Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đề số 1: Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.93 KB, 16 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

TRUYỆN KIỀU – NGUYỄN DU
Đề số 1: Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu Nguyễn Du và Truyện Kiều (Tk)
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
* Khái niệm giá trị hiện thực và nhân đạo:
- Giá trị hiện thực: Nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng lấy chất liệu
từ thực tại cuộc sống. Nói ngắn gọn nghệ thuật hay văn chương đều phản ánh thực tại
và giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh
trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với
thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết
hiện thực trong các tác phẩm văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý
nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kỳ trên nhiều góc diện khác nhau hơn là các
hiện thực cụ thể.
Về căn bản, giá trị hiện thực gồm 2 đặc điểm chủ yếu sau:
+ Đặc điểm thứ nhất: làm rõ các hiện thực được nhà văn đưa vào trong tác
phẩm. Nói cách khác, tác phẩm đó phản ánh hiện thực gì? trong giai đoạn nào? Hiện
thực đó được thể hiện qua những nét tiêu biểu nào? Ý nghĩa của việc phản ánh hiện
thực ấy là gì?
+ Đặc điểm thứ hai: Con người điển hình. Đây là nét đặc trưng của tác phẩm
hiện thực. Lẽ đương nhiên gắn với mỗi thời kỳ, mỗi xã hội nhất định, bao giờ cũng có
mẫu người đại diện cho toàn xã hội. Mẫu người ấy được nhà văn khái quát và xây
dựng lại thành cách hình tượng điển hình trong tác phẩm của mình. Do vậy, muốn
làm rõ giá trị hiện thực của một tác phẩm nào đó, cần phân tích được hình tượng nhân
vật điển hình trên các phương diện: khắc họa ngoại hình, tính cách, hành động, lời


nói,….nhân vật đó đại diện cho tầng lớp, giai cấp hay lớp người nào trong xã hội? Nó
có thể hiện tiếng nói chung cho lớp người nào khơng? Bằng việc xây dựng hình
tượng nhân vật điển hình trong tác phẩm, tác giả mong muốn đạt được điều gì? Hay
nhân vật điển hình giúp tác giả thể hiện hiện thực được phản ánh như thế nào?
+ Nhân đạo: Tk
* Khái quát về giá trị hiện thực và nhân đạo trong Truyện Kiều:
Truyện Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực và nhân đạo sâu
sắc. Ai đó cho rằng thơ ca khó phản ánh hiện thực bởi đặc thù của thơ ca là tính trữ
tình, cảm xúc. Điều đó khơng đúng khi nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngòi bút
sắc sảo của nhà thơ đã miêu tả bộ mặt xã hội với những nhân vật điển hình, có diện
mạo và bản chất riêng, có sức sống mãnh liệt, có sức tố cáo mạnh mẽ, phơi bày bộ
mặt xấu xa tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời. Hơn nữa, Truyện
Kiều phản ánh thân phận con người, đặc biệt là sự cô độc, số phận mong manh của
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

những kẻ tài sắc, ca ngợi, tin yêu con người và còn là tiếng kêu thương đòi quyền
sống cho con người.

2. Giá trị hiện thực trong Truyện Kiều
2.1. Bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời:
- Khác với những nhà thơ khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…khi vấp
phải một thực tế cuộc sống khơng như ý mình mong muốn thì lui về ở ẩn, hoặc vui
thú điền viên hoặc hoài niệm về dĩ vãng hịng giữ cho lịng mình được trong sạch,
khơng vướng bụi trần. Nguyễn Du có những nỗi niềm nhớ cổ thương kim nhưng ơng
khơng hồn tồn rút lui khỏi cuộc đời mà vẫn sống gần với hiện thực. “Tư tưởng Nho

giáo về chính trị, tấm lịng nhân đạo chủ nghĩa, sự thông cảm với nhân dân, nhất là
luồng tư tưởng tiến bộ là luồng quán xuyến cả thời đại đã khiến cho trái tim, khối óc
của ơng bắt rễ sâu vào hiện thực” (Lê Trí Viễn).
- “Truyện Kiều” là một bản cáo trạng đanh thép đã tố cáo hiện thực xấu xa của
một xã hội phong kiến mục nát: Tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến,
từ bọn sai nha, quan xử kiện, cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng
thần”, rồi là bọn ma cơ, chủ chứa,… đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng
và phẩm giá con người… Có thể nói xã hội trong Truyện Kiều là một xã hội đầy rẫy
bọn quan lại ngạo ngược, tham lam, đầy những ma cơ, lưu manh, cơn đồ, khơng có
cơng lí và cơng bằng.
Điều này đã được thể hiện rõ nhất trong việc gia đình Kiều bị kẻ bán tơ vu oan.
Nhân cơ hội tên bán tơ đổ vạ cho nhà Kiều, bọn sai nha đã ập vào gia đình nàng với
hành động vơ vét khơng khác gì là những tên cướp. Khơng những thế, tiền bạc lại
chính là thứ có thể khiến chúng đổi chác sự thật chân chính và sự cơng bằng:“Có ba
trăm lạng việc này mới xong”. Chính những tên sai nha và đặc biệt là tên quan giấu
mặt đầu tiên trong truyện đã đẩy nàng bước vào những đau khổ đầu tiên của một cuộc
đời đầy giơng bão.
Những lần sau đó, Kiều cũng đã rơi vào tay “họ Hoạn danh gia” nhưng lại
hành xử không dựa trên bất kì một quy định nào của pháp luật. Chúng là thế lực
chuyên quyền, tự do và sẵn sàng “vả miệng bẻ răng” những ai chúng coi là gai trong
mắt. Hồ Tôn Hiến cũng là một tên quan vô cùng bỉ ổi và gian xảo. Hắn dùng mưu
mẹo để lừa Từ Hải ra hàng và bắt Kiều phải hầu rượu, gảy đàn để trang đời nàng lại
tiếp tục được viết vào những dịng ơ nhục, tủi hổ. Với sự tồn tại của bọn quan lại nói
trên, thử hỏi, cơng lí có chỗ để tồn tại?.. Nhưng quan lại khơng phải là thế lực đen tối
duy nhất trong bức tranh đời sống xã hội xám xịt.
- Góp vào bức tranh hiện thực trong Truyện Kiều còn là sự nhúng tay của thế
lực nhà chứa: Đọc “Truyện Kiều”, ta khó lịng có thể qn được sự ngang ngược
hồnh hành của phường buôn phấn bán hoa như tên Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn
nhụi, áo quần bảnh bao”, Tú Bà “thoắt trông nhờn nhợt màu da” và như Sở Khanh
với hình ảnh “Một chàng vừa trạc thanh xuân - Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu

2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

dàng”, Bạc Bà, Bạc Hạnh. Chính thế lực nhà chứa với những con người tàn nhẫn ấy
đã làm mọi con đường sống của Thúy Kiều đều là những vực thẳm hun hút vơ
phương thốt khỏi.
- Hiện thực xã hội đen tối được phơi bày qua quyền lực vạn năng của đồng
tiền: Đồng tiền ấy có khả năng đổi trắng thay đen, làm xã hội đảo điên (“Dẫu lòng
đổi trắng thay đen khó gì”), “Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”. Đồng tiền giẫm
lên lương tâm con người và xóa mờ cơng lí (“Có ba trăm lạng việc này mới xi”).
Đồng tiền có thể là phương tiện để đổi chác, mua bán con người đúng như
những món hàng. Ngay cả trinh tiết của một người con gái cũng có thể đem ra cân,
đong, đo đếm bằng tiền bạc:
Đã nên quốc sắc thiên hương
Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa
Về đây, nước trước bẻ hoa,
Vương tôn, quý khách ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
Cũng đà vừa vốn, cịn sau thì lời…
=> Sự tồn tại của những thế lực nói trên đã làm đảo lộn biết bao giá trị đạo đức vốn
có của con người để rồi cả xã hội như suy vi, thối nát đến tận cùng trước sự hiện tồn
của những thế lực ấy. Bởi thế, Truyện Kiều là máu, là nước mắt, là nỗi lòng, là trải
nghiệm cay đắng của Nguyễn Du:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trơng thấy mà đau đớn lịng
“Khơng phải là chuyện thương hải tang điền siêu hình mà là một cục thế đã

diễn ra, những điều đã được thể nghiệm. Chuyện bể dâu, những điều trông thấy ở đây
trước hết gắn liền với sự suy sụp khơng gì có thể cứu vãn được của xã hội phong kiến
đương thời, với nỗi căm giận tuyệt vọng trước sự thối nát của giai cấp thống trị, với
nỗi xót xa trước những đau khổ của con người, với những ước mơ hy vọng bừng sáng
lên nhưng rồi lại bị dập tắt.” (Lê Đình Kị). Cho dù nhà thơ đã lí giải số phận nàng
Kiều bằng một triết lí duy tâm thần bí:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Hoặc:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thơi”
Nhưng trong tồn bộ câu chuyện nhà thơ lại chỉ cho người đọc thấy cội nguồn
sâu xa của mọi nỗi đau khổ trong cuộc đời Kiều là thực tại đen tối của xã hội đương
thời. Xã hội đó khơng chỉ bất cơng, ngang trái mà còn là nơi ngự trị của bao thế lực
hắc ám chà đạp con người.
2.2. Hiện thực về thân phận con người trong Truyện Kiều
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Cuộc đời bất hạnh của Thúy Kiều: Câu chuyện trầm luân của Thúy Kiều
xưa nay biết bao người nói tới, lời thơ của Nguyễn Du đã đi qua hàng thế kỉ nhưng
bao nhiêu nỗi đoạn trường cùng những vần thơ đứt ruột kia như vẫn còn thổn thức
trong tim người đọc. Kiều không chỉ hiện thân cho nhan sắc, mà còn hiện thân cho tài
hoa và phẩm hạnh. Tài sắc của Kiều không phải thông thường mà là tuyệt đỉnh của

tài sắc. Một con người như vậy lẽ ra phải được sống cuộc đời tốt đẹp, hạnh phúc
nhưng xã hội bất cơng vơ đạo đó đã biến tất cả những phẩm chất cao quý của nàng
trở thành tai họa đối với chính bản thân nàng. Đang sống trong cảnh “Êm đềm trướng
rủ màn che - Tường đông ong bướm đi về mặc ai”, chỉ một phen gió thảm mưa sầu đã
hất tung nàng ra giữa cuộc đời giông tố. Sự thay đổi đó khơng thể gọi là hồn cảnh
đẩy đưa mà là tang thương dâu bể, điều không thể đã hóa thành có thể trong một xã
hội tàn bạo Hạnh phúc đã khơng đến với một người tài tình, hiếu hạnh như Kiều.
Thậm chí nàng cũng khơng được sống một cuộc đời bình yên. Nhan sắc bị đem ra cò
kè mua bán, tài năng bị đưa ra làm phương tiện mua vui, lòng hiếu nghĩa bị đem ra
đánh đổi thành tiền bạc, nhân phẩm bị chà đạp, giày xéo… Kiều đã nếm trải tất cả
những khổ nhục mà người phụ nữ thời trước có thể phải chịu đựng: Làm đĩ, đi ở, đi
tu, bị lừa gạt, bị đánh ghen…Không phải là nỗi khổ vì chiến tranh của người chinh
phụ, không phải là nỗi cay cực của người cung phi thất sủng, cũng không phải là nỗi
oan uổng của người tôi trung bị hàm oan…Trong con người Kiều, trong cảnh ngộ
Kiều, hình như tất cả những đau khổ tủi nhục của cuộc sống trong xã hội cũ đã dồn
lại và cất lên thành những tiếng đoạn trường. Thế nào là cái khổ của người bị cắt mối
duyên đầu, thế nào là cái khổ của người phải đem thân làm lẽ mọn, thế nào là cái khổ
phải cúi mình làm tơi đòi kẻ khác, thế nào là cái khổ phải làm nghề bn nguyệt bán
hoa…Kiều đều đã thấm thía và trải nghiệm. Còn một xã hội nào bạo tàn và bất nhân
hơn thế! Trong xã hội ấy, mọi giá trị đều bị đảo lộn. Quyền sống của con người đã bị
thủ tiêu hoàn toàn. Đạo đức phong kiến suy vi, phá sản đến độ tai ác là con người
muốn tự khép mình vào đó cũng khơng được. Muốn u đương chính đáng thì giữa
đường đứt gánh, trâm gãy bình tan, cha mẹ con cái muốn cùng nhau sum họp thì tai
bay vạ gió, phút chốc nên cảnh sinh li tử biệt. Dù chịu đem thân ngọc mình vàng cam
phận tì thiếp thì ngọc nát vàng phai, cam chịu tơi địi thì lại một phen mây gió tan
tành, mong nương nhờ cửa phật hứng giọt nước cành dương thì cửa từ bi nào thoát
cảnh trầm luân khổ ải… Nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, tất cả đã bị chôn vùi theo
mười lăm năm lưu lạc của đời Kiều. Giữa cuộc đời giông tố, thân phận con người trở
nên mỏng manh chẳng khác gì cánh bèo mặt nước.
- Nguyên nhân số phận bất hạnh của Thúy Kiều:

+ Thúy Kiều mang thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói
chung: Cũng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã phơi bày hiện thực đau đớn đến nhức
nhối lương tâm về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Xưa, Bạch Cư Dị
từng nói: “Nhân sinh mạc túc phụ nhân thân. Bách niên khổ lạc do tha nhân” (Đời
người không nên làm phụ nữ. Trăm năm sướng khổ do người khác quyết định). Cũng
vì vậy, đã hơn một lần Nguyễn Du cất tiếng kêu bi thiết:
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Đau đớn thay, phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
+ Thúy Kiều mang bi kịch của người tài sắc: Thân phận bất hạnh của Thúy
Kiều không phải chỉ bởi tại trời sinh ra là phụ nữ mà thân phận ấy là hệ quả tất yếu
của một xã hội xem thường giá trị con người. Không riêng Truyện Kiều mà “Long
Thành cầm giả ca”, “Độc Tiểu Thanh kí” đều nói đến “nỗi hờn kim cổ” của những kẻ
tài hoa phong vận. Hiện thực ấy đâu chỉ dành riêng cho người phụ nữ, hiện thực ấy
còn bao hàm cả những ai trót tài tình hơn thiên hạ. Chúng ta hiểu vì sao trong “Độc
Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du lại nhận mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu
Thanh, cũng như trong Truyện Kiều, nhà thơ phát biểu: “Cùng người một hội một
thuyền đâu xa”. Phải chăng đâu chỉ Đạm Tiên - Thúy Kiều mà cịn hàm nỗi xót xa
cho thân phận mình nữa? Đằng sau những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và
Truyện Kiều nói riêng, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận một hiện thực đau lịng:
Đó là sự qn lãng, vơ tình, sự vùi dập của thế nhân đối với cái tài, cái đẹp. Cái tài
không được trân trọng, cái đẹp không được nâng niu, đó là một xã hội bất cơng. Cái
tài bị vùi dập, cái đẹp bị giày xéo, đó là một xã hội vơ đạo. Chỉ có đơi mắt trơng thấu
sáu cõi mới nhìn ra, mới ý thức được hiện thực đáng sợ ấy. Nó trở thành nỗi nhức

nhối đối với mọi tài năng, một vấn đề xã hội đối với con người và thời đại.
3. Giá trị nhân đạo
3.1. Đồng cảm, xót thương:
Lịng nhân đạo trước hết chính là sự thương xót, đồng cảm, chia sẻ với những
người bất hạnh. Nguyễn Du là một bậc tài nhân sinh ra và lớn lên trong thời kì xã hội
có nhiều nhiễu nhương chính vì thế là một người nhạy cảm ơng nhìn thấy được
những thân phận con người sống lay lắt chịu tủi cực dưới chế độ thối nát. Hình ảnh
những người con gái “hồng nhan bạc mệnh” được khắc họa trong “Truyện Kiều”
khiến người đọc khơng khỏi xót thương, đồng cảm.
Nhân vật đầu tiên gợi lịng thương xót trong “Truyện Kiều” là Đạm Tiên.
Người kĩ nữ "nổi danh tài sắc một thì" nhưng mệnh bạc đau đớn "Sống làm vợ khắp
người ta. Hại thay thác xuống làm ma không chồng". Trong tiết thanh minh, Kiều đã
đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời thương cảm, bi ai thê thiết. Nhưng trong xã hội
thối nát kia khơng chỉ có một người con gái tài sắc bất hạnh như thế. Kiều khóc Đạm
Tiên là dự cảm cho cuộc đời bất hạnh của nàng hay cũng là tiếng khóc ai ốn, xót
thương cho chính mình và có thể là bao nhiêu phụ nữ khác.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu
lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã. Tội ác đổ lên đầu người con gái tài hoa khiến
nàng Kiều phải chịu cảnh chia ly, cảnh yên ấm trong gia đình bị làm cho tan nát.
Cuộc đời nàng bị vùi dập nơi bể sâu, thậm chí nàng phải mang nỗi oan khuất khó
lịng hóa giải. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đã chịu đủ mọi cay
đắng nhưng Nguyễn Du còn rất tinh tế khi nhận ra rằng họ cịn như món hàng trao
đổi mua bán
Cò kè bớt một, thêm hai,
Giờ lâu ngã giá, vàng ngoài bốn trăm.
5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Người con gái liễu yếu, đào tơ bị đòn roi vùi dập:
Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.
Thúy Kiều hai lần bị bán vào chốn lầu xanh, bán linh hồn thể xác vào nơi nhơ
bẩn:
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Cuộc đời nàng Kiều được viết đầy bằng những trang bi kịch. Ngòi bút Nguyễn
Du như nhỏ lệ và bộc lộ sự đồng cảm, thương xót vơ cùng khi miêu tả tâm trạng, nỗi
niềm của nàng Kiều:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lịng
Rồi khi Từ Hải mắc lừa Hồ Tơn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh
đàn trong bữa tiệc quan,… uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử.
Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: ‘thương
thay’, ‘hại thay’, ‘làm chi’, ‘cịn gì là thân’ tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân
đạo, khóc thương cho số đoạn trường:
Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp cịn gì là thân!.
3.2. Ca ngợi, tin u con người:
Khơng chỉ thương xót, đồng cảm với những con người bất hạnh, Nguyễn Du
còn ca ngợi và tin vào những phẩm chất tốt đẹp của họ, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng
của những con người ấy.
- Nguyễn Du đã đặc biệt ca ngợi về nhan sắc và tài năng xuất chúng của các
nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải, Kim Trọng…
+ Thúy Kiều và Thúy Vân đều là những người con gái có vẻ đẹp trời phú. Nếu
như Thúy Vân đẹp ở sự “trang trọng khác vời”, ở “khn trăng đầy đặn nét ngài nở
nang”, thì Kiều lại được miêu tả là người con gái có vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng

thành”:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Tài năng của Thúy Kiều thì khó ai có thể sánh kịp, vì “sắc đành địi một” mà
“tài đành họa hai” với đủ tài cầm kì thi họa, đặc biệt là tài đánh đàn “nghề riêng ăn
đứt hồ cầm một chương”:
Thơng minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
+ Không chỉ Thúy Kiều, Thúy Vân mà đối với bậc nam tử hán như Kim Trọng
và Từ Hải thì Nguyễn Du cũng lựa chọn những lời thơ đẹp để miêu tả ngoại hình, tài
năng của họ. Kim Trọng, một văn nhân, tài tử “vào trong nho nhã, ra ngoài hào hoa".
Là một “thiên tài” hội tụ của tinh hoa thời đại “ văn chương nết đất, thơng minh tính
trời". Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời, cỏ cây hoa lá một sức
sống đẹp tươi kỳ diệu:
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Nhân vật người anh hùng Từ Hải được miêu tả với vẻ đẹp mà từ ngoại hình
đến tài năng đều rất phi thường:
“Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đống anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”.
Từ là một anh hùng đầy chí khí "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!", đã lập
những chiến công hiển hách, lẫy lừng "Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam". Người

anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện.
- Đẹp về hình thức và tài năng chưa đủ, Nguyễn Du còn rất đề cao phẩm chất, nhân
cách của nhiều nhân vật trong tác phẩm, đặc biệt là Thúy Kiều.
+ Kiều và Vân khơng chỉ nổi bật về ngoại hình, họ cịn khiến người đời trân
trọng vì phẩm hạnh đoan chính, mực thước của mình “Tường đơng ong bướm đi về
mặc ai”.
+ Kiều cịn có lịng hiếu thảo mang nặng nghĩa tình với cha mẹ, nàng sẵn sàng
hy sinh cả cuộc đời mình để giải cứu cha và em “Làm con trước phải đền ơn sinh
thành”. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ
thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau, khơng ai
chăm sóc đỡ đần:
Xót người tựa cửa hơm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
+ Khơng chỉ thế Kiều cịn là người con gái có tình u son sắc, chung thủy,
nàng vơ cùng đau đớn, xót xa khi phải lựa chọn giữa tình và hiếu:
Hồn cịn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Sau này, dẫu cho “Chân trời góc bể bơ vơ” tình u thủy chung, son sắc ấy
vẫn phông phai nhạt “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
- Tấm lòng nhân ái cao cả của Nguyễn Du thể hiện sâu sắc nhất ở sự đề cao, tin
yêu rất mực vào con người. Đại thi hào là người có “con mắt trơng thấu sáu cõi” nên
dẫu nàng Kiều có ‘thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần’ thì từ đầu tới cuối tác phẩm ông
vẫn luôn nhìn nhận nàng Kiều là người con gái có phẩm giá, xứng đáng được thương
yêu, trân trọng.
3.3. Trân trọng, nâng niu ước mơ khát vọng của con người
Ca ngợi những vẻ đẹp đáng quý, thể hiện lòng cảm thương sâu sắc với thân
phận cuộc đời nhân vật để rồi từ đó làm bật lên khát khao về quyền sống, tự do và
hạnh phúc của con người chính là những điểm góp phần làm nên giá trị nhân đạo mới

mẻ của tác phẩm:
- Nguyễn Du có một sự đồng cảm, thấu hiểu kì lạ với nàng Kiều. Ơng hiểu hết
tâm trạng cũng như từng hành động của Kiều, trân trọng, nâng niu khát vọng tình
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

yêu, hạnh phúc của nàng. Nguyễn Du đã miêu tả mối tình Kim Trọng – Thúy Kiều là
một thiên diễm tình. Đó là một tình u tự nguyện vượt ra ngồi khn khổ lể giáo
phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của "người quốc sắc, kẻ thiên tài". Chi tiết
mà Nguyễn Du để cho nhân vật của mình có sự bứt phá cao nhất là hành động Kiều
xé rào đêm, xăm xăm băng lối đường khuya một mình sang nhà người yêu đã thể
hiện tình yêu mãnh liệt với sự khát khao cháy bỏng. Có thể nói tình u của Kim –
Kiều là tình yêu tự do, chủ động, xuất phát từ sự tự nguyện của hai phía. Nó đã phá
tan những lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ vào những quy tắc, luật lệ hà
khắc.
- Tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ
đại thi hào đã dang tay che chở, cứu vớt người con gái hồng nhan bạc mệnh. Hình
tượng Từ Hải là một thành cơng kiệt xuất của Nguyễn Du khi ông biến nhân vật từ
một người có nhiều nét giống tướng cướp trong “Kim Vân Kiều truyện” thành người
anh hùng xuất chúng, có lí tưởng cao đẹp:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Từ Hải trở thành một hình tượng mang màu sắc sử thi, một người anh hùng có
tài năng đích thực và sức mạnh phi thường và quan trọng hơn, Nguyễn Du muốn
người anh hùng này sẽ giải thoát Thúy Kiều khỏi kiếp đoạn trường, trả lại cho nàng lẽ
công bằng và khiến lũ người tráo trở, bạc ác, tinh ma phải trả giá. Qua giấc mơ Từ

Hải, Nguyễn Du muốn cứu vớt với những con người bị chà đạp, áp bức. Đó chính là
khát vọng cơng lí, là tinh thần nhân đạo sâu sắc chỉ có thể có ở một nghệ sĩ thiên tài
có tư tưởng vượt tầm thời đại. Chính biểu hiện nhân đạo ấy đã làm cho Truyện Kiều
trở thành kiệt tác của nghìn đời.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Nghệ thuật
Truyện Kiều có nguồn gốc Trung Quốc, từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh
Tâm Tài Nhân, nhưng Nguyễn Du đã có những sáng tạo, cách diễn đạt đầy mới mẻ:
- Về thể loại và ngôn ngữ: Từ nguyên tác văn xuôi, tác phẩm được chuyển sang
thể thơ dân tộc là thể lục bát, vận dụng linh hoạt thành công các thành ngữ, ca dao,
các điển cố điển tích và trở thành tập Đại thành của văn học dân tộc. Ngồi ra, bậc
thầy ngơn ngữ Nguyễn Du cịn sử dụng linh hoạt, có hiệu quả nghệ thuật cao ngôn
ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ độc thoại được vận dụng tài tình để bộc lộ nội
tâm nhân vật và ngôn ngữ đối thoại thể hiện tinh tế tính cách và hồn cảnh nhân vật.
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật tài tình: Nhân vật chính diện thường được miêu
tả bằng nghệ thuật lí tưởng hóa, bút pháp ước lệ, ẩn dụ tượng trưng, nhân vật được so
sánh với các hình ảnh thiên nhiên,lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo... Nhân vật
phản diện được miêu tả bằng bút pháp tả thực, là nhân vật hiện thực hóa của Nguyễn
Du...
- Nghệ thuật tả cảnh: Những sự vật, phong cảnh được miêu tả trong truyện đặc
trưng cho văn học trung đại như mây, tuyết, hồ nước mùa thu.... làm bức tranh cảnh
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

vật hiện lên tươi đẹp, sinh động. Ngồi ra, cịn có nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sinh
động, góp phần khắc họa rõ nét nội tâm nhân vật.

2. Nội dung:
“Đoạn trường tân thanh” đã thể hiện giá trị hiện thực và cảm hứng nhân đạo
sâu sắc, cảm động. Qua áng thơ đầy giá trị nhân văn cao cả này, chúng ta thấy một
Nguyễn Du đầy nhạy cảm trước cuộc đời, trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người.
Bằng một trái tim giàu lòng yêu thương, một tài năng lớn về thi ca, bằng tư tưởng
vượt tầm thời đại, Nguyễn Du đã làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam. Tên tuổi của đại
thi hào và Truyện Kiều sẽ sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của
mẹ là tiếng thương vang vọng đến mn đời:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày...
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Đề số 2: Khi bàn đến ngôn ngữ “Truyện Kiều”, trong bài “Nguyễn Du một
nghệ sĩ lớn, Hồi Thanh có viết: "Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như
một hòn ngọc quý cơ hồ khơng thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn
lạ gần như khơng một lần nào lỡ nhịp ngang cung".
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích tài năng ngơn ngữ
của Nguyễn Du qua một số câu thơ trong Truyện Kiều .
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu Nguyễn Du và Truyện Kiều
- Dẫn ý kiến
II. THÂN BÀI
1. Giải thích ý kiến của Hồi Thanh:
- " Truyện Kiều" như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt": Ngôn
ngữ "Truyện Kiều" đẹp đẽ đến mức hoàn thiện.
- Như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung": Ngơn ngữ
"Truyện Kiều" mới lạ, phong phú, chính xác, sáng tạo, đầy biến hóa và hầu như
khơng có sơ sót nào.
=> Hồi Thanh đánh giá rất cao về ngơn ngữ " Truyện Kiều", về tài năng Nguyễn Du
qua cách diễn đạt giàu hình ảnh bằng nghệ thuật so sánh khẳng định Nguyễn Du là
bậc thầy về ngôn ngữ thơ ca.

2. Chứng minh tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong "Truyện Kiều":
a. Nhận xét khái quát:
- Từ nguyên tác văn xuôi, tác phẩm được chuyển sang thể thơ dân tộc là thể lục
bát, vận dụng linh hoạt thành công các thành ngữ, ca dao, các điển cố điển tích và trở
thành tập Đại thành của văn học dân tộc. Ngồi ra, bậc thầy ngơn ngữ Nguyễn Du
cịn sử dụng linh hoạt, có hiệu quả nghệ thuật cao ngơn ngữ đối thoại và độc thoại.
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Ngơn ngữ độc thoại được vận dụng tài tình để bộc lộ nội tâm nhân vật và ngôn ngữ
đối thoại thể hiện tinh tế tính cách và hồn cảnh nhân vật.
- "Truyện Kiều" có nhiều con người, nhiều sự kiện, nhiều cảnh vật, nhiều tâm
trạng… khác nhau, thậm chí đối lập lẫn nhau, nhưng Nguyễn Du có đầy đủ vốn ngôn
ngữ đề biểu đạt con người, sự kiện, tâm trạng:
b. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật qua vài nét miêu tả ngoại hình, lời nói… của Th
Vân, Th Kiều, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải…mỗi nhân vật đều hiện lên với
thần thái riêng khơng trộn lẫn.
- Nhân vật chính diện: được miêu tả bằng nghệ thuật lí tưởng hóa, bút pháp ước lệ, ẩn
dụ tượng trưng, nhân vật được so sánh với các hình ảnh thiên nhiên, lấy vẻ đẹp của
thiên nhiên làm thước đo...
+ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
.
+ Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
+ Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
- Nhân vật phản diện được miêu tả bằng bút pháp tả thực, thậm chí đến mức trần
trụi:
+ “Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
+ “Trước thầy sau tớ lao xao”
+ Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
+ Nhác trơng lờn lợt màu da
Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao
c. Tả cảnh thiên nhiên: Rất tinh tế trong cách miêu tả thiên nhiên bốn mùa, ánh
trăng, cảnh chiều, … trong từng hồn cảnh, tình huống
+ Trước lầu Ngưng Bích khóa xn
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
+ Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lịe đơm bơng.
+ Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
+ Dưới cầu nước chảy trong veo
10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
d. Tả tâm trạng: Điển hình là nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều. Tâm trạng
nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, buồn đau...

+ Bây giờ trâm gãy gương tan…
+ “Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
+ “Xót người tựa cửa hơm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mẩy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
+ Buồn trông, cửa bể chiều hơm…
3. Bình luận
3.1. Đánh giá về ý kiến:
- Nhận định của Hoài Thanh rất đúng đắn và đã khái quát được thành công về mặt
ngôn ngữ, sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
3.2. Mở rộng: Lí giải nguyên nhân thành công của Nguyễn Du:
- Nguyễn Du đã kế thừa, phát huy những khuynh hướng sáng tạo ngôn ngữ khác biệt:
+ Tiếp tục kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian, đặc biệt là thành ngữ, tục ngữ
ca dao.
+ Tiếp nhận ngơn ngữ văn học nước ngồi, từ hệ thống thuật ngữ, khái niệm
triết học, Phật, Nho đến nguồn điển cố, thi liệu giàu có, phong phú của văn học Trung
Quốc.
=> Dù tiếp thu từ truyền thống, từ học hành hay từ ngoại lai, Nguyễn Du ln
có sáng tạo độc đáo.
- Tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du hình thành từ diễn biến cuộc đời đầy thăng trầm,
vốn ngôn ngữ được tiếp thu ở nhiều vùng miền khác nhau, qua quá trình học tập trau
dồi. Với sự học hỏi và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du, ngôn ngữ "Truyện Kiều"
mang phong cách của một cá tính nghệ thuật, đưa Nguyễn Du lên vị trí bậc thầy trong
ngơn ngữ thơ ca cổ điển, đồng thời để lại cho ngày nay nhiều bài học quý giá trong
vận dụng và sáng tạo ngơn ngữ nghệ thuật nói chung và ngơn ngữ nói riêng.
III. KẾT BÀI
Khẳng định thành cơng về ngơn ngữ và nhấn mạnh vị trí của Nguyễn Du và
Truyện Kiều trong nền văn học dân tộc.

Đề số 3: Nhận xét về Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân nói: “Tố Như
dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu khơng phải
con mắt trơng thấu sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt cả nghìn đời thì khơng tài nào có
được bút lực ấy”.
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Anh /chị hãy bình luận ý kiến trên.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu Nguyễn Du và Truyện Kiều
- Dẫn ý kiến
II. THÂN BÀI
1. Giải thích
- Lời bàn của Mộng Liên Đường đã nêu được một cách khái quát nhất tài năng
sáng tạo của Nguyễn Du cũng toàn bộ giá trị của tác phẩm Truyện Kiều.
+ Người ta có thể bắt gặp trong Truyện Kiều cả sự “dụng cơng đã khổ”, đó là
sự công phu, tâm huyết của Nguyễn Du.
+ “tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết” là tài năng nghệ thuật ở mọi
phương diện đều đạt đến độ xuất sắc.
+ Và hiển hiện trong mỗi lời văn câu chữ là “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm
lịng nghĩ suốt cả nghìn đời”, đó là cách nhìn có tầm bao quát rộng lớn, mang tầm tư
tưởng triết học. Và một khi đã có con mắt ấy thì sẽ có tấm lịng lưu luyến, lo lắng,
đầy u thương không chỉ dừng lại ở một lớp người, một thời đại mà trải muôn
người, ở muôn đời.,
=> Lời bàn của Mộng Liên Đường là lời khẳng định hùng hồn nhất và cũng là minh
chứng rõ ràng nhất cho tài năng bậc thầy, tầm tư tưởng và tinh thần nhân đạo lớn lao

của một thiên tài văn học –Nguyễn Du .
2. Chứng minh
2.1. “Tố Như dụng tâm đã khổ”
- Nói đến Truyện Kiều là phải nói đến q trình khổ cơng rèn luyện, gọt giũa ngòi bút
để cho ra đời một áng văn chương tuyệt tác của nhân loại. Nhưng ý kiến của Mộng
Liên Đường đề cập đến nỗi khổ của Nguyễn Du ở đây là “dụng tâm”, tức là làm thế
nào để đưa chữ “tâm” vào tác phẩm của mình, đưa tấm lịng mình vào những dịng
thơ. Bởi vì, hơn ai hết, Nguyễn Du rất coi trọng chữ tài nhưng cũng hết mực ca ngợi
chữ tâm. Nguyễn Du đã khẳng định:
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
- Chính vì vậy, chữ tâm của ông dào dạt trên những trang giấy. Có lẽ vì vậy mà trong
Truyện Kiều chữ “lịng” xuất hiện với một số lượng lớn:
+ Đó là nỗi cảm thương của Kiều trước mộ Đạm Tiên:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
+ Đó cũng là cái tình Kiều đem ra đền đáp Kim Trọng:
“Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lịng”.
“Để lịng thì phụ tấm lịng với ai”.
+ Nhưng cũng có những tiếng lịng khiến người ta mỉa mai, ghê tởm. Đó là
tiếng lịng thốt ra từ bọn bn thịt bán người, từ những Tú Bà, Sở Khanh. Chúng thốt
ra những lời ngon ngọt nhưng lại giương vuốt nhe răng làm hại bao người:
“Phải điều lòng lại rối lòng mà thôi”
12


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Nguyễn Du đặt tiếng lòng vào miệng những bậc tài hoa như Kim Trọng, Thúy
Kiều nhưng cũng để nó thốt ra từ những kẻ xấu xa, nham hiểm như Tú Bà, Sở Khanh.

Đó là dụng ý nghệ thuật của ơng khi muốn lột tả sắc thái biểu cảm của chữ tâm. Chữ
tâm trong sáng biểu hiện cho tấm lòng lương thiện cao cả của con người nhưng cũng
có khi chữ tâm bị bôi bẩn, nhơ nhuốc trong tay bọn vô lại.
- Có thể nói Truyện Kiều là tiểu thuyết của chữ tâm. Thúy Kiều chinh phục
được người đọc không chỉ bởi “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” mà cịn bởi chữ
tâm sáng chói nơi nàng. Đó là tấm lịng trinh bạch, là nghĩa khí, là sự khoan dung của
nàng. Chữ tâm trải suốt cuộc đời nàng. Vì chữ tâm mà Kiều khóc thương Đạm Tiên,
vì chữ tâm mà bán mình chuộc cha, trả nghĩa cho Kim Trọng. Vì chữ tâm mà Kiều
tha bổng Hoạn Thư, khuyên Từ Hải ra hàng và cuối cùng vì chữ tâm mà Kiều tìm đến
cái chết trên sơng Tiền Đường. Hình tượng Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc với
một cái tâm như thế.
- Ở những nhà văn chân chính xưa nay, tâm bao giờ cũng là cái gốc. Tài và trí
chỉ là cành, là ngọn. Người nghệ sĩ phải vui niềm vui của con người, đau cùng nỗi
đau của con người, phải khóc, phải cười, phải trăn trở cùng con người. Soi vào
Truyện Kiều, ta nhận ra tác phẩm thực chất là tiếng lòng của Nguyễn Du. Mỗi một
lời, một chữ, một câu trên trang giấy là sự hòa quyện giữa tâm hồn nhà văn với tâm
hồn nhân vật. Nguyễn Du dõi theo bước chân của nàng Kiều trên từng chặng đường
đời của nàng:
+ Khi Kiều ở lầu xanh, ông đau cùng nàng:
Khi tỉnh rượu… xót xa
+ Khi Kiều gặp Từ Hải, ông vui mừng, hân hoan trước hạnh phúc của nàng:
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp dun cưỡi rồng
+ Và chính ơng là người thốt lên tiếng kêu đau đớn khi Kiều nhảy xuống sông
Tiền Đường tự tử:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài mà chi!
Có thể nói Nguyễn Du đã hóa thân vào nhân vật, vui buồn cùng nhân vật. Đó
chính là tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du.
2.2. Tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết là tài năng nghệ thuật ở mọi

phương diện đều đạt đến độ xuất sắc
- “Tự sự đã khéo”: Ở đây tác giả muốn đề cập đến nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn của
nguyễn Du.
+ Cái khéo của Nguyễn Du là sự biến hóa linh hoạt cách kể, cách dẫn dắt câu
chuyện (so sánh với Kim Vân Kiều truyện là một cuốn tiểu thuyết chương hồi,
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một cuốn truyện thơ). Vì là truyện thơ Việt Nam nên
Truyện Kiều đậm bản sắc dân gian. Đặc biệt, Truyện Kiều đã đưa thể thơ lục bát dân
tộc lên tới đỉnh cao. Thể thơ của Nguyễn Du vừa gần gũi, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dẫn
dắt người đọc vào câu chuyện một cách tự nhiên. Chính vì vậy, bức tranh toàn cảnh
13


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

về đời sống xã hội, con người trong tác phẩm hiện lên vô cùng chân thực và sống
động.
+ Truyện Kiều là một câu chuyện xuyên suốt với tình tiết nọ tiếp nối tình tiết
kia do sự kết nối các tình tiết chặt chẽ và lơ gích, từ đó người đọc có thể rút ra quy
luật về số phận nhân vật.
+ Truyện Kiều cịn có sự kế thừa Kim Vân Kiều truyện một cách sáng tạo:
Trong Kim Vân Kiều truyện không có cuộc chia tay cảm động giữa Thúc Sinh và
Kiều thì trong Truyện Kiều, đoạn Thúc sinh từ biệt Thúy Kiều lại là một trong những
đoạn chia li hay nhất của thơ ca về sự chia li từ xưa đến nay, được Vũ Trinh đánh giá
“ngang với một thiên phú biệt li”. Trong Kim Vân Kiều truyện miêu tả việc Từ Hải
trở về với hình dung của một tốn giặc cỏ, chân dung một kẻ cướp đã làm giảm giá trị
thẩm mĩ của hình tượng nhân vật thì trong Truyện Kiều, hình ảnh của đạo quân của
Từ Hải lại hiện lên:
Ngất trời sát khí mơ màng

Đầy sơng kình ngạc, chật đường giáp binh
Hiện lên cái khí thế mạnh mẽ, sục sơi của đồn qn chiến thắng trở về với cái
khả năng làm khuynh đảo cả đất trời. Người đọc như bị cuốn vào cái khí thế hào
hùng, sục sơi đó.
- “Tả cảnh đã hệt”: là sự chính xác, đúng đắn, phù hợp, lơ gic trong tả cảnh của
Nguyễn Du.
+ Ơng đã phát hiện cái hồn của cảnh vật và đưa vào trong thơ một cách tinh tế
nhất: Nguyễn Du có biệt tài tả mùa với ngơn ngữ có tính cá thể hóa cao độ, mỗi mùa
một khác:
Mùa hè: Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bơng.
Mùa thu: Long lanh …bóng vàng
Mùa xn: Cỏ non …bơng hoa
+ Cảnh khơng chỉ đẹp mà cảnh cịn phù hợp với tâm trạng con người: Đôi trai
gái “Người quốc sắc, kẻ thiên tài” vừa gặp nhau đã say mê và khi chia tay thì lịng
đầy lưu luyến:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi con người cơ độc, sống trong tâm trạng cơ đơn thì thiên nhiên cũng mang
đầy tâm trạng:
Buồn trông cửa bể chiều hơm

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Thiên nhiên như thấm đẫm nỗi buồn nhớ, sự lo lắng, phấp phỏng của Kiều về
những ngày sắp tới là dự báo về một cuộc đời chìm nổi, một tương lai vơ định đầy
hiểm nguy, bất trắc?
=> “Cái hệt” của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở độ chính xác, đúng đắn mà
đạt tới trình độ tinh vi, sâu sắc, giàu giá trị thẩm mĩ.
14



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- “Đàm tình đã thiết”: Đó là nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật nổi bật trong tác
phẩm. Ngòi bút của Nguyễn Du tinh vi, lão luyện trong việc phân tích tâm lí nhân
vật. Tâm trạng của mỗi nhân vật được xây dựng đều phù hợp với hoàn cảnh
+ Trong tác phẩm, Kiều là nhân vật có tâm trạng phức tạp nhất:
Tâm trạng bất lực, uất ức khi bị đem ra làm món hàng mua bán
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dín gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn, trơng gương mặt dày.
Khi Kiều trao duyên cho em để trả nghĩa cho Kim Trọng, ta mới thấy hết cái
tình sâu nặng:
Phận sao phận bạc như vôi

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Những đau thương, uất ức dồn lại đã trở thành nỗi căm phẫn trong Kiều:
Đã cho lấy chữ hồng nhan

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi
Điệp từ “cho” lặp lại nhiều lần như sự đay nghiến, day dứt, khắc khoải khôn
nguôi về nỗi đau thân phận. Câu thơ chất chứa niềm bức bối, bực dọc như muốn bùng
ra. Trong thơ bật ra tiếng hét phẫn nộ, tiếng tố cáo gay gắt những ngang trái cuộc đời
chà đạp lên số phận người phụ nữ.
+ Trong Truyện Kiều lúc nào cũng hiển hiện một chữ tình sâu nặng. Cái tình
trong Truyện Kiều là cái tình sâu, tình thắm, cái tình đẹp nhất của lồi người bởi nó
chở theo giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả. Trước mỗi cảnh đời của nhân vật ta đều

bắt gặp sự đồng cảm, thương xót của nhà thơ.
2.3. Thành cơng của Truyện Kiều cịn ở chỗ “Con mắt trơng thấu sáu cõi, tấm
lịng nghĩ suốt cả nghìn đời”
- “Sáu cõi” là sự bao chiếm là sự bao chiếm tồn bộ khơng gian đơng-tây-nam-bắc,
trên và dưới. Đó là sự thâu tóm cả vũ trụ, đất trời. Trong Truyện Kiều có khơng ít
những thơ chứa đựng cả thiên nhiên vũ trụ:
+ Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
+ Trời cao sông rộng một màu bao la.
- “Con mắt trông thấu sáu cõi” cũng là một biểu hiện của một nhân sinh quan nhạy
cảm, một tâm hồn rộng mở thu nhận mọi biến chuyển cuộc đời. Chính bởi thế mà ơng
rút ra được những quy luật của cuộc đời:
+ Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
+ Ngẫm hay muôn sự tại trời
15


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Trời kia đã bắt làm người có thân
+ Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Bằng con mắt “Trông thấu sáu cõi”, Nguyễn Du đã thể hiện một vốn sống
phong phú, uyên thâm, hiểu đời và hiểu người. Ông nghe nhiều, quan sát nhiều để
đúc rút lại những chân lí của cuộc sống .
- Mắt Nguyễn Du nhìn thấu sáu cõi mà lịng thì “nghĩ suốt cả nghìn đời”.
+ Đó là tấm lòng canh cánh lo cho số phận con người, lo cho cuộc đời. Ơng đã
nói hộ những người phụ nữ những bất công, đau khổ:

Đau đớn thay …lời chung
=> Nhân đạo
3. Bình luận
- Lời nhận định của Mộng Liên Đường đã khái quát được một cách chung nhất
những giá trị của Truyện Kiều trên cả hai lĩnh vực nội dung và nghệ thuật vì “Tố Như
dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết”. Nhưng xét đến
cùng bút lực ấy có được cũng là nhờ “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt
cả nghìn đời”. Nguyễn Du là một nghệ sĩ chân chính
- Lời bàn của Mộng Liên Đường cho thấy ông không chỉ là một người am hiểu,
học rộng, hiểu sâu về văn chương mà ơng cịn xứng đáng là một tri kỉ của Nguyễn Du
khi khám phá được cái thần tuyệt diệu của tài năng nghệ thuật Nguyễn Du, đồng điệu
với tâm hồn, nỗi niềm của Nguyễn Du.
III. KẾT BÀI
Khẳng định cái tài và cái tâm và nhấn mạnh vị trí của Nguyễn Du và Truyện
Kiều trong nền văn học dân tộc.

16



×