Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TRÀNG GIANG Huy Cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.11 KB, 18 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

TRÀNG GIANG
- Huy CậnI. MỞ BÀI
Nhận xét về thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, nhà nghiên cứu phê bình Hồi
Thanh viết ''Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế''. Huy Cận
chính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945 và
trong dàn đồng ca đa sầu đa cảm của các nhà thơ lãng mạn thì hồn thơ Huy Cận là ảo não
nhất. Khi ơng xuất hiện trên thi đàn thì người ta thấy dậy lên một tiếng địch buồn. Thơ của
ông thường thể hiện một nỗi buồn lớn, triền miên, vô tận và tưởng chừng kéo dài đến hàng
ngàn, hàng vạn năm. Vì thế người ta mệnh danh ơng là nhà thơ của nỗi “sầu vạn cổ” hay
“thiên cổ sầu”. “Tràng Giang” ra đời năm 1939, sau đó được đưa vào tập thơ “Lửa thiêng”
in năm 1940 là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước cách mạng. Tác phẩm là bức
tranh cảnh vật tràng giang mênh mơng sóng nước và trong bức tranh cảnh vật ấy ẩn chứa
một nỗi buồn triền miên, vô tận.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: “Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những
hạt cát bụi bay lượn trong khơng khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Và Huy Cận là
hạt cát đã bay lượn tìm kiếm vẻ đẹp của quê hương, xứ sở để làm thơ. Người nghệ sĩ ấy đã
đứng trước dịng sơng Hồng đỏ nặng phù sa để nguồn xúc cảm lắng đọng lại ở thi phẩm
“Tràng Giang”. Ấy là khi còn là sinh viên của trường Cao đẳng canh nông, vào các buổi
chiều cuối tuần Huy Cận thường đạp xe lên vùng Chèm để vẽ tranh ngoạn cảnh. Vào một
buổi chiều mùa thu năm 1939, ông đã dừng lại để ngắm cảnh sơng Hồng. Cảnh vật dịng
sơng mênh mơng sóng nước gợi hứng cho nhà thơ sáng tác bài thơ “Tràng Giang”. Bài thơ
được xem là thi phẩm nổi tiếng thể hiện rõ phong cách thơ của Huy Cận. Mặc dù được gợi
ý, gợi tứ từ cảnh vật sông Hồng nhưng theo nhà thơ thì trong bài thơ này ơng khơng chỉ
viết về sông Hồng mà viết về tất cả các dịng sơng q hương. Ban đầu, tác phẩm có tên là
“Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành “Tràng giang”.


Bài thơ có 4 khổ thơ và bức tranh cảnh vật tràng giang khơng được miêu tả theo
trình tự nhất định, bởi nhà thơ khơng có ý định khắc họa bức tranh thiên nhiên đầy đủ mà
chỉ có ấn tượng về một nỗi buồn trải dài vô tận trong không gian và thời gian.
- Đề từ:
+ Lời đề từ thường là câu, đoạn thơ hay câu, đoạn văn ngắn gọn, cô đọng dẫn ra ở
đầu tác phẩm hoặc hoặc một bộ phận của tác phẩm (chương, hồi, đoạn, phần). Lời đề từ
khơng chỉ có thể là lời của chính tác giả, mà đôi khi là thơ, văn mà tác giả mượn của một
tác giả nào đó. Đề từ xuất hiện đa dạng trong tất cả các văn bản nghệ thuật như thơ, truyện
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

ngắn, tiểu thuyết, văn bản kịch, kí và cả trong những bức thư nhưng xuất hiện nhiều nhất là
trong thơ và truyện ngắn. Đề từ nhằm nêu lên nguồn cảm hứng, chủ đề tư tưởng của tác
phẩm, hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác phẩm nhưng đôi khi nó cũng chỉ là vật
trang sức cho tác phẩm mà không đem đến nhiều ý nghĩa.
+ Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thuộc kiểu lời đề từ có nhiều
ý nghĩa. Trước hết, lời đề từ này gợi không gian rộng lớn, rợn ngợp với cảnh “trời rộng
sơng dài” và trong khơng gian ấy hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội
nghiệp. Đồng thời, lời đề từ còn bộc lộ rõ cảm xúc, cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác
phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”, nỗi buồn mênh mang, da diết, khơn ngi, gợi cả
nỗi buồn sâu lắng trong lịng người đọc. Lời đề từ này như vậy vừa là cảm hứng vừa có tác
dụng định hướng về ý nghĩa, vừa tạo tính cổ điển, hiện đại cho bài thơ.
2. Khổ thơ 1:
Huy Cận là một nhà thơ mới, ông yêu thích cả thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu
ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp. Bởi vậy thơ Huy Cận vừa mang màu sắc dân tộc vừa
có tính cổ điển và vừa rất hiện đại. Những đặc điểm nổi bật của thơ Huy Cận được thể hiện

rõ ngay từ khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
* Câu thơ đầu (bao gồm ý nghĩa nhan đề)
Có biết bao thi sĩ đã mượn thiên nhiên để giải bày lịng mình. Tâm trạng của con
người, nhất là nỗi buồn thường được giãi bày ra trong cảnh vật. Ta đã thấy điều đó trong
thơ Nguyễn Du “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đã thấy một nỗi buồn như thế trong
“Chinh phụ ngâm”:
Người buồn cảnh thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Nỗi buồn của con người thì vơ vàn, nhất là với các nhà thơ mới thì buồn rất nhiều
nên thiên nhiên trong thơ mới thường đẹp nhưng lại buồn đến da diết. Trong những năm
tháng tăm tối của đất nước, Huy Cận cũng buồn và thi sĩ cũng tìm đến phơi trải lịng mình
qua các hình ảnh thiên nhiên đẹp. Vì thế, ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã hướng người
đọc hình dung ra một dịng sơng mênh mang sóng nước.
Bài thơ ngay từ đầu đã có sự láy lại nhan đề: “Tràng giang”. Trong tiếng Việt hiện
hành có hai từ chỉ chiều dài là từ “trường” và từ “tràng”. Nói như vậy có nghĩa là “Tràng
giang” vốn đồng nghĩa với trường giang, cùng có nghĩa là sơng dài nhưng trường giang thì
chỉ có nghĩa chỉ chiều dài cịn tràng giang khơng chỉ gợi chiều dài dịng sơng mà cịn có
sức gợi rất lớn, thể hiện sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng tiếng Việt. Việc láy lại vần
“ang” có tác dụng gợi tả cả chiều rộng của dịng sơng, bởi thế Tràng giang khơng chỉ là
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


dịng sơng dài mà là Đại giang (sơng lớn). Vần “ang” còn tạo một dư âm vang xa, ngân dài
và âm hưởng trầm hùng tạo nên âm hưởng chung của cả bài thơ. Hơn nữa “Tràng giang” là
từ Hán Việt nên cịn gợi cho bài thơ một khơng khí cổ kính, gợi tả một dịng sơng từ ngàn
xưa chảy qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa, chảy qua khơng biết bao nhiêu áng sử thi.
Ngoài ra, nhan đề này cịn gợi cả một nỗi buồn triền miên khơng dứt. Nỗi buồn ấy mở
rộng, mênh mơng bát ngát trên dịng tràng giang.
Trên mặt nước của dịng đại giang mênh mơng, bát ngát là những con sóng lăn tăn,
gợn gợn. Những con sóng tuy nhỏ nhưng mn vàn con sóng cùng từ láy “điệp điệp” đã
gợi tả sự nối tiếp nhau, kéo dài đến vô tận thành bức tranh thiên nhiên rộng mở, kì vĩ.
Đứng trước cảnh vật bao la, vơ cùng vơ tận ấy nỗi buồn của nhà thơ có trong và trải dài
trên từng con sóng. Nỗi buồn vì thế cũng triền miên, vô tận, thành nỗi sầu vạn kỉ, thiên cổ
sầu vẫn thường thấy trong thơ Huy Cận: “Một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ
sầu”.
* Câu thơ 2 + 3:
Giữa dòng Đại giang còn xuất hiện hình ảnh một con thuyền, con thuyền ấy khơng
có người lái nên mái chèo của nó bị bng lơi. Con thuyền trơi khơng định hướng, song
song với dịng nước theo kiểu nước chảy thì thuyền trơi. Bởi vậy, hình ảnh con thuyền giữa
dịng đại giang mênh mơng sóng nước trong câu thơ trước hết gợi ấn tượng về sự nhỏ bé,
trôi dạt, vô phương hướng.
Thuyền và nước đi liền với nhau nên người ta thường nói “nước chảy thuyền trơi”.
Nhưng ở câu thơ này thì dịng nước và con thuyền lại đi song song với nhau, có chuyển
động ngược hướng của cảnh “thuyền về nước lại”. Thuyền và nước đi song song với nhau
thế nên không bao giờ gặp gỡ, bỗng trở thành hai cá thể độc lập khơng có sự gắn bó và gợi
tính chất phân ly của cuộc đời. Câu thơ như vậy một lần nữa nhấn mạnh thêm nỗi buồn
khiến khổ thơ quả thật đã nói rất nhiều đến nỗi buồn. Nỗi buồn ở câu thơ trước đã được thể
hiện trực tiếp từ qua từ “buồn” và trải dài theo chiều dài của dịng đại giang thì ở đây nỗi
buồn thể hiện qua chữ “sầu” và tỏa ra theo chiều rộng thành “sầu trăm ngả”. Một nỗi buồn
lan tỏa khắp vũ trụ bao la, rộng lớn như thế thì có lẽ chúng ta chỉ tìm thấy ở các nhà thơ
lãng mạn 1930-1945 và ở hồn thơ Huy Cận.
* Câu thơ bốn:

Hình ảnh con thuyền trơi dạt giữa dịng đại giang đã gợi sự nhỏ bé, trơi dạt, vơ
phương hướng nhưng hình ảnh cành củi khơ xuất hiện trong câu thơ thứ tư cịn gợi buồn,
gợi sự cơ đơn, tội nghiệp hơn rất nhiều. Trên mặt nước Tràng giang đã có những con sóng
lăn tăn, gợn gợn, đã có hình ảnh con thuyền nhỏ bé giờ cịn xuất hiện thêm hình ảnh một
cành củi khơ. Hình ảnh sóng, con thuyền vốn là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca xưa nay
nhưng đến thời điểm “Tràng giang” ra đời thì hình ảnh cành củi khơ vẫn là một thi liệu
mới mẻ chưa từng được nhắc đến. Cành củi khô vốn là một cành cây đã lìa khỏi cây, nó đã
mất đi sự sống và nay lại lạc giữa mấy dịng nước. So với sự mênh mơng, rộng lớn trong
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

dịng Đại giang, hình ảnh con thuyền đã nhỏ bé thì hình ảnh cảnh củi cịn nhỏ hơn nhiều.
Cả hai hình ảnh con thuyền và cành củi đều nằm trong hệ thống hình ảnh gợi sự nhỏ bé,
trơi dạt… Những hình ảnh đó đều gợi ta liên tưởng về những kiếp người nhỏ bé, vơ danh,
trơi dạt giữa dịng đời. Nghệ thuật đối lập giữa các hình ảnh con thuyền, cành củi với sự
rộng lớn của dòng Đại giang càng nhấn mạnh thêm nỗi buồn, tô đậm thêm sự nhỏ bé, vô
định của kiếp người. Bút pháp "tả cảnh ngụ tình" của Huy Cận trong khổ thơ cũng thật tài
tình, chỉ thơng qua vài hình ảnh giản đơn như “sóng gợn”, “ con thuyền”, “củi một cành
khô” mà tác giả có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc của mình đến người đọc khiến
khổ thơ khơng chỉ là bức tranh cảnh vật thiên nhiên mà hơn nữa là cảm xúc vũ trụ, là nỗi
buồn nơi đáy hồn nhân thế.
*Đánh giá chung về khổ thơ
Có thể nói, ở khổ thơ này ta vừa nhận ra dấu ấn của Đường thi vừa nhận ra những
đặc điểm ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp.
+ Tính chất cổ điển: được thể hiện trước hết ở thể thơ bảy chữ với những cách ngắt
nhịp của thơ truyền thống là 4/3 , bút pháp tả cảnh ngụ tình trong thơ cổ thế thể hiện rõ qua

việc miêu tả bức tranh cảnh vật Tràng Giang và qua bức tranh cảnh vật đó để thể hiểu tâm
trạng là nỗi buồn trước cảnh trời rộng sông dài. Cổ điển ở nghệ thuật đối chủ yếu là đối ý
chứ khơng phải trong câu thiên về niêm luật. Đó là sự đối lập giữa hình ảnh con thuyền,
cành củi với dịng đại giang mênh mơng sóng nước; Đối lập với sự nhỏ bé, đơn chiếc với
sự rộng lớn vô cùng vô tận, nghệ thuật đối cũng làm cho giọng điệu của đoạn thơ trở nên
uyển chuyển phát huy thế mạnh của thơ đường cùng với việc sử dụng các từ Hán Việt tạo
khơng khí trang trọng, sự tương xứng nhịp nhàng. Bên cạnh đó việc láy lại vần ang và các
từ lấy nguyên gốc “ song song”,”điệp điệp” cũng là những yếu tố tạo nên cổ điển cho bài
thơ.
+ Tính chất hiện đại: Huy Cận giống phần đông các thi sĩ trong phong trào thơ mới
đều chịu ảnh hưởng khá rõ của trường thơ tượng trưng Pháp thế kỷ 19. Nhà thơ Xuân Diệu
là bạn thân của Huy Cận đã từng viết :
Tôi nhớ Rembô với Veclen
Hai chàng thi sĩ chống hơi men
Say thơ xa lạ mơ tình bạn
Khinh rẻ khn món bỏ lối quen
Xn Diệu tự ví mình và Huy Cận như hai chàng thi sĩ Pháp say mê sáng tạo, từ bỏ
mọi khn mịn để tìm đến với “thơ xa lạ”. Vì vậy, “Tràng giang” của Huy Cận dẫu mang
rất nhiều yếu tố cổ điển nhưng trước hết nó vẫn là một bài thơ hiện đại, là một sản phẩm
của thơ ca lãng mạn. Tính chất hiện đại trong khổ thơ được thể hiện ở việc sử dụng các thi
liệu rất mới mẻ. Đó chính là hình ảnh cành củi khơ lạc giữa dịng nước gợi nỗi buồn, gợi
liên tưởng đến những kiếp người nhỏ bé trôi dạt. Những hiện đại hơn hơn cả là cảm xúc vì
chưa bao giờ người ta thấy thơ lại mang một nỗi buồn lớn đến thế, một nỗi buồn tưởng
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


chừng kéo dài đến hàng ngàn, hàng vạn năm. Đó là nỗi buồn của một thế hệ nhà thơ mới
trong một xã hội xấu xa thối nát, họ rơi vào bế tắc trong việc tìm lối thốt vì thế tạo nên
những dịng lệ trong văn chương. Ngồi ra, nỗi buồn còn xuất phát từ quan niệm Mỹ học
của các nhà thơ mới, quan niệm mà họ chịu ảnh hưởng từ phương Tây: “Em cứ đẹp và em
mãi buồn”. Với họ cái đẹp đi liền với cái buồn, phải buồn thì mới đẹp và đó có lẽ cũng là
quan niệm mà Huy Cận đã thể hiện trong bài thơ này.
=> Khổ thơ cũng như tồn bộ bài thơ khơng chỉ là nỗi buồn mà còn là bức tranh
cảnh vật về dòng tràng giang. Tìm hiểu bài thơ từ góc độ thiên nhiên cảnh vật ta thấy đây
là một bài thơ rất đỗi Việt Nam, với những hình ảnh quen thuộc với người Việt Nam như
dịng sơng, sóng gợn, con thuyền, cành củi khô dập dềnh... Ở những khổ thơ sau ta cịn bắt
gặp thêm những hình ảnh những cánh bèo trơi dạt, một buổi chợ chiều, một chuyến đị
ngang. Vì thế xét ở một góc độ nào đó, Tràng giang là một bài thơ ca hát về non sông đất
nước, do đó dọn đường cho lịng u Tổ quốc.
Ai đó đã từng nói cuộc sống là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá, là cái đích
cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính ln bắt rễ từ đời sống hiện
thực sẽ có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. “Tràng giang” của Huy Cận bắt nguồn từ
hiện thực đời sống, từ cảnh sông Hồng mênh mơng sóng nước với con thuyền, cành củi trơi
dạt, từ tình cảnh đau thương của đất nước và đã thể hiện được những nỗi niềm nhà thơ
muốn ký thác, như một tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi
niềm ấy của người nghệ sĩ chân chính Huy Cận hẳn sẽ cịn lắng đọng mãi để những vần
thơ có đủ sức sống đi theo năm tháng.
3. Khổ thơ 2:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.
3.1. Hai câu đầu:
Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ có thể giúp con
người bộc lộ mọi cung bậc cảm xúc như niềm vui, nỗi buồn sự cơ đơn tuyệt vọng… Có
những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ và nỗi buồn của Huy Cận cũng

phải tìm đến thơ và qua các hình ảnh thơ để được giãi bày. Trong khổ thơ này, bức tranh
cảnh vật sông nước được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những cồn cát trên sơng nhấp
nhơ, gió chiều nhè nhẹ thổi "đìu hiu" gợi buồn da diết. Cồn là một bãi đất nằm ở giữa sơng,
nó vốn đã gợi sự đơn độc, trơ trọi. Đã thế lại là “cồn nhỏ” càng gợi sự lẻ loi, đơn chiếc và
gợi buồn. Sự vật hiện diện ở trên cồn chỉ lơ thơ, lác đác và hẳn đó là cỏ cây lưa thưa, phất
phơ trước làn gió nhẹ. Nghệ thuật đảo ngữ đã đảo trật tự cú pháp thông thường đặt từ láy
5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

“lơ thơ” lên đầu câu thơ càng gợi sự hoang vắng của cảnh vật. Riêng về từ “đìu hiu”, Huy
Cận nói ơng học được trong “Chinh phụ ngâm”:
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gị
Gió thổi đìu hiu đã gợi sự buồn bã, quạnh vắng của bức tranh cảnh vật nhưng hơi
hướng từ ý thơ của “Chinh phụ ngâm” còn gợi cả âm hồn, tử khí phảng phất trong gió
trong cây, càng nhấn mạnh sự quạnh hiu của cảnh vật và nỗi buồn.
Trước cảnh vật hoang vắng, thi sĩ đi tìm dấu hiệu cuộc sống con người như một lẽ tự
nhiên. Câu thơ thứ hai của khổ thơ bắt đầu nhắc đến các dấu hiệu của cuộc sống con người
nhưng có vẻ như nhắc đến chỉ là để phủ nhận. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ "Đâu tiếng làng
xa vãn chợ chiều" đã làm nổi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về
cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà thơ mới coi trọng tính nhạc
trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hoà thanh rất thần tình, tạo nên những vần thơ
giàu âm điệu, nhạc điệu. Hai câu thơ này của khổ thơ có điệp âm "lơ thơ" và "đìu hiu", có
vần lưng: "nhỏ- gió", có vần chân: "hiu- chiều" làm ta liên tưởng đến câu thơ đầy chất thơ,
chất nhạc của Xuân Diệu:
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều"...
(Thơ duyên)
Dấu hiệu của cuộc sống con người ở đây là âm thanh của một buổi chợ chiều đã
vắng người. Một buổi chợ đông, ồn ào náo nhiệt bao nhiêu thì một buổi chợ chiều hiu hắt,
ảm đạm, xao xác bấy nhiêu. Đây lại là âm thanh một buổi chợ chiều ở một cái làng xa nào
đó vẳng lại. Câu thơ có thể hiểu theo hai hướng khác nhau xuất phát từ hai cách hiểu về từ
“đâu”. Đâu có nghĩa là đâu đó hoặc có nghĩa là đâu có. Trước tiên, câu thơ được như một
câu hỏi, một lời thở than cảnh vật Tràng giang quạnh vắng đến mức ngay cả âm thanh của
một buổi chiều từ cái làng xa nào đó vẳng lại cũng khơng có. Vắng lặng đến tuyệt đối,
khơng những khơng có sự hoạt động của con người mà ngay đến âm thanh của hoạt động
đó cũng khơng có. Ngồi ra, có thể hiểu theo cách khác là đâu đó giữa khơng gian cảnh vật
tràng giang vẳng lại âm thanh xao xác của một buổi chợ chiều. Có âm thanh nhưng cảnh
vật khơng trở nên vui tươi và sống động hơn, trái lại càng trở lên nên vắng lặng. Dù có
hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn là để tô đậm nỗi buồn và bức tranh cảnh vật hoang vắng,
hiu hắt. Tuy vậy, đặt trong hệ thống tồn bài thơ thì cách hiểu thứ nhất có phần phù hợp
hơn, vì trong suốt bài thơ Huy Cận dường như muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về
cuộc sống con người. Khơng có âm thanh của buổi chợ chiều cùng hệ thống với các ý thơ
như “khơng một chuyến đị ngang”, “khơng cầu gợi chút niềm thân mật”, “khơng khói
hồng hơn”.
3.2. Hai câu thơ sau:
6


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Trong bài thơ, bức tranh cảnh vật tràng giang càng lúc càng được mở rộng, đến hai
câu thơ sau của khổ thơ thứ hai thì khơng gian cảnh vật tràng giang đã vụt lớn lên, mở rộng
đến vô cùng, vô tận và cảm xúc vũ trụ được thể hiện một cách mãnh liệt. Tình cảm, cảm

xúc chân thành, mãnh liệt vốn là cơ sở tạo nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm
xúc càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim bạn đọc. Và ở đây, cảm xúc
mãnh liệt của Huy Cận đã đem đến những câu thơ xuất thần. Trời đã về chiều, nắng từ trên
cao chiếu rọi xuống đẩy bầu trời lên cao hơn. Vẻ đẹp của bầu trời cao xanh đã bao lần đi
vào thi ca dân tộc: "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao" (Thu vịnh); "Trời cao xanh ngắt- Ô
kìa..." (Tiếng sáo Thiên Thai); "Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng" (Xuân Diệu). Để diễn tả
chiều cao của bầu trời Tràng giang, thi sĩ Huy Cận không dùng từ cao thông thường mà sử
dụng từ “sâu”. Từ “sâu” vừa gợi chiều cao vừa gợi cái thăm thẳm, hun hút đến vơ cùng của
bầu trời chiều. Từ láy “chót vót” càng tô đậm hơn chiều cao đến không cùng, không tận ấy.
"Nắng xuống/ trời lên sâu chót vót"
Ở đây, một lần nữa nhà thơ lại miêu tả một chuyển động ngược hướng “nắng xuống,
trời lên” như để tô đậm thêm tính chất phân li của cuộc đời vốn đã được nhắc đến trong
khổ thơ thứ nhất ở cảnh “Thuyền về nước lại”. Thế nên thi sĩ tả cảnh suy cho cùng là để
thể hiện tâm trạng là nỗi buồn, sự cô đơn, nhỏ bé trước cuộc đời và vũ trụ bao la.
Đến câu thơ cuối của khổ thơ “Sông dài trời rộng bến cơ liêu” thì một khơng gian ba
chiều đã được mở ra mà chiều nào cũng khơng có giới hạn. Cùng với cái cao, sâu hun hút
của bầu trời chiều tràng giang là bề rộng đến bao la, bát ngát của trời đất, vũ trụ và chiều
dài đến vơ cùng vơ tận của dịng sơng. Tất cả gợi bức tranh cảnh vật tràng giang mênh
mông đến rợn ngợp. Giữa cảnh vật Tràng giang hùng vĩ, mênh mông, hoang vắng xuất
hiện một cái bến cô liêu, tức là một cái bến trơ trọi, vắng vẻ khơng có một bóng người.
Nghệ thuật đối lập, cụ thể là đối ý đã đối lập giữa sự mênh mông của cảnh vật tràng giang
với sự trơ trọi, nhỏ bé của cái bến để tô đậm thêm cả hai chiều, vừa tô đậm thêm cái bát
ngát của dịng trường giang vừa tơ đậm là cái nhỏ bé, hoang vắng của cái bến. Cô liêu ở
đây không chỉ là sự cô liêu của cái bến mà cịn được hiểu là sự cơ liêu của hồn người. Nỗi
buồn của Huy Cận trong khổ thơ này là tâm lý tự nhiên của một con người cảm thấy mình
nhỏ bé trước thiên địa vơ thủy vơ chung. Cảm xúc ấy cũng giống như nỗi niềm của một
nhà thơ Trung Quốc thời trung đại:
Ai người trước đã qua
Ai người sau đã tới
Ngẫm trời đất vơ cùng

Một mình tn giọt lệ
(Trần Tử Ngang)
Đánh giá về khổ thơ: Nghệ thuật thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp quen thuộc 4/3, cách
sử dụng từ ngữ đầy sáng tạo như các từ láy lơ thơ, đìu hiu, chót vót,… cách thể hiện những
chuyển động ngược hướng, dấu phẩy phân chia câu thơ thành ba phần rõ rệt là những biện
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

pháp nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nổi bật cảm xúc được thể hiện trong khổ thơ. Xuyên
suốt trong khổ thơ là một nỗi buồn và nỗi buồn ấy trước hết là nỗi buồn của con người cảm
thấy mình nhỏ bé trước vũ trụ bao la vơ tận. Ngồi ra, nỗi buồn nơi đáy hồn nhân thế thể
hiện rõ qua việc phủ nhận hoàn toàn những dấu hiệu của cuộc sống con người. Huy Cận
nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã đem tâm trạng buồn, cơ đơn của mình “phủ
lên thiên nhiên”. Tuy nhiên, ở bề sâu của nỗi sầu vũ trụ ấy vần là tình yêu thắm thiết đối
với quê hương đất nước. Điều đó lí giải vì sao nhà thơ Xn Diệu đã nhận xét: “Tràng
giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lịng u giang san Tổ
quốc”.
4. Khổ thơ 3:
Xuân Diệu còn nhận xét về thơ Huy Cận: “thơ ơng khơng phải là rượu đã rót vào
chén, thơ ơng là men đương lên”. Cái tình trong thơ Huy Cận trong “Tràng giang” đúng là
không phô lộ, khơng phải “rượu đã rót ra chén” mà đầy sức gợi. Âm hưởng âm trầm, chất
ngất u buồn từ những câu thơ đầu tiên lan rộng đến hai khổ cuối. Từ một cành củi khô, con
thuyền trôi dạt ở khổ thơ thứ nhất đến hình ảnh "bèo dạt" vơ định, vô phương ở đây đều
gợi lên sự chia li "tan" mà không "hợp":
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông khơng một chuyến đị ngang.

Khơng cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trước cảnh "mênh mông" sông dài trời rộng, cánh bèo xanh nổi như một nét điểm
xuyết cho bức tranh cảnh vật. Hình ảnh những đám bèo nối tiếp nhau trơi dạt trên dịng
sơng thành “hàng nối hàng” tơ đậm thêm hình ảnh dịng sơng trải dài miên man, vơ tận. Ở
đây, ta thấy có sự gần gũi giữa hình ảnh “bèo dạt về đâu” với hình ảnh “bèo dạt mây trơi”
trong dân ca quan họ từng gợi lên trong lòng người bao cảm xúc. Từng cụm bèo lững lờ
trôi vô định trên sông không biết rồi sẽ đi đâu về đâu cũng khiến ta nhớ đến câu ca dao:
Thân em như thể bèo trơi
Sóng dập, gió dồi biết tấp vào đâu?
Hình ảnh ẩn dụ cánh bèo bao giờ cũng gợi lên sự vô định, xa xăm, lênh đênh, bèo
bọt. Đại thi hào Nguyễn Du cũng viết về cánh bèo phiêu bạt:
“Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh”
Hình ảnh cánh bèo trong thơ ca như vậy không phải mới, nó vốn dĩ đã xuất hiện khá
nhiều trong ca dao và thơ cổ nhưng đặt trong dịng "Tràng giang" nó vẫn có ý nghĩa riêng
và hình ảnh này cơ bản cũng là để gợi buồn. Nó giúp người đọc cảm nhận rõ rệt thêm cái
mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa, cái
bơ vơ, vơ định của kiếp người. Gam màu lạnh, cảnh quạnh quẽ càng thêm quạnh quẽ, u
buồn càng chất ngất u buồn hơn. Cánh bèo trôi hay chính con người đang lạc lồi giữa cái
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian? Hình ảnh cánh bèo cùng hệ thống với
các hình ảnh cành củi khô, con thuyền xuôi mái, cái bến cô liêu… đều là để tô đậm sự nhỏ
bé, cô đơn của kiếp người. Khơng chỉ dừng lại ở đó, biện pháp nghệ thuật sử dụng câu hỏi

tu từ cùng điệp từ “hàng” như trải rộng nỗi buồn trên sóng nước tràng giang khiến câu thơ
càng gợi buồn, khiến thi nhân đã buồn rồi lại buồn hơn.
Vì buồn nên thi nhân muốn tìm một nơi bấu víu, muốn tìm một chút hơi ấm của sự
sống con người nhưng cái nhận được chỉ là sự hiện diện của những cái không có. Cảnh bao
la nhưng vắng bặt bóng dáng con người. Điệp từ "không" như điểm nhấn cho sự vắng mặt:
không có một chuyến đị ngang, khơng có lấy một cây cầu để nối liền hai bờ, gợi chút niềm
thân mật. Khơng có "đị", khơng hề có cảnh "cơ chu trấn nhật các sa miên" (Thuyền đơn
một chiếc ngủ qua ngày – Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi) hay "Bến My Lăng nằm
không, thuyền đợi khách" (Bến Mi Lăng của Yến Lan). Cả những nhịp cầu "cầu bao nhiêu
nhịp thương mình bấy nhiêu" (Ca dao) cũng khơng hề xuất hiện. Tất cả bị phủ định: khơng
một cái gì đó gợi về tình người, lịng người muốn gặp gỡ lại qua nơi đôi bờ hoang vắng.
Hai bờ sông cứ thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật”
của những tâm hồn đồng điệu. Nó giống như là hai thế giới khơng có bất kỳ liên hệ nào với
nhau. Dẫu ở gần mà cũng thành xa xơi khơng thể với tới giống câu nói: “gần ngay trước
mắt xa tận chân trời”. Giữa đất trời sơng nước bao la khơng tìm được một người bạn tâm
giao tri kỷ, khơng ai có thể hiểu nỗi lịng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn như con sóng xơ
từng đợt trong lịng, cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực. Khơng có con người, khơng có sự
tương giao, tất cả đều "lặng lẽ", chỉ có thiên nhiên "bờ xanh" nối tiếp thiên nhiên “bãi
vàng” hoang vắng.
5. Khổ thơ 4:
Nếu như ba khổ thơ trước nhà thơ chủ yếu miêu tả cảnh vật Tràng giang mênh mông
vô tận với hình ảnh dịng nước, bờ bãi, cái bến, cồn…rồi mở rộng ra lên bầu trời và qua
cảnh vật để nói đến tâm trạng thì trong khổ thơ cuối cùng này, cảnh vật và tâm trạng được
miêu tả chia đều trong bốn câu thơ. Trong đó, hai câu đầu miêu tả cảnh vật và hai câu sau
miêu tả tâm trạng.
5.1. Hai câu thơ đầu:
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối cùng tiếp tục miêu tả bầu trời tràng giang vào thời
điểm cụ thể là vào lúc chiều tà. Bức tranh thiên nhiên được gợi lên trong hai câu thơ thật là
kỳ vĩ, hồnh tráng. Thường thì buổi chiều hay gợi cho ta sự tàn tạ, ảm đạm nhưng cảnh
chiều ở đây lại thật rạng rỡ. Những đám mây trắng cuộn lên ở phía chân trời thành một

khơng gian rộng lớn bàng bạc. Từ láy “lớp lớp” gợi liên tưởng đến về những đám mây
chiều tầng tầng lớp lớp chồng chất lên nhau. Theo Huy Cận từ “đùn” trong câu thơ được
ông học trong bài thơ “Thu hứng” của nhà thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Từ
“đùn” gợi chuyển động của những đám mây cứ cuộn lên và mở rộng ra mãi. Tuy nhà thơ
Huy Cận đã sử dụng hình ảnh trong thơ cổ nhưng câu thơ vẫn có vẻ đẹp riêng rất hiện đại.
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Trong bài thơ nghệ thuật đối cũng được nhà thơ Huy Cận cận dụng linh hoạt và với
tần số cao. Đó là sự đối lập giữa con thuyền và cành củi, cánh bèo trôi vô định ở những
khổ thơ trước để nhấn mạnh sự nhỏ bé của chúng trước sự mênh mông, rộng lớn bát ngát
của cảnh vật Tràng giang. Còn đến hai câu thơ này, ta lại thấy nghệ thuật đối lập giữa hình
ảnh cánh chim và hình ảnh bầu trời tràng giang. Sự đối lập ấy tô đậm sự khoáng đạt của
bầu trời chiều nhưng cũng cho thấy sự bé nhỏ, đơn chiếc của cánh chim. Giữa nền trời màu
bạc khoáng đạt ấy cánh chim chỉ là một chấm đen nhỏ bé, đơn chiếc. Đã là "cánh nhỏ" mà
lại chao nghiêng nên nét thanh mảnh của cánh chim càng dễ biến mất giữa khoảng không
vô tận. Huy Cận là người chịu ảnh hưởng khá nhiều của thơ ca truyền thống. Thơ ca xưa
nay khi miêu tả buổi chiều thường nhắc đến hình ảnh cánh chim bay giữa bầu trời chiều.
Đó là hình ảnh “Chúng điểu cao phi tận” trong thơ Lí Bạch. Ca dao Việt Nam có câu:
“Chim bay về núi tối rồi”
Trong thơ Nguyễn Du có hai câu thơ miêu tả cảnh chiều cũng nhắc đến hình ảnh
cánh chim:
Chim hơm thoi thót về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành
Cảnh hồng hơn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng có cánh chim:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Nhưng có lẽ cái hay trong câu thơ miêu tả cánh chim chiều của Huy Cận là màu sắc
hiện đại. Sắc hồng hơn bát ngát trên trang thơ, cánh chim bé bỏng nghiêng chao gợi lên
bao nhiêu xúc cảm. Con chim đường như chao nghiêng đôi cánh để kéo bầu trời xuống hay
là đơi cánh của nó đang chao nghiêng đi vì sức nặng của buổi chiều đang bng, bóng tối
đang lấn dần. Đặc biệt, hình ảnh bầu trời và cánh chim ít nhiều khiến người đọc cảm nhận
được sự nhỏ bé của con người trước trời đất vũ trụ bao la. Câu thơ hay là ở chỗ đã hiện đại
hóa được một hình ảnh thơ đậm chất cổ điển. Chất hiện đại của câu thơ còn nằm ở dấu hai
chấm thần tình. Dấu hai chấm giữa câu thơ đã gợi mối quan hệ giữa cánh chim và bóng
chiều, thể hiện buổi chiều tối dần, màn đêm bắt đầu bng xuống khiến con chim chao
nghiêng cánh, vội vàng tìm về với tổ ấm. Bức tranh cảnh vật được gợi lên từ hai câu thơ ít
nhiều cũng gợi cả tâm trạng và tâm trạng vẫn là nỗi buồn. Có thể nói, nỗi buồn chính là
tâm trạng xun suốt trong bài thơ này.
5.2. Hai câu thơ sau:
Hai câu thơ là tâm trạng nhớ nhà nhớ quê của tác giả. Tâm trạng ấy vốn được gợi ra
từ hình ảnh cánh chim bay về tổ trong buổi chiều tà ở hai câu thơ trước nhưng đến hai câu
thơ này mới trở nên rõ ràng hơn. Trong thơ ca xưa nay, thi liệu cánh chim nhỏ bé, đơn
chiếc giữa bóng chiều tà ln gợi cho những kẻ xa nhà, lữ thứ nỗi nhớ nhà nhớ quê và
niềm khao khát được sum họp gia đình. Hình ảnh cánh chim giữa cảnh vật Tràng giang
10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

mênh mông bát ngát cũng là sự tiếp nối của thơ ca cổ điển, cũng gợi cho Huy Cận tâm
trạng nhớ nhà, nhớ quê. Nối tiếp mạch thi cảm của người xưa, Huy Cận chính là "một
người của đời, một người ở giữa lồi người", tình cảm cảm xúc trong thơ ơng suy cho cùng
vẫn là những tình cảm cảm xúc của con người nói chung. Sức sống lâu bền của Tràng
giang chính là bởi có lẽ nó đúng là một tác phẩm có giá trị như quan niệm của nhà văn

Nam Cao: “Một tác phẩm thật có giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới
hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người”.
Hai câu sau được Huy Cận lấy lại ý trong bài thơ “Hồng Hạc lâu” của Thơi Hiệu:
Q hương khuất bóng hồng hơn
Trên sơng khỏi sóng cho buồn lịng ai
Thơi Hiệu là nhà thơ đời Đường và lầu Hồng Hạc là một di tích lịch sử, một cảnh
đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh nằm ngay bên bờ sông Trường giang ở Trung Quốc. Từ
lầu Hồng Hạc, Thơi Hiệu ngắm cảnh sơng Trường Giang vào lúc hồng hơn, nhìn thấy
khói sóng trên sơng, hướng về phía q hương khuất sau màu hồng hơn mà nhớ nhà, nhớ
q hương da diết. Hai câu thơ của Huy Cận cũng nói về tâm trạng của con người trước
cảnh sông nước vào buổi chiều tà, cũng là tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê hương. Tuy nhiên so
với thơ Thơi Hiệu thì thấy tâm trạng của người xưa là có sự tác động của ngoại cảnh, phải
nhìn thấy khói sóng ở trên sơng mới thấy nhớ nhà nhớ quê. Còn tâm trạng nhớ nhà, nhớ
q trong hai câu thơ của Huy Cận thì khơng hề chịu tác động của yếu tố ngoại cảnh nào.
Tâm trạng ấy như thể đã có sẵn ở trong lịng, có sẵn trong từng con sóng của dịng Tràng
giang. Bởi vậy có thể nói cảm xúc thơ của Huy Cận có phần sâu sắc hơn và nỗi nhớ nhà
nhớ quê cũng thường trực hơn. Đúng như nhà thơ Huy Cận tâm sự: Vì lúc đó tơi buồn hơn
là Thơi Hiệu buồn. Nhà thơ còn lưu ý người đọc về hai chữ “dợn dợn”. Theo ơng, có người
đọc chệch thành “dờn dợn” mà “dờn dợn” thì nó chẳng có ý nghĩa gì. Cịn từ láy “dợn
dợn” thì khơng chỉ thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ nhà nhớ quê có trên từng con sóng của dịng
Tràng giang mà hơn nữa,“dợn dợn” cịn thể hiện được cảm giác rợn ngợp của con người
trước cảnh đất trời mênh mông, vô tận, tô đậm thêm cảm giác vũ trụ cho bài thơ.
Toàn bộ bài thơ Tràng giang đã miêu tả cảnh vật sông nước mênh mang vơ tận.
Cảnh vật nhìn chung là vắng lặng khơng có dấu hiệu của sự sống con người, khơng có lấy
một âm thanh. Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng hai nét vẽ động, đó là chuyển động của
cánh chim, của đám mây chiều. Có nét vẽ động nhưng bức tranh cảnh vật không trở nên
sinh động hơn, vui tươi hơn mà chỉ tô đậm thêm nỗi buồn đang đầy vơi trong lịng thi sĩ.
Có thể thấy rất rõ, trong nỗi buồn, sự bất lực của chính mình, Huy Cận đã viết lên những
dòng thơ ca hát về non sơng đất nước. Ơng đúng là người thi sĩ mà B. Shelly từng nhắc
đến: “thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm

vui cho sự cơ độc của chính mình”.
* Đánh giá:
11


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Với thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3 quen thuộc, mang phong vị đường thi đậm nét,
nghệ thuật đối ý giữa cảnh vật Tràng giang mênh mông bát ngát với cánh chim chiều
không chỉ làm nổi bật cảm xúc vũ trụ, cảm giác của con người trước vũ trụ bao la rộng lớn
mà còn tạo giọng thơ, cấu trúc thơ cân đối nhịp nhàng. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ sáng tạo
với các từ láy lớp lớp, dợn dợn; nghệ thuật sử dụng dấu hai chấm trong câu thơ và đặc biệt
là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã làm nổi bật ý nghĩa chủ đề của đoạn thơ.
Khổ thơ đã bộc lộ rõ nhất tâm trạng nhớ nhà nhớ quê của Huy Cận, nhớ một cách da
diết, nhớ ngay cả khi đang ở trên quê hương của mình. Đoạn thơ đi thế cũng thể hiện nghĩa
chung của cả bài đó là tình u q hương, đất nước rất kín đáo mà sâu nặng.
III. KẾT LUẬN
1. Nghệ thuật
Bài thơ “Tràng giang vừa mang đặc điểm thơ cổ điển vừa mang tính hiện đại rõ nét.
Thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp truyền thống là 4/3, bút pháp tả cảnh ngụ tình, nghệ
thuật đối chủ yếu là đối ý chứ không phải trong câu thiên về nghiêm luật tạo không khí
trang trọng, sự tương xứng nhịp nhàng. Bên cạnh đó việc láy lại vần “ang” và các từ láy
song song, điệp điệp, chót vót, lớp lớp, việc học lại ý thơ cổ điển … cũng là những yếu tố
tạo nên cổ điển cho bài thơ. Tính chất hiện đại thể hiện ở thi liệu rất mới mẻ, quan niệm
Mỹ học chịu ảnh hưởng từ phương Tây, cách kết hợp từ mới lạ “sâu chót vót”…cách thể
hiện những chuyển động ngược hướng thể hiện tính chất phân li của cuộc đời, sử dụng
sáng tạo các dấu câu …
2. Nội dung

Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh cảnh vật tràng giang
hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu. Bức tranh mà Huy Cận
tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước, bến, thuyền… vừa mang một vẻ đẹp
vừa cổ kính vừa hiện đại vừa rất Việt Nam. Nhưng bao trùm khơng gian ấy là một nỗi
buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà cịn là nỗi buồn chung
của một thế hệ các nhà thơ mới 1930 – 1945, của những kẻ “bơ vơ như những đứa con lạc
mẹ” trước bối cảnh xã hội đương thời. Nỗi buồn được thể hiện trong bài thơ là nỗi buồn
sông núi, gắn với tình yêu quê hương đất nước.
LUYỆN ĐỀ
Đề số 1: Bức tranh thiên nhiên trong “Tràng giang” của Huy Cận.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang
12


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Bức tranh thiên nhiên mang nét đẹp đượm buồn được
thể hiện trong bài thơ.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Khi cịn là sinh viên của trường Cao đẳng canh nơng, vào các
buổi chiều cuối tuần Huy Cận thường đạp xe lên vùng Chèm để vẽ tranh ngoạn cảnh. Vào
một buổi chiều mùa thu năm 1939, ông đã dừng lại để ngắm cảnh sơng Hồng. Cảnh vật
dịng sơng mênh mơng sóng nước gợi hứng cho nhà thơ sáng tác bài thơ “Tràng Giang”.
Bài thơ được xem là thi phẩm nổi tiếng thể hiện rõ phong cách thơ của Huy Cận. Mặc dù
được gợi ý, gợi tứ từ cảnh vật sông Hồng nhưng theo nhà thơ thì trong bài thơ này ơng
khơng chỉ viết về sông Hồng mà viết về tất cả các dịng sơng q hương. Ban đầu, tác

phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành “Tràng giang”.
- Đề tài: Trong văn học Việt Nam, thiên nhiên là đề tài quen thuộc, là cảm hứng bất
tận cho các nhà thơ, nhà văn. Đọc những vần thơ, câu văn của các tác giả ta dễ dàng nhận
ra vẻ đẹp thiên nhiên rất đặc trưng cho mỗi giai đoạn, thời kì sáng tác. Đó là vẻ đẹp cổ điển
trong nền văn học trung đại và vẻ đẹp đa sắc màu của văn học hiện đại. Thế nhưng thiên
nhiên trong “Tràng giang” của Huy Cận lại mang một vẻ đẹp riêng. Vẻ đẹp của thiên nhiên
trong bài thơ vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang những nét hiện đại.
- Bức tranh cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ là bức tranh sông nước vào lúc chiều
tà. Nhà thơ muốn thơng qua các hình ảnh thiên nhiên để thể hiện tâm trạng là nỗi buồn, nỗi
nhớ nhà, nhớ quê.
2. Bức tranh thiên nhiên trong “Tràng giang”
2.1. Bức tranh sông nước mênh mơng, rộng lớn rợn ngợp (Khổ 1)
"Sóng gợn tràng giang... mấy dịng"
- Hình ảnh nổi bật:
+ "Sóng gợn... điệp điệp": Gợi tả những con sóng gợn nhẹ trên dịng sông mênh
mông gợi bao nỗi buồn triền miên. Từ láy "điệp điệp": Cảm giác tuần hoàn, lặp đi lặp lại,
quanh quẩn của nỗi buồn trong tâm hồn tác giả
+ Con thuyền trơi giữa dịng tràng giang mang dấu hiệu của sự sống con người,
muốn tô điểm cho bức tranh sông nước, tạo sinh khí nhưng “Con thuyền xi mái” là con
thuyền không người lái, mái chèo buông lơi, vô định. "Con thuyền... song song": Thuyền
và nước mang tính ước lệ tượng trưng và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên "song
song" gợi tả sự chia li, không gặp gỡ với nỗi "sầu trăm ngả". Phép tiểu đối "thuyền về nước
lại" càng gợi sự phân li, chia lìa. Thổi vào khung cảnh một khối u sầu, một dự cảm và nỗi
buồn lớn.
+ "Củi một cành khơ... mấy dịng": Hình ảnh ẩn dụ cho biết bao kiếp người nhỏ bé,
cơ đơn trơi dạt trên dịng sơng cuộc đời rộng lớn.
2.2. Khung cảnh hoang vắng trên sông (Khổ 2 + 3)
13



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

"Lơ thơ cồn nhỏ... bãi vàng"
- "Lơ thơ... đìu hiu": Sự kết hợp các từ láy "lơ thơ, đìu hiu" trong cùng một câu thơ + biện
pháp tu từ nhân hóa => Nhấn mạnh thêm nỗi buồn, cả một khoảng khơng rộng lớn chỉ cịn
vài cồn cát thưa thớt, vài ngọn gió hắt hiu khiến cho nỗi buồn càng thêm thấm thía.
- "Đâu tiếng làng xa... chợ chiều": Từ "đâu" được đặt ở đầu câu thơ như sự lắng nghe của
Huy Cận giữa khơng gian cơ quạnh hoặc có thể hiểu đó là một câu hỏi bâng khuâng với
trời đất,...
=> Khung cảnh chợ chiều đã tàn ở làng quê nghèo miền Bắc những năm trước Cách mạng
càng khiến lòng người thêm buồn xơ xác
- "Nắng xuống trời lên, sâu chót vót": Phép tiểu đối "nắng xuống, trời lên" + sự kết hợp từ
ngữ đầy sáng tạo "sâu chót vót" làm cho khung cảnh càng trở nên sâu rộng hơn và trong
khung cảnh ấy, sự cô đơn của con người cũng đến cùng cực.
- Phép tiểu đối "sông dài trời rộng" + cụm từ "bến cô liêu": Tận cùng sự mênh mang của
cảnh vật và nỗi cô độc của con người.
- "Bèo dạt... hàng nối hàng": Hình ảnh ẩn dụ gợi lên thân phận của bao kiếp người nổi trôi,
lênh đênh, vơ định giữa dịng sơng cuộc đời rộng lớn.
+ Câu hỏi tu từ "về đâu" khắc khoải, da diết đặt ra cho cuộc đời, cho xã hội và chính bản
thân người nghệ sĩ
+ Từ láy "mênh mông", "lặng lẽ" kết hợp với điệp từ "khơng", cụm từ "khơng một chuyến
đị ngang, không cầu": Khắc họa rõ nét sự hoang vắng của cảnh vật và sự cô đơn, lạc lõng
của con người.
- "Bờ xanh tiếp bãi vàng": Gợi tả khung cảnh mênh mông đến hút tầm mắt, trong khung
cảnh ấy, con người hiện lên thật nhỏ bé, cô đơn.
2.3. Bầu trời Tràng giang lúc chiều tà (Khổ 4)
- Bức tranh hoàng hơn có:
+ Mây và núi "Lớp lớp... núi bạc": Từ "đùn" kết hợp với từ láy "lớp lớp" tạo nên khung

cảnh hùng vĩ, bao la, rạng rỡ.
+ Xuất hiện cánh chim nhỏ bé "chim nghiêng cánh nhỏ": Hình ảnh ước lệ tượng trưng
quen thuộc của thi ca.
+ Nghệ thuật đối lập giữa cánh chim, chòm mây làm nổi bật sự bao la, khoáng đạt của bầu
trời chiều, sự nhỏ bé đơn chiếc của cánh chim.
- Đứng trước khung cảnh bao la ấy, nhà thơ trào dâng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nỗi
buồn trước thực cảnh đất nước đầy rối ren.
3. Đánh giá về bức tranh thiên nhiên:
3.1. Thông qua bức tranh thiên nhiên để thể hiện tâm trạng: nỗi buồn, tâm trạng nhớ
nhà nhớ quê, tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước.
3.2. Vừa mang nét cổ điển vừa có tính hiện đại
a. Đề tài, cảm hứng
14


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Tràng giang cổ điển khi mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời
gian, không gian vô hạn, vô cùng.
- Tràng giang đồng thời thể hiện "nỗi buồn thế hệ" của một "cái tơi" Thơ mới thời mất
nước "chưa tìm thấy lối ra".
b. Chất liệu thi ca
- Ở tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh thân quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi
đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều...), nhiều hình ảnh, tứ thơ được đợi từ thơ cổ.
- Mặt khác, Tràng giang cũng khơng thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời
thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt...)
c. Thể loại và bút pháp
- Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ

với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả
những từ Hán việt cổ kính (tràng giang, cơ liêu...).
- Song, Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp "cái tơi" trữ tình
"buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà...), qua những từ ngữ
sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn
dợn…).
III. KẾT LUẬN
- Khẳng định vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên
- Nêu cảm nhận của bản thân về bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang.
Đề số 2: Đánh giá về bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận có ý kiến cho rằng “Tràng
giang đã nối tiếp mạch thi cảm truyền thồng với sự cách tân đích thực”. Bằng hiểu
biết về bài thơ, anh/chị hãy làm sáng tỏ.
(Tương đương đề bài vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang
- Nêu vấn đề cần nghị luận và dẫn ý kiến
II. THÂN BÀI
1. Giải thích:
- Mạch thi cảm truyền thống: Là cảm xúc, cảm hứng nổi bật của thơ ca truyền thống. Các
cảm xúc, cảm hứng nổi bật bao gồm:
+ Cảm xúc vũ trụ
+ Nhân tình thế thái
+ Tình yêu quê hương, đất nước…
+ Tâm trạng của kẻ xa nhà, lữ thứ trong cảnh chiều tà…
Người xưa thường mang tâm trạng ấy thể hiện qua bức tranh thiên nhiên, cảnh vật.
15


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Cách tân nghệ thuật đích thực: Cách tân là sự đổi mới. Ở giai đoạn 1930-1945 thì việc
đổi mới thơ ca thể hiện rõ ở chỗ thoát khỏi thi pháp trung đại chuyển sang chịu ảnh hưởng
của thơ ca phương Tây mà ta gọi là thi pháp hiện đại.
- Ý kiến khẳng định bài thơ “Tràng giang” của Huy cận vừa có yếu tố truyền thống chịu
ảnh hưởng từ thơ ca truyền thống (bao gồm thơ Đường, thơ ca dân tộc) vừa mang yếu tố
hiện đại chịu ảnh hưởng từ phương Tây một cách rõ nét.
2. Bài thơ “tiếp nối mạch thi cảm của thơ ca truyền thống” (Cổ điển)
- Cảm hứng bao trùm toàn bộ bài thơ là nỗi sầu vũ trụ, là tâm trạng buồn vì cảm thấy nhỏ
bé, bơ vơ, cô đơn trước sự vô cùng vô tận, vô thủy vô chung của thiên nhiên, trời đất, vũ
trụ. Điều đó được thể hiện qua:
+ Nhan đề
+ Lời đề từ
+ Bốn khổ thơ (Phân tích bài thơ)
- Bài thơ là dòng chảy nối tiếp trong mạch nguồn tình cảm với quê hương, đất nước. Thể
hiện qua:
+ Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam như dịng
sơng, con đị, bờ bãi, cành củi, cánh bèo, cồn cát trên sông, bầu trời…
+ Nỗi nhớ nhà, nhớ quê thể hiện qua hai câu thơ cuối.
- Mạch nguồn truyền thống thể hiện qua việc sử dụng nhuần nhuyễn các yếu tố nghệ thuật
của thơ ca truyền thống như:
+ Nhan đề, đề từ gợi khơng khí cổ điển
+ Thể thơ thất ngơn, nhịp thơ ¾ truyền thống, cấu trúc đăng đối
+ Thi liệu truyền thống: con thuyền, bến, cánh chim, bóng chiều…
+ Nghệ thuật đối ý: sự mênh mông, bát ngát của trang giang với con thuyền, cành
củi, cánh bèo, cánh chim.
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình, các từ láy, từ Hán Việt, học lại ý thơ cổ…
3. Bài thơ là “cách tân nghệ thuật đích thực” (Hiện đại)
- Cảm hứng: Tràng giang thể hiện "nỗi buồn thế hệ" của một "cái tôi" Thơ mới thời mất

nước "chưa tìm thấy lối ra": Trong suốt bài thơ thi sĩ thể hiện nỗi buồn lớn chưa từng thấy,
nỗi buồn trải theo chiều dài, tỏa ra chiều rộng thành nỗi sầu vạn kỉ.
- Cái tơi trữ tình: Có xu hướng giãi bày trực tiếp "cái tơi" trữ tình: "buồn điệp điệp, sầu
trăm ngả, khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà...), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn
xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…).
- Thể hiện các yếu tố nghệ thuật hiện đại:
+ Thi liệu: Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của
đời thường, không ước lệ như cành củi khô, tiếng vãn chợ chiều, cánh bèo dạt...
+ Thể thơ thất ngôn không theo ngiêm luật, nhạc điệu phong phú, ngôn từ giản dị.
4. Đánh giá
16


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận có sự kế thừa thơ ca truyền thống và có nhiều đóng
góp sáng tạo cho thơ ca trong phong trào Thơ mới.
- Nguyên nhân:
+ Huy Cận yêu thơ Đường, thơ dân tộc và chịu ảnh hưởng sâu sắc của trường thơ
Tượng trưng Pháp.
+ Nhà thơ cũng mang tâm tư của các nhà thơ mới giai đoạn 1945, cảm thấy mình
“bơ vơ như đứa con lạc mẹ” trong bối cảnh xã hội đương thời.
III. KẾT LUẬN
- Khẳng định vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Đề số 3: Về bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận có ý kiến cho rằng “ Tràng giang là
bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng đượm buồn, đồng thời là bức tranh tâm trạng, tâm
hồn giàu tính nhân văn của nhà thơ”. Anh/chị hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ.

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang
- Nêu vấn đề cần nghị luận và dẫn ý kiến
II. THÂN BÀI
1. Bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng đượm buồn
(Tham khảo đề số 1)
2. Bức tranh tâm trạng thể hiện tâm hồn giàu tính nhân văn của nhà thơ
2.1. Giải thích:
- Nhân văn: là giá trị đích thực, giá trị bên trong của con người. Tâm hồn nhân văn là
những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc tốt đẹp của con người, hướng con người đến Chân –
Thiện – Mĩ. Tư tưởng nhân văn chính là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.
2.2. Phân tích, chứng minh
Nỗi buồn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc nhân văn thể hiện trong bài thơ:
- Sầu vũ trụ: Cảm hứng vũ trụ, cảm thấy con người nhỏ bé trước trời đất vũ trụ bao la.
- Sầu thiên cổ: Mối sầu lớn tưởng kéo dài hàng ngàn năm, vạn năm lan tỏa khắp bức
tranh thiên nhiên trong bài thơ.
- Sầu nhân thế: Phủ định cuộc sống con người, thể hiện sự cô đơn, khao khát sự tri âm
tri kỉ nhưng khơng có.
- Sầu sơng núi: Nỗi buồn của thế hệ các nhà thơ mới bế tắc, khơng tìm được lối ra
nhưng vẫn hướng về non sông đất nước thể hiện qua nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
3. Bình luận
- Là ý kiến đúng đắn, khẳng định được ý nghĩa sâu sắc của bài thơ
- Bức tranh thiên nhiên và tâm hồn nhân văn được thể hiện qua các đặc sắc nghệ thuật.
17


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


III. KẾT BÀI
- Khẳng định vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và tính nhân văn của bài thơ
- Nêu cảm nhận của bản thân

18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×