điều đó đủ cho ta thấy gia
đình có vai trị quan trọng như thế nào đối với con người. Gia đình ln là nơi khởi
nguồn và hình thành nhân cách của mỗi con người. Tình cảm gia đình là cơ sở tốt đẹp,
bền vững của lòng yêu nước, yêu dân. Bác Hồ ln quan tâm, đề cao vai trị của gia
đình trong xã hội. Vì vậy, Bác Hồ từng nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình, chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho
tốt”1
Chính tầm ảnh hưởng và có vai trị vơ cùng quan trọng, cho nên gia đình hạnh
phúc là một trong những vấn đề vơ cùng cấp thiết hiện nay. Xuyên suốt bề dày lịch sử,
gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển dựa trên những giá trị văn hóa vơ
cùng tốt đẹp, là một trong những yếu tố góp phần xây dựng bản sắc dân tộc. Những
giá trị truyền thống quý báu như lịng u nước, hiếu học, hiếu nghĩa, cần cù, chịu
khó... vẫn đang được gia đình Việt Nam gìn giữ vun đắp và phát huy trong xuyên suốt
quá trình dựng nước và giữ nước. Và cho đến nay, khi đất nước đang trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện để mỗi gia đình Việt
Nam phát triển, đồng thời đặt gia đình Việt Nam trước những biến đổi và khơng ít khó
khăn thách thức.
Thấm nhuần những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhận thức đúng về
vị trí, vai trị hết sức quan trọng của gia đình đối với quá trình phát triển của đất nước,
những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về vấn đề gia đình,
đặc biệt là xây dựng gia đình mới hiện nay. Tại Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: “Xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”. Trên
cơ sở đó, ngày 29-5-2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Chiến lược phát
triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Đặc biệt, Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong mỗi gia
1
Hồ Chí Minh. (2011). Tồn tập, tập 9. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr. 531-532
3
đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực
hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”.2
Nhờ sự quan tâm của Đảng và nhà nước, đất nước ta đã đạt được nhưng thành
tựu quan trọng trong việc phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
mọi gia đình. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở các cơ sở ngày một phát
triển, ngày càng có nhiều gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn hóa, cụm cư dư
văn hóa góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Những năm gần đây, việc thành
lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và lấy ngày 28-6 hằng năm là Ngày gia đình
Việt Nam đã khẳng định vai trị của gia đình đối với xã hội và xã hội đối với gia đình
trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và theo Tiêu chí đánh giá gia
đình hạnh phúc của Hội Phụ nữ Việt Nam thì chúng ta đã đạt được các tiêu chí về các
mặt như là cách ứng xử trong gia đình, điều kiện vật chất, y tế được cải thiện, đời sống
tinh thần được nâng cao. Đó là những tín hiệu vơ cùng tích cực để mỗi gia đình chúng
ta khác lên mình chiếc áo mang tên hạnh phúc và chắc chắn với chiếc áo này sẽ ngày
càng đa dạng phong phú hơn nếu mỗi gia đình chúng ta chung tay góp sức để nâng
tầm gia đình Việt Nam từ đó đưa xã hội Việt Nam ngày càng phát triển ngày càng văn
minh và hạnh phúc.3
Tuy chúng ta đã đạt được những tiêu chí vơ cùng tích cực nêu trên nhưng bên
cạnh đó thì vẫn cịn những hạn chế mà chúng ta cần phải giải quyết. Hiện nay những
vấn đề như hiện tượng tảo hôn, ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, nạo phá
thai vẫn là những vấn đề vô cùng nhức nhối của xã hội mà hiện nay ta vẫn chưa thể
giải quyết triệt để. Bên cạnh đó thì các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp cảu gia
đình đang có biểu hiện xuống cấp. Bạo hành trong gia đình, xâm hại phụ nữ trẻ em, trẻ
em mồ côi lang thang kiếm sống... Làm ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội
2
Đỗ Thị Thạch. (30/9/2015). Đại hội XI về xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Truy cập từ
/>3
Hồng Lộ. (02/06/2021). Góp ý dự thảo Tiêu chí gia đình hạnh phúc: Cùng “thiết kế” chiếc áo hạnh phúc. Truy
cập từ />
4
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chọn đề tài: “Gia đình trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc
ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta
hiện nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; gia đình hạnh phúc.
Thứ hai, đánh giá thực trạng xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta thời gian
qua.
Thứ ba, đề xuất giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là
các phương pháp: phương pháp thu thập số liệu; phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp lịch sử - logic;…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:
Chương 1: Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta hiện
nay.
5
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
“Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì
và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia
đình”.4
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. C. Mác và Ph. Ăngghen khi đề cập đến gia đình đã cho
rằng:’’Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hằng
ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người
khác, sinh sơi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia
đình”5. Cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và
chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại
trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và
trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.6
Có thể nói gia đình đóng vai trị vơ cùng lớn trong việc hình thành và phát triển
của mỗi người chúng ta, đó là điểm điểm tựa, là nơi cho ta sự an ủi niềm tin niềm hi
vọng để ta vững bước trước những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì thế thì việc xây
dựng gia đình hạnh phúc là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh COVID-19 thì ý nghĩa của bốn chữ “gia đình hạnh
phúc” lại trở thiết thực. Một nghiên cứu rất nổi tiếng của Đại học Harvard tiến hành
trên 724 người trưởng thành trong suốt 75 năm đã được công bố, cho biết một trong
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, tr. 241
5
C. Mác, & Ph. ĂngGhen. (1995). Toàn tập, tập 1. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.41.
6
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, tr. 67 - 69.
6
nhiều điều đáng chú ý: chất lượng các mối quan hệ làm cho người ta hạnh phúc, đặc
biệt là mối quan hệ hơn nhân và gia đình.
Và khái niệm gia đình hạnh phúc cũng có thể được hiểu là sự hài lịng của các
thành viên gia đình về tổng hịa các yếu tố khách quan, chủ quan về đời sống vật chất,
sức khỏe, đời sống tinh thần, mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ của gia đình
với dịng họ, cộng đồng.
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình có vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực
phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt
khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nịi giống. Những trật tự xã
hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước
nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát
triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”7
Gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội.
Khơng có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội khơng thể tồn tại và phát triển
được. Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế
bào gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “... nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân
của xã hội chính là gia đình”
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào bản
chất của từng chế độ xã hội, vào đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, và phụ
thuộc vào chính bản thân mơ hình, kết cấu, đặc điểm của mỗi hình thức gia đình trong
lịch sử. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã hội
khơng hoàn toàn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất
7
C. Mác, & Ph. ĂngGhen. (1995). Toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.41.
7
lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm, hòa
thuận trong gia đình, thì mới có thể n tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình
cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia
đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
1.1.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên.
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân
đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là mơi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được
u thương, ni dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của
mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách,
thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong mơi trường n ấm của
gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình n, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt.
1.1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người.
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình,
mà cịn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác, ngoài các thành
viên trong gia đình. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành
viên của xã hội. Khơng có cá nhân bên ngồi gia đình, cũng khơng thể có cá nhân bên
ngồi xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội
của mỗi cá nhân. Gia đình cũng chính là mơi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân học được
và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến
cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thơng qua lăng kính gia đình mà tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, nhân cách v.v... Có những vấn đề quản lý xã hội phải thơng qua hoạt động của
gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực
8
hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội
nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu cầu của mình, cũng đều coi
trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Trong xã hội phong kiến, để củng cố, duy trì
chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đốn, chun quyền đã có những quy định
rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với người
chồng, người cha - những người đàn ơng trong gia đình. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được giải phóng,
giai cấp cơng nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng, thực hiện sự
bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu
khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”8. Vì vậy, quan hệ
gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất so với các chế độ xã hội
trước đó.
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
1.1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, khơng một cộng đồng nào có thể thay thế.
Chức năng này khơng chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp
ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình, dịng họ mà cịn đáp ứng nhu cầu về sức
lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
Thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người quyết định đến mật độ dân cư và
nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã
hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng
này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung
cấp.
1.1.3.2. Chức năng ni dưỡng, giáo dục
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình cịn có trách nhiệm ni
dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Chức
8
Hồ Chí Minh. (2011). Tồn tập, tập 12. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr. 300.
9
năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời
thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi
người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những
hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong
cuộc đời mỗi người. Vì vậy, gia đình là một mơi trường văn hóa, giáo dục.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và tồn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trị nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể
trong việc ni dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng,
mặc dù, trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đồn thể, chính quyền
v.v..) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục của
gia đình. Vì vậy, giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Cần tránh
khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc ngược
lại. Bởi cả hai khuynh hướng hướng ấy, mỗi cá nhân đều khơng phát triển tồn diện.
Thực hiện tốt chức năng ni dưỡng, giáo dục, địi hỏi mỗi người làm cha, làm
mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối tồn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc
biệt là phương pháp giáo dục.
1.1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của
gia đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy
nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
Gia đình cịn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng
tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng
như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của
các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của mỗi
thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một mơi trường văn
hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trì sở thích,
sắc thái riêng của mỗi người.
10
Tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có
sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản
xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và mối quan hệ của kinh tế gia
đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng khơng hồn tồn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu
vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của
gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia
đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào q trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự
giàu có của xã hội.
1.1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Với việc duy trì tình cảm giữa các
thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi
quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị
phá vỡ.
Ngồi những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của
dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi
sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia
đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật,
chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công
dân.
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế - xã hội là sự phát triển
của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản xuất là quan hệ sản
11
xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất mới ấy có cốt lõi là chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, hay ta nói cách khác đi là dựa trên chế độ công hữu
về những tư liệu sản xuất chủ yếu, từ đó từng bước hình thành và củng cố thay thế chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Khi chế độ tư hữu bị xóa bỏ và xác lập quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất thì nguồn gốc của chế độ người áp bức bóc lột người, sự bất
bình đẳng giữa người với người trong xã hội gần như bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho
việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong xã hội, đó là bình đẳng giữa nam và nữ, giữa
vợ và chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong
trong xã hội.
Bên cạnh xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, việc xóa bỏ chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất cũng đồng thời là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình
thành lao động xã hội trực tiếp. Lao động xã hội hay lao động trong gia đình mà người
phụ nữ tham gia thì lao động của họ cũng đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến
bộ của xã hội.
Ph.Ăngghen từng đã nhấn mạnh: “Tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung,
thì gia đình cá thể sẽ khơng cịn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân
biến thành một ngành lao động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở thành cơng việc của
xã hội”9. Vì thế, phụ nữ và đàn ơng có địa vị bình đẳng với nhau trong xã hội. Xóa bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa
trên cơ sở tình u chứ khơng phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính tốn
nào khác.
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
việc thiết lập chính quyền nhà nước mới, đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, quyền lực thuộc
về nhân dân lao động, mà nhân dân lao động ở đây khơng có sự phân biệt giữa nam và
nữ.
9
C.Mác, & Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.118.
12
Khi có nhà nước xã hội chủ nghĩa này cũng chính là cơng cụ hữu hiệu nhất để
cho giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động xóa bỏ những tàn dư cũ, luật lệ cũ,
những phong tục cổ hủ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc
giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền xơ viết là chính quyền đầu tiên và
duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tự sản, để tiện,
những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng khơng bình đẳng với nam giới, đã
dành đặc quyền cho nam giới... Chính quyền xơ viết, một chính quyền của nhân dân
lao động, chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hủy bỏ tất cả những đặc
quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ông trong gia
đình...”10.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện các hệ thống pháp luật, trong đó có Luật
Hơn nhân và gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của cơng
dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc
làm, y tế, bảo hiểm xã hội... Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, hệ thống
pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành
gia đình mới. Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa hồn thiện thì
việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình cịn hạn chế. Vì vậy, ta có thể
nói rằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia
đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2.3. Cơ sở văn hóa
Bên cạnh những cơ sở về kinh tế, chính trị, xã hội thì cơ sở văn hóa trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng có những sự biến đổi khơng ngừng.
Những giá trị văn hóa trong thời kỳ quá độ này được xây dựng trên nền tảng hệ
tư tưởng chính trị của giai cấp cơng nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống xã hội nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội. Cũng chính hệ tư
tưởng chính trị của giai cấp công nhân này tạo ra điều kiện để từng bước loại bỏ
những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại.
10
V.I. Lênin. (1977). Tồn tập, Tập 40. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.182.
13
Tiếp theo, thực hiện sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và cơng
nghệ góp phần thực hiện nhiệm vụ nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và
công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến
thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới,
điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi
trình độ dân trí được nâng cao, các chuẩn mực mới từ từ được thiết lập thì những tư
tưởng cổ hủ, lạc hậu sẽ từ từ bị loại bỏ.
Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi liền với cơ sở kinh tế, chính
trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
Chế độ hôn nhân tiến bộ biểu hiện trên ba khía cạnh là: hơn nhân tự nguyện, hơn
nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, hơn nhân được đảm bảo về mặt pháp lý.
1.2.4.1. Hôn nhân tự nguyện
Hôn nhân tiến bộ là hơn nhân xuất phát từ tình u giữa nam và nữ. Khi hơn
nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước phát triển
tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “...nếu nghĩa vụ của vợ và
chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau há chẳng phải là
kết hôn với nhau và khơng được kết hơn với người khác” 11. Vì tình yêu là khát vọng
của con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng trên cơ
sở tình u thì chừng đó, trong hơn nhân, tình u, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế.
Hơn nhân tự nguyện là xuất phát từ hai người yêu nhau, nam nữ có quyền tự do
trong việc lựa chọn người kết hôn, không bị ràng buộc bởi sự sắp đặt của bất kỳ ai, bao
gồm cả cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm,
hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có trách nhiệm trong việc kết hơn.
Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hơn nhân dựa trên cơ sở tình u mới hợp đạo
đức thì cũng chỉ riêng hơn nhân trong đó tình u được duy trì, mới là hợp đạo đức
mà thơi... và nếu tình u đã hồn tồn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át
đi, thì ly hơn sẽ là điều hay cho cả đơi bên cũng như cho xã hội” 12. Hôn nhân tiến bộ
11
12
C.Mác, &Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.125.
C.Mác, &Ph.Ăngghen. (1995). Tồn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.128.
14
cịn bao hàm cả quyền tự do ly hơn khi tình u giữa nam và nữ khơng cịn nữa, đó là
điều tốt cho cả hai bên cũng như xã hội. Tuy nhiên, nói vậy khơng có nghĩa là hơn
nhân tiến bộ khuyến khích việc ly hơn, vì ly hơn sẽ để lại hậu quả nhất định cho cả vợ,
chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly
hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục
đích vụ lợi.
1.2.4.2. Hơn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Hơn nhân một vợ một chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình u
chân chính vì bản chất của tình u là khơng thể chia sẻ được. Hơn nhân một vợ một
chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội lồi người, khi có sự thắng lợi của chế
độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy.
Ph.Ăngghen viết:“Việc chuyển sang chế độ tư hữu hoàn toàn được thực hiện dần
dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một vợ một chồng.
Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội” 13. Ph.Ăngghen vạch rõ
chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên khơng dựa trên những điều
kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế, tức là trên thắng lợi của sở hữu tư
nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy và tự phát.Tuy nhiên, trong các xã hội
trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ. Nhưng ngày
nay, nó là sự bắt buộc cho cả hai phía trong hơn nhân, cả nam lẫn nữ.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ
một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tơn trọng
lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang
nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những
vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu
khác vv.. Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung
của gia đình như ăn, , ni dạy con cái... nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu
thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy
13
C.Mác, &Ph.Ăngghen. (1995). Tồn tập, tập 21. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, tr.134.
15
bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có
những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích
riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được
mọi người quan tâm, chia sẻ.
1.2.4.3. Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp,
nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước
vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội vì quan hệ hơn nhân, gia đình
thực chất khơng phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan hệ xã hội, điều đó
được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tơn trọng trong tình tình
u, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và
ngược lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết
hôn, tự do ly hôn để thỏa mãn những nhu cầu khơng chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc
của cá nhân và gia đình.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hơn và
tự do ly hơn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách
đầy đủ nhất.
16
TĨM TẮT CHƯƠNG 1
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt được hình thành dựa trên cơ sở hơn
nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền
và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
Giữa gia đình và xã hội tồn tại sự tương tác, sự thống nhất hữu cơ với nhau. Gia
đình là sự sống của xã hội, là tế bào hạnh phúc góp phần phát triển hài hịa xã hội. Bên
cạnh đó, gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế xã hội nhỏ nhất nhưng đa
dạng và phong phú trong quá trình vận động và phát triển của nó, vừa tuân thủ quy
luật và cơ chế chung của xã hội. Đó là cầu nối giữa thành viên của gia đình với xã hội
nhiều thơng tin bên ngồi. Song song với những điều trên, gia đình cịn là tổ ấm đem
lại hạnh phúc cho mỗi con người trong gia đình, các cá nhân được đùm bọc về mặt vật
chất, về tâm hồn, về giáo dục, trẻ thơ có điều kiện an tồn để lớn khơn, người lớn có
chỗ nương tựa về tinh thần. Ở đó thường diễn ra mỗi quan hệ và sâu đậm nghĩa tình vợ
chồng, cha con, anh em, đó là những người đồng tâm, đồng cảm, và nâng đỡ nhau suốt
cả cuộc đời.
Hiện nay, gia đình đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau nhưng cơ bản thì bao
gồm các chức năng sau: chức năng tái sản xuất con người, chức năng nuôi dưỡng, giáo
dục, chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng và chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh
lý, duy trì tình cảm gia đình.
Chính vì những lẽ ấy, việc xây dựng gia đình mới là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên bốn cơ sở chủ yếu: cơ
sở kinh tế - xã hội, cơ sở chính trị - xã hội, cơ sở văn hóa và chế độ hôn nhân tiến bộ.
17
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Gia đình hạnh phúc và những vấn đề liên quan đến gia đình hạnh phúc
2.1.1. Khái niệm về gia đình hạnh phúc
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau khi đưa ra các khái niệm về gia đình hạnh
phúc bởi lẽ trong mỗi cá nhân sẽ có những suy nghĩ khác nhau về khái niệm này.Nói
một cách khái quát nhất, khái niệm gia đình hạnh phúc được hiểu là sự hài lịng của
các thành viên gia đình về tổng hịa các yếu tố khách quan, chủ quan về đời sống vật
chất, sức khỏe, đời sống tinh thần, mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ của gia
đình với dịng họ, cộng đồng.14
2.1.2. Các vấn đề liên quan đến gia đình hạnh phúc
2.1.2.1. Vai trị của gia đình hạnh phúc đối với xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nịi giống, mơi trường lưu giữ, giáo
dục, trao truyền các giá trị văn hoá dân tộc cho các thành viên trong gia đình. Xây
dựng gia đình hạnh phúc chính là tạo nền tảng để xây dựng xã hội hạnh phúc, là vấn
đề hết sức hệ trọng của dân tộc ta.Xây dựng gia đình hạnh phúc vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển bền vững đất nước.15
Một gia đình hạnh phúc, hồ thuận sẽ tác động tới cộng đồng, thúc đẩy xã hội
vận động tạo ra sự biến đổi và phát triển. Gia đình hạnh phúc bền vững khơng chỉ có
sự "no ấm, bình đẳng, tiến bộ" mà còn là nơi hội tụ tổng thể những nét đẹp văn hố
của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Xã hội phát triển bền vững bắt nguồn từ những
gia đình biết lưu giữ truyền thống của ông cha để lại và tiếp thu những cái mới để phát
triển theo xu hướng của thời đại.
14
Trần Tuyết Ánh. (27/06/2021). Tiêu chí nào đảm bảo để gia đình hạnh phúc? Truy cập từ
/>15
Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
cơng tác xây dựng gia đình trong tình hình mới.
18
Thực tiễn đã chứng minh, gia đình yên ấm hạnh phúc là điều kiện, tiền đề quan
trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách và bảo đảm cho lao động sáng tạo đạt
hiệu quả cao nhất.
2.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá gia đình hạnh phúc
Một là, tiêu chí về ứng xử trong gia đình:
(1) Các thành viên trong gia đình thực hiện ngun tắc: Tơn trọng - Bình đẳng Yêu thương - Chia sẻ - Gương mẫu.
(2) Các mối quan hệ ứng xử trong gia đình được đảm bảo: Ứng xử vợ chồng:
Nghĩa tình, yêu thương; Ứng xử của cha mẹ với con, ông bà với cháu: Gương mẫu,
yêu thương; Ứng xử của con với cha mẹ, cháu với ông bà: Hiếu thảo, lễ phép; Ứng xử
của anh, chị, em: Hịa thuận, chia sẻ.
Hai là, tiêu chí về điều kiện vật chất:
(1) Các thành viên trong gia đình có việc làm.
(2) Gia đình có thu nhập ổn định và đảm bảo cuộc sống.
(3) Có nơi ở/nhà ở đủ đáp ứng nhu cầu; Có các tiện nghi sinh hoạt đầy đủ.
Ba là, tiêu chí về điều kiện tinh thần:
(1) Các thành viên trong gia đình thể hiện sự tơn trọng lẫn nhau, đảm bảo quyền
tự do, bình đẳng giữa các thành viên.
(2) Quyền tự do tín ngưỡng được tơn trọng;
(3) Gia đình được sum vầy, đồn tụ;
(4) Các thành viên trong gia đình u thương, đùm bọc lẫn nhau;
(5) Có điều kiện để tham gia các không gian công cộng dành cho việc vui chơi
giải trí.
(6) Quan hệ họ hàng, nội ngoại tốt; quan hệ láng giềng và cộng đồng tốt; quan hệ
bạn bè, đồng nghiệp tốt.
Bốn là, tiêu chí về giáo dục:
(1) Các thành viên trong độ tuổi đi học được đến trường.
19
(2) Gia đình ln đề cao việc học hành, nâng cao hiểu biết bản thân.
Năm là, tiêu chí về y tế và chăm sóc sức khỏe:
(1) Các thành viên trong gia đình tham gia bảo hiểm y tế và được chăm sóc sức
khỏe.
(2) Được khám sức khỏe định kỳ và được điều trị khi bệnh.
(3) Mỗi cặp vợ chồng có đủ hai con.
(4) Các thành viên tham gia rèn luyện thể dục, thể thao.
(5) Trẻ vị thành niên, thanh niên, công nhân, cặp đôi tiền hôn nhân tiếp cận thông
tin, trang bị kiến thức về tiền hơn nhân, giới tính, tình dục, sức khỏe sinh sản, bình
đẳng giới trong gia đình.
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình hạnh phúc ở nước ta thời gian qua
Việt Nam đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chịu nhiều ảnh hưởng
khách quan lẫn chủ quan như: kinh tế phát triển, cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn
liền với kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế, các chính sách của Đảng và Nhà nước, nền
khoa học công nghệ tiến triển mạnh mẽ,... nên việc xây dựng gia đình ở nước ta đã
khác so với giai đoạn trước. Tuy vẫn giữ lại nhiều nét văn hóa của dân tộc, nhưng kể từ
khi “mở cửa”, nhiều điều mới đã du nhập vào nước ta gồm: sản phẩm, văn hóa, phong
tục, tri thức, tư tưởng,... Có điều được tiếp thu cũng có cái bị bác bỏ do khơng phù hợp.
Đối với việc xây dựng gia đình hạnh phúc thời kỳ quá độ ở nước ta cũng chịu ảnh
hưởng ít nhiều, đạt được thành tụ và tương ứng cũng chịu nhiều hạn chế.16
2.2.1.
Những mặt đạt được và nguyên nhân
2.2.1.1. Mặt đạt được
a. Tiêu chí về điều kiện vật chất
Cùng với sự chuyển biến của thời đại, kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển,
càng có nhiều ngành nghề mới ra đời đảm bảo vấn đề việc làm cho nhóm tuổi lao
động, giúp ổn định đời sống vật chất của mỗi cá nhân trong một gia đình. Ngay cả
16
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, tr. 137
20
nhóm người khuyết tật, có hồn cảnh khó khăn cũng được cải thiện nhờ vào sự hỗ trợ
của các tổ chức xã hội hay các hoạt động từ thiện từ những mạnh thường quân. Mọi
đối tượng đều được Nhà nước tạo điều kiện việc làm, tránh để một bộ phận người lãng
phí sức lao động, tạo áp lực kinh tế cho gia đình và xã hội.
Xã hội hiện nay khuyến khích mọi người đều đi làm, tất cả mọi người cùng có
việc làm giúp thúc đẩy nguồn lực kinh tế gia đình, khơng cịn tình trạng một người
gồng gánh kinh tế cho cả gia đình và việc cân bằng kinh tế gia đình giữa vợ chồng
khiến đơi bên bình đẳng hơn khi cùng ra một quyết định nào đó của gia đình, khơng
cịn tồn tại khoảng cách do sự phụ thuộc kinh tế, việc này có thể được xem như là một
tiền đề quan trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc bền vững. Thu nhập
của mỗi cá nhân tăng, tức thu nhập hộ gia đình tăng, việc này giảm rất nhiều áp lực về
mặt vật chất cho mỗi gia đình so với thời kỳ kinh tế khủng hoảng, đình trệ trước đây
của đất nước.
b. Tiêu chí về điều kiện tinh thần
Cuộc sống vật chất ổn định, khiến mọi người có nhiều thời gian hơn để chăm
sóc gia đình, ni dưỡng đời sống tinh thần. Các buổi tụ họp, sum vầy cuối tuần hay
vào các buổi sinh nhật đánh dấu sự trưởng thành của con cháu, những lễ mừng thọ cho
các cụ trong nhà và cả những ngày lễ lớn được diễn ra thường xuyên giúp tình cảm gia
đình thêm gần gũi, do hầu hết mọi người ngày nay đều bận việc và có cuộc sống riêng,
nên họ thường ít giáp mặt để quan tâm nhau, và chính những cuộc hội họp này là dịp
mà họ tạm gác những bận rộn bên ngoài để ở cạnh những người thân trong gia đình.
Kinh tế đất nước phát triển, khiến các địa điểm vui chơi giải trí cũng mọc lên
như nấm, không gian công cộng rộng lớn và đa dạng giúp nhiều gia đình nhỏ vui vẻ
trải qua cuối tuần, tạo nên những hồi ức đẹp cho các thành viên cho gia đình, đặc biệt
là hình thành thế giới nội tâm phong phú cho trẻ nhỏ.
Trong xã hội hiện đại, với tư tưởng tiến bộ, mọi người khơng cịn bị gị bó bởi
lối tư duy cũ, giúp mọi người trong gia đình trở nên gần gũi hơn, khơng cịn q quan
trọng cấp bậc như trước. Điển hình là các thành viên trong gia đình đều có quyền nêu
lên ý kiến trong chuẩn mực cho phép, mọi người đều dần học được cách tôn trọng suy
nghĩ của nhau hơn. Cha mẹ thời hiện đại cũng trao cho con của mình một thế giới tự
21
do, một thế giới mà con trẻ tự quyền quyết định con đường bản thân sẽ bước đi và phải
chịu trách nhiệm cho sự lựa chọn của mình, khơng cịn tình trạng cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó, cha mẹ lúc này là người hướng dẫn, đưa ra những kinh nghiệm mà họ đã vấp
phải khi trưởng thành, chỉ ra những cám dỗ mà các con nên đề phòng và tránh xa.
Sự tôn trọng hiện diện giữa các thành viên trong gia đình cũng bao gồm cả tơn
trọng tín ngưỡng. Việc mở cửa kinh tế đã giúp việc du nhập văn hóa, tín ngưỡng nước
ngồi trở nên thơng thuận và ngày càng nhiều. Mỗi cá nhân đều có quyền tự do theo
đuổi và nhận được sự tôn trọng từ các thành viên trong gia đình, điển hình nhiều con
cháu ngày nay vẫn thường đi lễ chùa cùng với các mẹ hay các ngoại, các nội.
Ngoài ra, các mối quan hệ bên ngồi như họ hàng nội ngoại tốt, hàng xóm láng
giềng thân thiện, bạn bè đồng nghiệp vui vẻ, cũng được mọi người quan tâm bồi
dưỡng ít nhiều để thêm màu cho cuộc sống phong phú, giúp đời sống tinh thần trở nên
tồn diện và tốt đẹp.
c. Tiêu chí về ứng xử trong gia đình
Một gia đình muốn hạnh phúc, bền vững thì khơng chỉ dựa vào trách nhiệm
thuần túy hay điều kiện vật chất ổn định, mà còn phải thêm vào đấy những phần tình
cảm đẹp đẽ giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái, ông bà – cháu, hòa hợp giữa tự do mỗi
cá nhân và hạnh phúc của cả gia đình. Đây cũng chính là yếu tố quan trọng, quyết định
sự bền vững, hạnh phúc của một gia đình.17
Việc trọng nam khinh nữ đã trở thành một lối tư duy cổ hủ, lạc hậu, khơng cịn
thích hợp với tư tưởng thời đại mới. Ngày nay, cách nghĩ đúng đắn là tôn trọng người
tài đức, khinh thường kẻ hèn ác, giới tính khơng phải là chuẩn mực để đánh giá một
người, chính nhân cách, tài năng của một người mới là thứ nên được xem trọng. Điển
hình là hầu hết các ngành nghề hiện nay đều có cả nam lẫn nữ và các doanh nghiệp lớn
thì thường để mắt đến nhân tài, có thể làm giàu cho cơng ty.
Khơng chỉ ngồi xã hội, mà trong gia đình việc bình đẳng giữa vợ chồng cũng
trở nên thường tình. Đôi bên tôn trọng nhau, cùng bàn luận về những quyết định quan
trọng trong gia đình đã trở thành một nét chuyển biến tốt đẹp trong quan hệ hôn nhân.
17
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, tr. 140
22
Sự bình đẳng, tơn trọng xuất phát từ cả hai phía khiến mối quan hệ giữa vợ chồng trở
nên vững vàng, tình cảm bền lâu. Chứng kiến sự hịa thuận của cha mẹ cũng sẽ hình
thành cảm xúc tích cực từ nhỏ cho bé trai về việc tôn trọng phái nữ và cách sống tự tin,
hoạt bát cho bé gái.
Khoảng cách thế hệ rút ngắn hơn so với thời đại trước, khiến mọi người trong
gia đình gần gũi nhau hơn. Ơng bà, cha mẹ khơng chỉ có tình u thương dành cho con
cháu như nhiều năm về trước, mà còn thêm vào cả sự thân mật giữa ông bà với cháu,
giữa cha mẹ với con. Đồng thời, cũng không làm mất đi nét đẹp truyền thống của dân
tộc, con cháu đối với người lớn hiếu thảo, lễ phép. Ngoài ra, quan hệ anh chị em trong
gia đình cũng được bồi dưỡng, giáo dục từ nhỏ, giúp trẻ học được cách chia sẻ, yêu
thương người bên cạnh, hình thành những nét tính cách tươi sáng, rạng rỡ khiến ai gặp
cũng sẽ quý mến.
d. Tiêu chí về giáo dục
Trong thời đại hiện nay, việc học là điều cơ bản, xây dựng nền tảng vững chắc
thì mới có thể tìm hiểu chun sâu, mở rộng sự lựa chọn của bản thân. Hiểu rõ điều
này, nên trẻ em đến tuổi đều được cho đến trường học tập, không phân biệt nam nữ
hay dân tộc. Đồng thời, người lớn trong gia đình cũng cần học tập trau dồi thêm hiểu
biết của bản thân trong việc nuôi dạy trẻ, kết hợp với nhà trường để kịp thời sửa đổi tư
duy của bé, hay điều chỉnh tâm lý bé đúng cách, tránh hình thành những nét tính cách
tiêu cực, khơng tốt cho sự phát triển của trẻ.
Ngồi ra, rất nhiều bậc phụ huynh không chỉ quan tâm đến việc học tập của con
mà còn chú trọng vào việc giáo dục tư tưởng từ tấm bé, bồi dưỡng nghệ thuật hay thể
thao để thư giãn nhằm giúp con trẻ có một đời sống khỏe mạnh tồn diện.
Hiện nay, cũng dần phổ biến cách nuôi dạy “vừa làm cha mẹ, vừa là bạn bè”,
phụ huynh có thể hiểu được cách nghĩ của con dưới tư cách là một người bạn, làm mờ
đi khoảng cách thế hệ sẽ khiến con trẻ dễ dàng cảm nhận được tình yêu, sự thân thiết
của cha mẹ. Dùng cách này để ở cạnh con giúp quan hệ giữa cha mẹ cùng con cái trở
nên gần gũi và thấu hiểu nhau hơn. Có thấu hiểu nhau thì mọi người sẽ hịa thuận, đây
là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc.
23
e. Tiêu chí về y tế và chăm sóc sức khỏe
Dù là trong thời đại nào thì việc tơn trọng trưởng bối cũng là cách cư xử đúng
đắn, thể hiện nét đẹp truyền thống của dân tộc. Nhà có cụ già như nhặt được báu vật,
ông bà là những người đi trước, có kinh nghiệm trong nhiều việc, có thể cho ta những
lời khuyên về cách sống. Ngày nay, sức khỏe người cao tuổi cũng là một vấn đề rất
được quan tâm và chú trọng trong gia đình: các buổi khám định kỳ, khoản chi cho bảo
hiểm, những dịch vụ du lịch cho người cao tuổi,… đấy là cách đảm bảo sức khỏe cho
các cụ và để các cụ hưởng thụ cuộc sống về chiều, cũng như thể hiện sự hiếu thảo với
người già trong gia đình. Ngồi ra, nhờ vào các chính sách của Nhà nước, việc mua
bảo hiểm cho các thành viên cũng được đảm bảo diễn ra hầu hết ở các đơn vị trường
học, nơi công tác. Việc mua bảo hiểm y tế đã trở thành điều bắt buộc đối với học sinh,
sinh viên tại trường học.
Cùng sự phát triển của nền y học hiện đại, các gia đình có thể chủ động trong
việc mang thai bao nhiêu lần và cả thời điểm sinh. Song hoạt động sản xuất dần
chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, nên việc có ít con sẽ càng thích hợp với đặc
điểm kinh tế của thời điểm hiện tại hơn, giảm nhiều áp lực về mặt vật chất trong gia
đình. Hầu hết các cặp vợ chồng đều hiểu được nên đối với việc sinh con thường chỉ
muốn ít con. Điều này, giúp các bậc phụ huynh có thể chăm con một cách tập trung
hơn về cả điều kiện sống lẫn tình cảm, hạn chế tình trạng bên trọng bên khinh, tránh
hình thành cho con trẻ những tính cách tiêu cực như: tự ti, u sầu, tự cô lập bản thân,…
Nhờ vào những chính sách xã hội, cơng tác gia đình, mong muốn sinh con trai của các
cặp vợ chồng đã giảm đáng kể so với nhiều năm về trước, thay vào đó nhiều gia đình
ngày nay lại mong muốn có con gái nhỏ trong nhà và nhiều ông bố lại càng cưng chiều
con gái hơn, do tính cách chung của con gái thường thích làm nũng, hay ở cạnh chăm
sóc khiến cha mẹ vui vẻ.18
2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được
a. Tiêu chí về điều kiện vật chất
18
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự
thật, tr. 138
24
Cơng tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho phần lớn người lao động
đã giúp cho rất nhiều gia đình thốt nghèo và nâng cao mức sống. Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có cơng với
cách mạng, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, khu vực khó khăn. 19 Cùng lúc đó, nền kinh
tế tồn cầu phát triển dẫn theo đời sống nhân dân được cải thiện, con người khơng cịn
bị cái ăn, cái mặc chi phối như vào thời kỳ đầu của đất nước, cuộc sống tinh thần ngày
càng được quan tâm và chú trọng.
b. Tiêu chí về điều kiện tinh thần
Sau nhiều năm mở cửa kinh tế, tồn cầu hóa, điều kiện vật chất của người dân
nước ta trở nên cải thiện hơn so với thời kỳ trước đổi mới. Phần đông, mọi người đều
có cuộc sống sinh hoạt khá ổn định. Sau khi bỏ xuống gánh nặng do điều kiện kinh tế
gây ra, tinh thần mọi người trở nên thoải mái, vui vẻ hơn và cũng bước vào giai đoạn
chăm lo cho tinh thần của mình, quan tâm đến việc bồi đắp tình thân trong gia đình,
giúp cuộc sống trong gia đình trở nên chan hòa hơn
Nhờ vào sự phát triển của công nghệ kỹ thuật, cuộc sống mọi người ngày càng
thuận tiện hơn, với quỹ thời gian dư ra các thành viên trong gia đình cũng trở nên chú
trọng nhịp sống tinh thần của cá nhân và gia đình hơn. Khi cuộc sống ngày càng căng
thẳng do khối lượng công việc tăng lên tỉ lệ thuận với sự phát triển của xã hội, thì thị
trường hiện nay cũng có rất nhiều sản phẩm hàng hóa và dịch vụ với mục đích giúp
cho mọi người được giải trí, thư giản hơn. Nhiều trò chơi ra đời để phục vụ cá nhân
hay cả tập thể gia đình, giúp các thành viên gần gũi nhau hơn.
c. Tiêu chí về ứng xử trong gia đình
Nhờ vào những chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước đã thông qua
trong nhiều năm nay, cuộc sống của trẻ em, phụ nữ, người già trong gia đình mới được
cải thiện và đảm bảo khỏe mạnh nhiều hơn trước rất nhiều.
Giữa vợ chồng tồn tại mối quan hệ hôn nhân, sau khi có con sẽ tạo ra mối quan
hệ huyết thống cha con, mẹ con trong gia đình. Vì thế mới nói hơn nhân là quan hệ chủ
19
Ban Chấp hành Trung ương. (21/02/2005). Xây dựng gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Truy cập từ />25
đạo trong gia đình, rồi từ đó hình thành quan hệ huyết thống. Cho nên xây dựng hôn
nhân bền vững sẽ góp phần giúp gia đình n vui, hạnh phúc. Vào ngày 19/06/2014,
Quốc hội ban hành Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13, nhằm bảo đảm sự
bình đẳng giữa vợ - chồng, bảo vệ lợi ích cho đơi bên, tạo tiền đề cho một mối quan hệ
cân bằng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc.20
Trong Luật hơn nhân và gia đình cũng bao gồm các điều khoản nhằm bảo đảm
quan hệ hòa thuận đầm ấm giữa cha mẹ với con, ông bà với cháu và cả anh chị em với
nhau.
d. Tiêu chí về giáo dục
Luật trẻ em số 102/2016/QH13 được Quốc hội khóa XIII thơng qua ngày
05/4/2016, đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện các quyền trẻ em, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm đảm bảo tốt
hơn các quyền lợi hợp pháp cho trẻ em. Với 25 điều quy định, Luật trẻ em đã đảm bảo
cho mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể được sống, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục, vui
chơi giải trí,… một cách bình đẳng khơng phân biệt là dân tộc hay giới tính nào. Ngay
cả trẻ em vùng núi, những nơi giao thông bất tiện cũng được các đơn vị địa phương hỗ
trợ cắp sách đến trường. Nhằm giảm thiểu tối đa phần trăm thất học ở các vùng, đồng
thời đẩy mạnh việc gia tăng thành phần tri thức lên.
Bên cạnh bộ luật được ban hành thì chính bản thân người dân cũng nhìn rõ được
tầm quan trọng của việc học, chỉ khi có kiến thức chun mơn thì mới được tuyển
dụng làm việc với mức lương cao, trở nên thành cơng và sống một cuộc đời khối lạc
hơn.
Nhờ vào những điều luật, chính sách được ban hành những năm này, trẻ em đã
trở thành đối tượng được chú tâm bảo vệ trong xã hội, khơng cịn phải đối mặt với
nguy hiểm hay thiệt thịi, do khơng đủ hiểu biết hay kỹ năng ứng xử trước những tình
huống đặc biệt.21 Gia đình và trường học cũng chú trọng hơn trong việc hướng dẫn trẻ
20
Quốc hội. (19/06/2014). Luật hôn nhân và gia đình 2014. Truy cập từ
/>21
Huỳnh Thị Ly. (01/06/2021). 25 quyền của trẻ em được quy định trong Luật trẻ em. Truy cập từ
/>Thong-tin/pid/25852/cid/267?tid=25-quyen-cua-tre-em-duoc-quy-dinh-trong-Luat-Tre-em.html
26