Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

THUYẾT MINH DI SẢN CHÙA CẦU HỘI AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.74 KB, 5 trang )



Chùa cầu:

- Chùa Cầu – một biểu tượng của Phố cổ Hội An. Cầu được xây dựng cách đây khoảng
chừng 400 năm, nhưng cho đến nay vẫn còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn. Được gọi là
Chùa Cầu bởi vì ngay trên Cầu có một ngơi chùa do người Hoa xây dựng sau khi cầu hoàn thành
được 50 năm. Năm 1640, khi Nhật Hồng có chỉ dụ cho tất cả những người Nhật xa sứ về quê,
ai không về bị coi là tội phản quốc. Sau khi người Nhật về nước thì người Hoa đã tràn sang sống
ở cả 2 phố Khách và phố Nhật và vào khoảng năm 1653, người Minh Hương đã bỏ tiền ra xây
dựng thêm một ngôi chùa nhỏ bên cạnh cầu và người Việt Nam đã thiết kế và thi công.
- Cây cầu ra đời vào năm nào, cho đến nay vẫn còn chưa được xác định rõ ràng. Chỉ biết
rằng trong 1 thư tịch cổ của nước ta, tên gọi của nó là Nhật Bản kiều được tìm thấy vào năm
1617, có nghĩa cầu có thể ra đời trước niên đại đó và kể từ đó đến nay, cầu cũng trải qua nhiều
lần trùng tu.
- Có thể nói Chùa Cầu là một cơng trình kiến trúc đặc biệt của Hội An nói riêng và Việt
Nam nói chung. Cầu rộng 3 thước, dài 18 thước. Hai gian đầu hợp với 7 gian giữa tạo chữ
"Công". Cầu được làm theo kiểu "Thượng gia hạ kiều", có nghĩa là trên là nhà, dưới là cầu. Ở
Việt Nam, loại hình kiến trúc này cịn thấy ở nhiều nơi tại phía Bắc như ở các tỉnh Hà Tây, Hải
Hưng, Hà Nam với các cầu có mái như cầu Khúc Thoại, Phú Khê.... và tại miền Trung như ở
tỉnh Thừa Thiên Huế với cầu Thanh Toàn…
- Mái cầu lợp ngói âm dương, theo quan niệm về triết lý âm – dương của người Việt.
“Ngói âm – dương có thể hình dung như qủa dừa bổ đơi, mặt ngửa là âm, mặt úp là dương, hai
mặt úp vào nhau tạo thành ngói âm dương”. Với độ dày như vậy thì nắng cũng không xuyên qua
được mà lạnh cũng không xuyên qua được. Như vậy sẽ ấm về màu đông và mát về mùa hè. Điều
quan trọng là thể hiện triết lý âm dương, âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy, âm
dương hịa hợp là cội nguồn của sự vượng phát và vững bền, sự trường tồn của cơng trình cũng
như dân tộc và giống nịi.
- Bờ nóc đắp nổi hình "Lưỡng long tranh châu" cách điệu. Hai bên tường của cổng ra vào
ở phía tây và phía đơng cầu Nhật Bản ban đầu có hai câu đối chữ Hán đắp nổi, nhưng qua năm
tháng bị mờ dần để sau cùng bị mất hẳn và người Minh Hương đã thay vào đó bằng hoa văn đắp


nổi hình quả phật thủ rất sinh động. Dọc hai bên lối đi có bệ gỗ nhỏ và dài, ngày xưa làm nơi
bày bán hàng trong những ngày hội chợ.
- Chùa Cầu là sự kết hợp phong cách kiến trúc của ba nước Việt Nam, Nhật Bản, Trung
Quốc. Nếu nhìn từ bên ngồi, có thể thấy cầu mang dáng dấp phong cách kiến trúc Nhật Bản
thể hiện nổi bật ở hệ thống mái uốn cong mềm mại với độ dốc nhỏ gần như nằm ngang thì đứng
bên trong cầu cũng có thể nhận ra sắc thái kiến trúc của đất nước mặt trời mọc này thơng qua
những tấm ván được lát hình vịng cung ở mặt cầu. Vậy thì sắc thái kiến trúc Việt nó nằm ở đâu
trên cây cầu này? Đó chính là bộ vì kèo của cầu chính là nơi chứa đựng những nét độc đáo của


kiến trúc thuần Việt được thiết kế theo kiểu vì chồng dấu con sơn với sự biến thể thành vì cỏ
cua trông rất ngoạn mục ở hai gian đầu cầu. Rường nhà được thiết kế theo loại vì “chồng rường
giả thủ” vì trơng các rường chồng lên nhau và úp xuống như hình bàn tay nên được gọi là như
vậy. Bộ vì kèo của chùa được thiết kế theo mẫu kiến trúc thuần Việt với bộ vì "cột trốn kẻ suốt"
mà mộng của nó ăn liền với bộ vì kèo của cầu một cách hài hòa, điêu luyện. Kiến trúc Trung
Hoa chính là ngơi chùa nơi thờ vị thần Bắc đế trấn vũ. Bắc là hành thủy, Bắc cũng là vị thần
phương Bắc. Đây là vị thần trị thủy của người Hoa nói roeeng và cư dân Hội an nói chung.
- Cầu và Chùa tuy là hai đơn vị kiến trúc đã được xây dựng cách nhau khoảng nửa thế kỷ,
nhưng khó mà phân biệt được những sai khác trong từng cấu kiện kiến trúc giữa chúng trong
một tổng thể di tích. Sự phức hợp kiến trúc này là một đặc điểm độc đáo của kho tàng kiến trúc
Việt Nam, duy nhất có mặt tại đơ thị cổ Hội An, một chứng minh hùng hồn cho sức sáng tạo của
phong cách kiến trúc Hội An, do các nghệ nhân Kim Bồng đã tạo ra trong những thế kỷ trước
đây.
- Cầu và chùa tuy là hai cá thể riêng biệt nhưng đã được gắn vào nhau thành một phức
hợp thống nhất hình chữ "Đinh" và cũng từ đó ra đời cái tên gọi mới "Chùa Cầu" thân thiết đối
với cư dân cảng thị Hội An. Vào đầu thế kỷ 17, Mạc Phủ đã ra chiếu chỉ buộc những công dân
Nhật Bản đang ở nước ngồi phải hồi hương. Trước tình hình đó, cộng đồng người Việt và
người Minh Hương - người Hoa tự nguyện gia nhập quốc tịch Việt Nam - ở Hội An đã tiếp quản
cầu Nhật Bản. Và sau đó chừng nửa thế kỷ, vào khoảng năm 1653, người Minh Hương đã bỏ
tiền ra xây dựng thêm một ngôi chùa nhỏ bên cạnh cầu và người Việt Nam đã thiết kế và thi

cơng cơng trình tín ngưỡng này. Cho nên có thể nói, cho đến thời điểm bấy giờ, ngoài kiến
trúc của Nhật Bản và Việt Nam, cầu đã có thêm sắc thái kiến trúc của Trung Quốc.
- Chùa và Cầu được phân ranh giới bởi những vách gỗ và bộ cửa "thượng song hạ bản",
tạo nên hai không gian kiến trúc riêng biệt: bên ngoài, cầu là đường giao thông công cộng, bên
trong, chùa là nơi thờ tự thâm nghiêm, chỉ mở cửa vào những ngày tế lễ nhất định.
- Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu nhân chuyến tuần du tại thương cảng Hội An biết
rằng cầu do những người Nhật Bản xây dựng nên đã đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với
ý nghĩa là "cầu của những người phương xa xây dựng”. Và đó là lý do có bức hồnh phi sơn
son thếp vàng chạm nổi ba chữ vàng lộng lẫy "Lai Viễn Kiều" với dấu ấn của Chúa Quốc
Nguyễn Phúc Chu phía bên trái được treo phía trên cửa chùa.
- Dưới bức hồnh phi là đơi "mắt cửa" trịn sơn đỏ được tạo hình bốn bơng cúc bao quanh
bởi các xốy lưỡng nghi truyền thống Việt Nam. Khơng có gì chủ quan khi khẳng định rằng mắt
cửa là hình tượng đặc thù và duy nhất của phố cổ Hội An nói chung của Chùa Cầu nói riêng.
+ Về cấu tạo, mắt cửa là một khoanh gỗ dài chừng 30 – 35 cm, được chia làm hai phần:
Phần thân to, thường trịn có đường kính từ 15 – 20 cm, dày từ 5 – 8 cm, phần chi như chốt có
mặt cắt hình chữ nhật, dài chừng 25 – 27 cm. Có lẽ ban đầu, đây chỉ là hai chốt cửa có cơng


năng kiến trúc là chính, vì hai chốt này xun qua hai thanh gỗ đà thượng của bộ cửa đi và khóa
chặt chúng lại để hai cánh cửa bản có chỗ gắn bản lề.
+ Về hình dáng, mắt cửa thường có dạng hình trịn, hình trịn có cắt khấc, hình bát giác,
hình lục giác, hình vng, hình bán cầu,… Thường người ta hay chọn mắt cửa hình trịn, cắt
khấc thành 6 hoặc 8 đầu cánh hoa xốy trịn. Có mắt cửa được khắc chữ “thọ” với 5 con dơi bao
quanh nhằm cầu mong “ngũ phúc viên thọ”. Có mắt cửa lại được xem như những bông hoa cúc
mãn khai,…
+ Từ công năng chủ yếu như vậy, dần dần người ta tạo hình, tạo dáng rồi chạm trổ trang
trí các đề tài phù hợp và cuối cùng là khốc lên mình chúng những ý nghĩa tâm linh. Mắt cửa
vừa là vật trang trí, vừa là vật “canh giữ” cho ngơi nhà. Theo niềm tin của người dân địa phương
thì mắt cửa mang ý nghĩa tâm linh nhiều hơn ý nghĩa về mặt kiến trúc. Với hình bơng cúc, hình
bát qi, hình mặt trời… mắt cửa trong tâm nguyện của người dân là tìm kiếm sự may mắn, an

lạc, xua đuổi những điều càn quấy, xấu xa. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, với ngơi nhà đơi mắt
cửa được ví như hồn của ngơi nhà. Đơi mắt có thể yểm tà ma, trừ thủy quái; Một yếu tố khác đó
là đôi mắt cửa được treo trước cửa ngôi nhà như để chào mừng, hoan nghênh khách đến nhà, có
thể nhìn được người ngay cũng như kẻ gian; đôi mắt cũng như là “vị thần bảo hộ”, vị thần xứ sở
của gia đình ln dõi theo các thành viên mỗi khi ra khỏi nhà để bảo vệ và nhắc nhở mọi người
luôn giữ đạo nhà, giữ thuần phong mỹ tục của gia đình và khi các thành viên quay về thì đôi mắt
lại như là người kiểm chứng cho cái đạo lý ấy. Ý nghĩa tâm linh đó chính là nhãn quan, là tầm
nhìn, là sự định hướng phát triển đi lên cho một cơng trình, đồng thời, đó cịn được xem như
một cơ quan giám sát vơ hình, có thể thấu hiểu, thấu nhìn mọi suy nghĩ và hành vi của các thành
viên gia đình trong quan hệ nội bộ.
+ Ngồi cặp mắt cửa chúng ta cịn thấy hai tấm vải điều. Trước đây vào những ngày lễ
Tết thì những tấm vải này mới được treo lên nhưng sau khi Hội An được cơng nhận là Di sản
văn hóa thế giới thì hầu như ngày nào cũng có khách ghé thăm vì vậy hai tấm vải điều được treo
thường xuyên. Trên hai cánh cửa của chùa cịn có hai họa tiết chạm nổi hình con sư tử và chiếc
quạt mang phong cách nghệ thuật Nhật Bản.
- Một nét đặc trưng nữa của kiến trúc chùa Cầu đó là Ngạch cửa. Ngạch cửa là một nét
đắc trưng trong nghệ thuật kiến trúc truyền thống của người Việt. Nhà cổ Hội An cũng khơng
nằm ngoại lệ. Nhìn thì Ngạch cửa chỉ là “khúc gỗ” chắn ngang cửa, tưởng như vô tri vô giác
nhưng nó lại mang trên mình rất nhiều giá trị văn hóa.
+ Trước hết, với chức năng rất đặc biệt là tránh rắn, rết, trơn trùng bị vào nhà, giữa cho
cánh cửa của ngơi nhà them chắc chắn. Ngồi ra, ngạch cửa còn dung để “chống trộm”. Những
người vào nhà với mục địch khơng đàng hồng khi đi ra sẽ vội vàng, vấp té.
+ Khơng chỉ vậy, ngạch cửa cịn có giá trị giáo dục văn hóa sâu sắc. Nó như lời nhắc nhở
chúng ta mỗi khi quét nhà vào dịp tết, nên giữ lại cái lộc đầu năm để giữ lấy sự may mắn cho cả


năm. Ngạch cửa cũng như là lời nhắc nhở những cô gái (nhất là những cô mới về nhà chồng) khi
quét nhà thì nên ghìm mũi chỗi xuống, tránh “hắt” quá xa về phía trước mà bị coi là mất lịch sự,
là thiếu ý tứ.
+ Đặc biệt, trong mỗi ngôi nhà của người Việt nói chung, tại các ngơi chùa và Chùa Cầu

nói riêng, gian chính giữa (chính điện) ln là nơi rất linh thiêng. Đó là nơi tiếp khách, nơi đặt
bàn thờ gia tiên của gia chủ (đối với nhà cổ) và là nơi đặt tượng Phật, tượng thần (đối với chùa)
và với Chùa Cầu thì đó là nơi đặt tượng thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ. Nếu không có ngạch cửa chắn
ngang khách cứ thẳng bước đi vào. Vào nhà, vào chùa mà đi mạnh, hay chạy (gọi là vơ phép),
nhưng nếu có ngạch cửa chắn ngang khách sẽ đi chậm lại – đi chậm là thể hiện sự lễ phép và
muốn vào trong phải cúi đầu để bước qua, điều đó cũng có nghĩa là khách đã chào gia chủ đã bái
gia tiên khi vào nhà hay đã hành lễ với Phật với thần khi vào chùa
- Chiếc cầu trông nhỏ bé là vậy nhưng lại mang trên mình nhiều chức năng khác nhau:
+ Đầu tiên là làm cho giao thông thuận tiện. Các thương nhân người Nhật Bản đã xây
dựng cây cầu này nhằm nối liền phố Nhật ở phía Đơng và phố Khách ở phía Tây của cảng thị
Hội An. Trước năm 1640 ở phía bắc cầu là nơi giành cho người Hoa ở còn người Nhật ở phía
Nam cầu. Nhưng sau năm 1640 Sau khi Nhật Hoàng buộc người Nhật Bản phải trở về nước thì
lúc ấy tồn bộ hai bên cầu người Trung Quốc đều ở hết.
+ Cầu Nhật Bản không chỉ là một cơng trình giao thơng mà cịn là một kiến trúc tín
ngưỡng của người Nhật Bản nữa. Điều này thể hiện qua một truyền thuyết chung của ba cộng
đồng người Việt, người Nhật, người Hoa khi họ cùng sinh sống tại cảng thị Hội An xưa.
Truyền thuyết kể rằng, xưa kia ở ngồi đại dương có một lồi thuỷ qi mà người Việt
gọi là Con Cù, người Nhật gọi là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long. Đầu của nó ở Nhật Bản,
đi của nó ở Ấn Độ và lưng của nó vắt qua khe ở Hội An. Mỗi khi con thuỷ qi đó quẫy mình
thì nước Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để người Nhật, người Hoa, người Việt
được bình n làm ăn bn bán.Vì vậy, để yểm con thuỷ qi đó, người Nhật đã thờ hai
tượng thần bằng gỗ là thần Khỉ và thần Chó, đặt ở hai đầu cầu. Tư thế đứng chầu của chúng
không chỉ cho thấy đây là những công trình tạo hình giàu tính nghệ thuật mà cịn thấy được bàn
tay tài hoa và khối óc sáng tạo của các nghệ nhân Việt Nam làng mộc Kim Bồng từ những thế
kỷ trước. Xung quanh việc thờ hai con vật này, cũng có nhiều giả thuyết được đưa ra. Có người
cho rằng chó Linh và Khỉ Gia Nhân vốn được coi như là các vị thần do Thái Dương Thần Nữ –
vị nữ thần hộ mệnh của người Nhật phái xuống làm thần hộ mệnh cho người qua cầu. Ngoài ra,
khỉ và chó, trong tâm thức dân gian của người Hội An thì chúng là những con vật thần giúp trừ
tà và đem lại bình an cho mọi người. Với niềm tin đó mà mới ra đời những câu ca dao dân gian
cổ mang đạm chất thi ca như:

Hội An có bốn nàng tiên,
Hai nàng tuổi Tuất hai nàng tuổi Thân...


+ Còn đối với người Nhật, sỡ dĩ người Nhật thờ Thần khỉ và thần chó ở hai đầu cầu vì
trong tín ngưỡng của đất nước này chúng là những con vật tổ linh thiêng và người Nhật tin rằng
chúng có đủ quyền lực để yểm trừ lồi thuỷ qi. Ngồi ra, có thể có một sự trùng hợp nào
chăng trong thời gian xây dựng cầu mà một số người đã cho rằng việc người Nhật dựng tượng
đơi chó và đôi khỉ trên cầu là để ghi nhớ năm khởi cơng và năm hồn thành của cầu vào năm
Thân và năm Tuất.
+ Trong chùa thờ một vị thần có nguồn gốc Trung Hoa là Bắc Đế Trấn Võ hay còn gọi là
Huyền Thiên Đại Đế - là vị thần chủ về phương Bắc. Theo thuyết Ngũ hành, phương bắc ứng
với hành thủy, nước, nên vị thần này có uy lực trị thủy, diệt trừ thủy quái. Tín ngưỡng này khởi
nguyên từ Trung Hoa. Ơng cịn là vị thần bảo hộ xứ sở, mang may mắn đến cho mọi người.
Ngoài ra, ơng được thờ ở đây cịn với mục đích chính là khống chế con Câu Long gây ra địa
chấn để mang lại sự bình yên cho cộng đồng người Hoa, người Việt, người Nhật sinh sống và
làm ăn trên cảng thị Hội An. Trên bệ thờ xây giữa chùa là bức tượng của vị thần đang đứng với
tư thế oai nghiêm, một chân đạp lên lưng một con rùa và một tay đang nắm chặt lấy thân một
con bò sát đang quằn quại, tượng trưng cho con Câu Long. Trên khám thờ có khắc đơi câu đối
chữ Hán ca ngợi uy danh của vị thần.
Hiển hách oai thần nơi khuyết Bắc
Rỡ ràng đức đế chốn trời Nam.
+ Ngoài ra, theo như một văn bia đặt ở đầu cầu, dựng vào thế kỷ 17 nên người ta còn biết
được cầu còn là nơi dừng chân nghỉ ngơi ngắm cảnh của khách bộ hành. Và thật ý nghĩa là mãi
cho đến ngày nay, cầu vẫn giữ được chức năng như thế.
+ Điều đặc biệt hơn nữa là đây không chỉ đơn thuần là một cây cầu hay một ngơi chùa
mà nó cịn là nơi bày bán hàng trong những ngày hội chợ và là nơi hội họp của xóm làng ngày
trước, nơi cho các đơi trai gái hẹn hị, với ước mơ về một cuộc sống giao hòa tương thân tương
ái của cộng đồng.
Có thể nói rằng, Chùa Cầu khơng những là một tích văn hóa lịch sử mà nó cịn là kết quả

của sự giao thoa của nhiều dịng văn hóa của dân tộc Đông Nam Châu Á và Viễn Đông, cửa sự
thẩm thấu và hòa điệu của nhiều phong cách nghệ thuật của Việt Nam, Trung Hoa và Nhật Bản
bởi nó là cây cầu mang âm hưởng kiến trúc của 3 nền văn hóa đã. Đây là một nhịp cầu nối liền
tình hữu nghị giữa ba dân tộc Việt Nam - Nhật Bản - Trung Hoa. Nó được ví như: Cây đa – Bến
nước – Sân đình của người Việt – một biểu tượng Văn hóa Việt Nam. Một điểm di tích ln
mang lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách gần xa
Ai đi phố Hội Chùa Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu sầu.



×