Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

Kĩ năng ứng phó với stress trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.04 KB, 183 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ VĂN ĐOẠT
KĨ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI STRESS
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO TÍN CHỈ
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Chuyên ngành: Tâm lí học chuyên ngành
Mã số: 62.31.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS NGUYỄN XUÂN THỨC
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án
Đỗ Văn Đoạt
i
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục biểu đồ, sơ đồ
VI N HÀN LÂM KHOA H C XÃ H I VI T NAMỆ Ọ Ộ Ệ 1
H C VI N KHOA H C XÃ H IỌ Ệ Ọ Ộ 1
Chuyên ng nh: Tâm lí h c chuyên ng nhà ọ à 1
Mã s : 62.31.80.05ố 1


2.1.1. M c ích nghiên c uụ đ ứ 62
Xây d ng khung lý thuy t c a lu n án, t ó xác nh quan i m ch ự ế ủ ậ ừđ đị để ủ
o c a lu n án trong vi c nghiên c u nh ng v n v các KN P v i đạ ủ ậ ệ ứ ữ ấ đề ề Ư ớ
stress trong ho t ng h c t p theo tín ch c a SV HSP, t ng quan ạ độ ọ ậ ỉ ủ Đ ươ
gi a các KN P v i các y u t nh h ng.ữ Ư ớ ế ốả ưở 62
2.1.2. N i dung nghiên c uộ ứ 62
VI N HÀN LÂM KHOA H C XÃ H I VI T NAMỆ Ọ Ộ Ệ 1
H C VI N KHOA H C XÃ H IỌ Ệ Ọ Ộ 1
Chuyên ng nh: Tâm lí h c chuyên ng nhà ọ à 1
Mã s : 62.31.80.05ố 1
2.1.1. M c ích nghiên c uụ đ ứ 62
Xây d ng khung lý thuy t c a lu n án, t ó xác nh quan i m ch ự ế ủ ậ ừđ đị để ủ
o c a lu n án trong vi c nghiên c u nh ng v n v các KN P v i đạ ủ ậ ệ ứ ữ ấ đề ề Ư ớ
stress trong ho t ng h c t p theo tín ch c a SV HSP, t ng quan ạ độ ọ ậ ỉ ủ Đ ươ
gi a các KN P v i các y u t nh h ng.ữ Ư ớ ế ốả ưở 62
2.1.2. N i dung nghiên c uộ ứ 62
ii
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐHCT Đại học Cần Thơ
ĐHĐT Đại học Đồng Tháp
ĐHSP TP.HCM Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
ĐLC Độ lệch chuẩn
ĐTB Điểm trung bình
GV Giảng viên
HCTC Tín chỉ
KN, ƯP, KNƯP Kĩ năng, ứng phó, kĩ năng ứng phó
KSP Khoa Sư phạm
SV, SVSP, HSSV Sinh viên, sinh viên sư phạm, học sinh sinh viên

TB Trung bình
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TN Thực nghiệm
VTN Vị thành niên
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
VI N HÀN LÂM KHOA H C XÃ H I VI T NAMỆ Ọ Ộ Ệ 1
H C VI N KHOA H C XÃ H IỌ Ệ Ọ Ộ 1
Chuyên ng nh: Tâm lí h c chuyên ng nhà ọ à 1
Mã s : 62.31.80.05ố 1
2.1.1. M c ích nghiên c uụ đ ứ 62
Xây d ng khung lý thuy t c a lu n án, t ó xác nh quan i m ch ự ế ủ ậ ừđ đị để ủ
o c a lu n án trong vi c nghiên c u nh ng v n v các KN P v i đạ ủ ậ ệ ứ ữ ấ đề ề Ư ớ
stress trong ho t ng h c t p theo tín ch c a SV HSP, t ng quan ạ độ ọ ậ ỉ ủ Đ ươ
gi a các KN P v i các y u t nh h ng.ữ Ư ớ ế ốả ưở 62
2.1.2. N i dung nghiên c uộ ứ 62
iv
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Học chế tín chỉ đã được triển khai áp dụng ở nhiều trường đại học trên thế
giới và Việt Nam. Trong chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ, người học được
tôn trọng và được phát huy các năng lực của bản thân. Có thể nói, học chế tín chỉ đã
đem lại nhiều mặt tích cực cho người học. Tuy nhiên, hình thức đào tạo này cũng
đặt ra những yêu cầu cao cho cả người dạy và người học. Đối với người học: Họ
phải hết sức tích cực, chủ động, biết cách tự học, thì mới có thể đáp ứng được yêu
cầu của chương trình đào tạo theo tín chỉ. Chính các yêu cầu cao này đã tạo ra
những áp lực, khó khăn cho sinh viên mà đòi hỏi sinh viên phải vượt qua, nhất là
khi sinh viên vẫn có thói quen học thụ động ở phổ thông, quen với phương thức đào
tạo theo niên chế và chưa có kĩ năng đương đầu hay giải quyết các tình huống vượt

quá sức chịu đựng của bản thân. Đây là nguyên nhân dẫn đến stress ở sinh viên. Có
thể nói, stress là hiện tượng luôn xảy ra ở sinh viên bởi học tập về bản chất là lĩnh
hội cái mới mà cái mới bao giờ cũng tiềm ẩn khả năng gây stress. Khả năng xuất
hiện của stress càng cao khi hoạt động học tập theo học chế tín chỉ còn khá mới mẻ
đối với sinh viên. Tuy nhiên, stress không xảy ra hoặc stress sẽ được giải tỏa khi SV
có KNƯP. Do vậy, nghiên cứu về KNƯP với stress trong hoạt động học tập theo tín
chỉ là vô cùng cần thiết. Tại sao?
Về lí luận, KNƯP với stress trong hoạt động học tập được xem là kĩ năng
sống, kĩ năng học tập quan trọng cần có ở mỗi người và ở một khía cạnh nào đó, khi
một cá nhân có khả năng đương đầu với stress thì stress lại có thể là một nhân tố
tích cực bởi vì chính stress sẽ buộc cá nhân đó phải tập trung vào công việc của
mình và ứng phó một cách thích hợp. Tuy nhiên, stress còn có một sức mạnh hủy
diệt cuộc sống cá nhân nếu stress đó quá lớn và không giải tỏa nổi. Cụ thể, stress có
ảnh hưởng đến sức khỏe: khi bị stress, SV thường có biểu hiện: nhức đầu, đau cổ,
đau lưng, tức ngực, khó thở, hoa mắt, chóng mặt, cảm giác choáng váng, khẩu vị
thay đổi, chán ăn, rất mệt mỏi [32], [79] ; ảnh hưởng đến kết quả học tập: stress có
1
biểu hiện qua các phản ứng rối loạn hoạt động tâm lí: giảm rõ tư duy phê phán,
phân phối chú ý không đầy đủ, giảm sút trí nhớ, quyết định thiếu chính xác, mất
bình tĩnh, cáu gắt hoặc trơ lỳ. Cảm giác và tri giác kém nhạy bén, tiếp thu thông tin
chậm, nhìn nghe không rõ, cảm giác sai, thiếu phối hợp giữa các cảm giác. Rối loạn
cảm giác vận động, tư thế lúng túng, cứng ngắc, rối loạn sự hiệp đồng động tác.
Stress càng nặng, hiệu quả nhận diện và tư duy linh hoạt càng giảm. Khi tập trung
vào các phương diện đe dọa của tình huống và tập trung vào tính cảm giác, ta sẽ
giảm đi lượng chú ý sẵn có nhằm đối phó với các nhiệm vụ khác trong tầm tay [79]
[29, tr37]; ảnh hưởng đến đời sống tâm lý cơ bản như nhận thức, cảm xúc và hành
vi: stress làm tổn thương trí nhớ, gây ra sự bất ổn về thần kinh, không có khả năng
tập trung, do dự, thiếu quyết đoán, thiếu chú ý, đầu óc trống rỗng,… là những triệu
chứng thường xuất hiện. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi bị căng thẳng lúc làm
việc, các thông số tâm lí như trí nhớ, tư duy và chú ý đều giảm một cách đáng kể

[dẫn theo 79, tr28-31]. Ngoài ra, SV khi bị stress thường có những ý nghĩ tiêu cực,
chẳng hạn như: “Tôi không thể làm được điều này”, “Mình là kẻ kém cỏi”, “Mình
luôn gặp thất bại”,… và không có khả năng thoát ra khỏi những ý nghĩ tiêu cực này
[90]. Khi bị stress lâu ngày, một số biểu hiện tâm lý sẽ gia tăng như sợ hãi, tình cảm
bất ổn, khủng hoảng,… những phản ứng sinh lí biểu hiện chứng lo âu như run sợ,
đau nhức có mức độ rất trầm trọng đến nỗi bị lẫn lộn với các chứng trạng của bệnh
tim đang phát tác. Họ thường đột nhiên lo buồn, cáu gắt, giận dữ,… (đủ các loại
cảm xúc tiêu cực) [17, tr9]. Theo nghiên cứu của Trever Butlin (2006), khi bị stress,
SV có khuynh hướng thích sử dụng nhiều thức uống có cồn, luôn muốn thu mình
vào một chỗ, ngại tiếp xúc với mọi người. Nhiều SV tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thiếu
kiềm chế, bối rối, sợ hãi, bực dọc, rất dễ có những hành vi gây gổ với bạn bè. Họ
làm việc thường mất rất nhiều thời gian nhưng hiệu quả công việc rất thấp. Thậm
chí, những người bị stress quá nặng còn có thể dẫn đến những hành vi thiếu kiềm
chế, mang tính chất phá hoại, nguy hiểm cho bản thân và xã hội. Do vậy, tìm cách
ứng phó có hiệu quả, phù hợp với điều kiện bản thân là rất quan trọng. Đối với
2
SV, nếu có KNƯP những tình huống stress sẽ có vai trò to lớn đối với hiệu quả
học tập của chính họ, đồng thời góp phần từng bước giúp bản thân thích ứng với
chương trình đào tạo mới (chương trình đào tạo theo tín chỉ) và góp phần nâng
cao hiệu quả đào tạo. Thực tế cho thấy, nghiên cứu lí luận về KNƯP với stress
nói chung và KNƯP trong học tập theo tín chỉ nói riêng là vấn đề chưa được giải
quyết nên rất cần thiết tập trung nghiên cứu.
Về thực tiễn, ý thức được tầm quan trọng của KNƯP với stress trong cuộc
sống, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu để phổ biến và giảng dạy cho mọi
người. Tuy nhiên, kĩ năng này chưa được chú trọng đúng mức ở các trường
ĐHSP, SVSP còn tỏ ra lúng túng, yếu kém về kĩ năng giải quyết những tình
huống stress trong hoạt động học tập cũng như cuộc sống của họ. Kết quả là tinh
thần giảm sút, học tập không tiến bộ, thậm chí có những hành vi “bất mãn” với
cuộc sống,… Mặt hạn chế này do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan
lẫn nguyên nhân khách quan. Trong đó phải kể đến SVSP thiếu cơ hội rèn kĩ năng

sống, đặc biệt là KNƯP với stress.
Đã có không ít đề tài, các bài báo nghiên cứu về stress và cách ứng phó
với stress ở các lứa tuổi khác nhau trong đó có lứa tuổi SV. Tuy nhiên, nghiên
cứu về KNƯP với stress ở SVSP còn ít và mờ nhạt. Thành thử, việc đúc rút
những kinh nghiệm về rèn kĩ năng nói chung và KNƯP với stress trong hoạt
động học tập nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động học tập và cũng là
nâng cao chất lượng đào tạo sư phạm đang trở thành một yêu cầu cấp bách.
Vì những lý do trên, đề tài nghiên cứu của luận án được chọn là: “Kĩ năng
ứng phó với stress trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phát hiện, làm rõ mức độ và biểu hiện của kĩ năng ứng ứng phó với stress
trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP. Trên cơ sở đó, đề xuất và
thực nghiệm biện pháp nâng cao kĩ năng ứng phó với stress trong hoạt động học
tập theo tín chỉ cho SV.
3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ và biểu hiện kĩ năng ứng phó với stress trong hoạt động học tập
theo tín chỉ của SV ĐHSP.
3.2. Khách thể nghiên cứu
SVSP ở các trường đại học thuộc tỉnh Đồng Tháp, thành phố Cần Thơ và
thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể:
- Khách thể điều tra thử: 102 SVSP của ĐH Cần Thơ.
- Khách thể điều tra chính thức: 503 SVSP các khối ngành tự nhiên và xã
hội. Trong đó:
+ Điều tra bằng bảng hỏi: 300 SVSP Đại học Cần Thơ, 104 SVSP Đại học
Đồng Tháp và 99 SVSP ĐHSP. TP.Hồ Chí Minh.
+ Phỏng vấn sâu: 20 SVSP ĐH Cần Thơ, 14 cố vấn học tập.
+ Quan sát: 16 lượt khách thể.
- Khách thể nghiên cứu thực nghiệm: 16 SVSP thuộc khối ngành tự nhiên

và xã hội của ĐH Cần Thơ.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
4.1. Kĩ năng ứng phó với stress trong học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP bao
gồm: Nhóm kĩ năng nhận diện tác nhân gây stress và biểu hiện của stress trong
học tập theo tín chỉ; Nhóm kĩ năng xác định các phương án ứng phó với stress
trong học tập theo tín chỉ; Nhóm kĩ năng thực hiện các phương án ứng phó nhằm
giảm stress và giải quyết vấn đề trong học tập theo tín chỉ. Mức độ biểu hiện các
nhóm kĩ năng ứng phó với stress trong học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP ở mức
trung bình và không đồng đều nhau, trong đó kĩ năng thực hiện các phương án
ứng phó với stress được SV quan tâm, thể hiện rõ nhất và SV quan tâm, thể hiện
yếu nhất ở kĩ năng nhận diện stress.
4.2. Các KNƯP với stress trong học tập theo tín chỉ ở SV ĐHSP chịu ảnh hưởng
bởi một số yếu tố chủ quan (nền tảng kiến thức của SV, kinh nghiệm sống của
SV, hứng thú học tập của SV và khí chất của SV) và một số yếu tố khách quan
4
(cách tổ chức đào tạo theo tín chỉ của nhà trường, vai trò của GV bộ môn, cố vấn
học tập). Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố là không giống nhau, trong đó những
yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất là cách tổ chức đào tạo của nhà trường, cố vấn học
tập và nền tảng kiến thức của SV.
4.3. Có thể nâng cao KNƯP với stress trong học tập theo tín chỉ cho SV ĐHSP nhằm
giảm thiểu stress bằng biện pháp tổ chức bồi dưỡng kiến thức về KNƯP với stress và
tổ chức rèn luyện hình thành KNƯP với stress theo qui trình được xác định.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Xác định cơ sở lý luận của luận án: Làm rõ các khái niệm công cụ, tiêu chí, mức
độ và biểu hiện của các nhóm kĩ năng thành phần thuộc kĩ năng ứng phó với stress
trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP
5.2. Phân tích làm rõ thực trạng KNƯP với stress cùng các yếu tố ảnh hưởng đến
KN này trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP.
5.3. Đề xuất và tổ chức thực nghiệm các biện pháp tác động tâm lý-sư phạm
nhằm nâng cao KNƯP với stress trong học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP.

6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1. Về nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu mức độ biểu hiện của stress và kĩ năng ứng phó với stress
trong hoạt động học tập theo tín chỉ dưới góc độ Tâm lí học. Trong đó, tập trung
khai thác mức độ biểu hiện của stress tiêu cực trong hoạt động học tập theo tín
chỉ và kĩ năng ứng phó theo hướng coi KN là thao tác (mặt kĩ thuật hành động).
- Nghiên cứu biểu hiện và mức độ của các nhóm kĩ năng thành phần trong
KNƯP với stress trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP (Nhóm kĩ
năng nhận diện tác nhân gây stress và biểu hiện của stress trong học tập theo tín
chỉ; Nhóm kĩ năng xác định các phương án ứng phó với stress trong học tập theo
tín chỉ; Nhóm kĩ năng thực hiện các phương án ứng phó nhằm giảm stress và giải
quyết vấn đề trong học tập theo tín chỉ) và các yếu tố ảnh hưởng đến KN này.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố: Chủ quan (nền tảng kiến thức của
SV, kinh nghiệm sống của SV, hứng thú học tập của SV và khí chất của SV) và
5
khách quan (cách tổ chức đào tạo theo tín chỉ của nhà trường, vai trò của GV bộ
môn, cố vấn học tập).
6.2. Về khách thể và địa bàn nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu khách thể là sinh viên đại học sư phạm ở 3
trường đại học: ĐH Cần Thơ, ĐH Đồng Tháp và ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.
7. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài luận án được tiến hành trên cơ sở lí luận của nhiều ngành tâm lí
như: Tâm lí học đại cương, Tâm lí học lứa tuổi, Tâm lí học sư phạm, Tâm lí học
trị liệu. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản của tâm lí học sau đây:
- Nguyên tắc tiếp cận hoạt động: Các KNƯP với stress trong hoạt động
học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP được tiến hành thông qua hoạt động học tập
của họ. Nghiên cứu KNƯP phải thông qua thực tiễn hoạt động học tập của SV.
Nghĩa là, đề tài được nghiên cứu thông qua quan sát, đánh giá kết quả hoạt động

học tập và giải quyết các vấn đề stress trong học tập của SV ĐHSP.
- Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Theo quan điểm của Tâm lí học, quá trình
học của con người là một hệ thống cấu trúc bao gồm các thành tố vận động, phát
triển trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Từ những quan điểm đó,
đối tượng nghiên cứu của luận án sẽ được tiến hành xem xét và giải quyết một
cách toàn diện và đồng bộ với việc xem xét và giải quyết các thành tố khách
quan và chủ quan của việc ứng phó với stress trong hoạt động học tập theo tín
chỉ của SV ĐHSP.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể (được trình bày ở chương 2)
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản;
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi;
- Phương pháp bài tập tình huống;
- Phương pháp phỏng vấn sâu;
6
- Phương pháp nghiên cứu điển hình;
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp thực nghiệm tác động;
- Phương pháp thống kê toán học.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Phân tích và hệ thống hoá các khái niệm cơ bản về kĩ năng ứng phó với
stress trong học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP: kĩ năng, ứng phó, kĩ năng ứng
phó, stress, stress trong hoạt động học tập theo tín chỉ, kĩ năng ứng phó với
stress trong hoạt động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP.
- Chỉ ra được các nhóm kĩ năng thành phần của KNƯP với stress trong hoạt
động học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP: Nhóm kĩ năng nhận diện tác nhân gây stress
và biểu hiện của stress trong học tập theo tín chỉ; Nhóm kĩ năng xác định các
phương án ứng phó với stress trong học tập theo tín chỉ; Nhóm kĩ năng thực hiện các
phương án ứng phó nhằm giảm stress và giải quyết vấn đề trong học tập theo tín chỉ.
- Phát hiện thực trạng mức độ, biểu hiện của KNƯP với stress trong hoạt

động học tập theo tín chỉ ở SV ĐHSP và các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng này.
- Đề xuất được các biện pháp tác động tâm lý-sư phạm nhằm nâng cao kĩ
năng ứng phó với stress trong học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP: Cung cấp tri
thức để nâng cao hiểu biết của SV ĐHSP về kĩ năng ứng phó với stress trong
học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP và tổ chức rèn luyện kĩ năng theo qui trình đã
xác lập thông qua lớp tập huấn kĩ năng.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án bao gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận, Chương 2. Tổ chức nghiên cứu,
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực trạng và thực nghiệm.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KĨ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI STRESS
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO TÍN CHỈ CỦA SV ĐHSP
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Tình hình nghiên cứu kĩ năng ứng phó với stress trong hoạt động học
tập theo tín chỉ ở nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu về ứng phó với stress, stress trong học tập
* Nghiên cứu về ứng phó với stress:
Đã có nhiều nước trên thế giới quan tâm đến khả năng ứng phó với những
hoàn cảnh khó khăn, stress. Những nghiên cứu chủ yếu đi vào các vấn đề liên
quan như: cách ứng phó, hành vi ứng phó. Qua nghiên cứu tài liệu, chúng tôi
tổng hợp, phân tích theo các hướng tiếp cận chính sau đây: Cách đo hành vi ứng
phó; Ảnh hưởng của ƯP đến thể chất và tinh thần; Cách ứng phó liên quan đến
những trải nghiệm sớm của cá nhân; Ảnh hưởng của các thành phần tâm lí cơ
bản đến hành vi và cách ứng phó; Mối quan hệ giữa cách ứng phó với sự chuyển
đổi xã hội. [23]
+ Cách đo hành vi ứng phó:
Đây là hướng nghiên cứu nhằm xây dựng những trắc nghiệm đo hành vi
ứng phó xem con người ứng phó như thế nào đối với hoàn cảnh.

Folkman và Lazarus (1980) đã xây dựng trắc nghiệm “Cách ứng phó”.
Trắc nghiệm đo hai kiểu ứng phó cơ bản nhất là: 1. Kiểu ứng phó tập trung cảm
xúc: đây là kiểu ứng phó chú ý nhiều đến cảm xúc cá nhân, kiểu ứng phó này có
mục đích làm giảm sự căng thẳng trong các tình huống mà con người gặp phải;
2. Kiểu ứng phó tập trung giải quyết vấn đề: là kiểu ứng phó hướng vào việc giải
quyết vấn đề hay định hướng để thay đổi hoàn cảnh.
Tuy vậy, trên thực tế cách ứng phó của con người không đơn giản chỉ là
hai cách như Folkman và Lazarus đã nêu, nó mang tính đa dạng. Nên, một trắc
nghiệm khác được ra đời. Đó là trắc nghiệm “Ứng phó” của Carver, Sheiner, và
8
Weintraub (1989). Các tác giả đưa ra 5 thang đo về cách ứng phó tập trung vào
vấn đề, 5 thang đo về cách ứng phó tập trung vào cảm xúc, 3 thang đo về cách ứng
phó không tích cực.
Bên cạnh những thang đo được liệt kê ở trên còn có nhiều trắc nghiệm,
thang đo khác nhưng ít được dùng hơn.
+ Ảnh hưởng của KNƯP đến thể chất và tinh thần:
Nhiều nghiên cứu trên thế giới khẳng định những hạn chế về KNƯP với
các hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống của vị thành niên ảnh hưởng tiêu cực
đến thể chất và tinh thần của họ.
Nezu và Ronan (1988) nghiên cứu về kĩ năng ứng phó của trẻ vị thành
niên. Họ chỉ ra rằng nếu vị thành niên không có kĩ năng phòng ngừa những tác
động của hoàn cảnh có thể dẫn đến stress, trầm cảm và lo âu. Để giải quyết được
các vấn đề, vị thành niên cần có niềm tin dựa vào năng lực, xác lập được những
KNƯP với những hoàn cảnh khó khăn của bản thân. [67, tr1]
Kovacs (1989) lại cho rằng, có nhiều vấn đề về tâm thần của trẻ em liên
quan đến sự hiểu biết của các em về các kĩ năng xã hội. Đây là một trong những
nguyên nhân làm tăng ý tưởng và hành vi tự sát. [67, tr2]
Các tác giả khác như: Carver, Scheiner và Weintraub (1989) thì cho rằng:
Hành vi ứng phó có tính chất ổn định và được coi là xu hướng ứng xử. Theo các
tác giả, con người có cách ứng phó nhất định trong nhiều tình huống khác nhau.

Cách ứng phó của cá nhân ảnh hưởng đến chính cá nhân đó. [58]
Như vậy, những tác giả trên chủ yếu quan tâm đến KNƯP với hoàn cảnh
khó khăn ở tuổi vị thành niên và những ứng dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao
kĩ năng này cho các em.
+ Cách ứng phó liên quan đến những trải nghiệm sớm của cá nhân:
Một xu hướng khác nghiên cứu về kĩ năng ứng phó, đó là: Cách ứng phó
thể hiện mối liên quan giữa hành vi ứng phó với các sự kiện của cuộc sống,
những trải nghiệm sớm của cá nhân. Dưới đây là những nghiên cứu thể hiện xu
hướng này.
9
Các tác giả Myers L.B, Brewin C.R (1994) cho rằng, đứa trẻ có những trải
nghiệm âm tính sớm thường có kiểu ứng phó dồn nén, ức chế khi nó gặp quang
cảnh của sự kiện cũ hoặc những hoàn cảnh làm chúng liên tưởng tới những sự
kiện cũ, đặc biệt những sự kiện liên quan đến gia đình. Ở hoàn cảnh này, có mối
quan hệ chặt chẽ giữa các trải nghiệm cảm xúc với cách mà con người ứng phó
với hoàn cảnh khó khăn, với stress tâm lý. [86]
Maria Cristina Richaud (2000) nghiên cứu và nhận thấy mối quan hệ với
cha mẹ và bạn cùng tuổi trong thời thơ bé được coi là một trong những khía cạnh
quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của nhân cách và hành vi, nó hỗ trợ cho
suốt cuộc đời. Những người có khó khăn trong mối quan hệ tương tác có thể có
nguy cơ không phát triển nguồn lực phù hợp để ứng phó với khó khăn, stress
trong cuộc sống. Những người như vậy luôn có xu hướng cảm nhận thế giới là
rất nguy hiểm, thù địch và họ cảm thấy cần phải tiếp cận một cách hung hăng
hơn, lảng tránh hay ức chế. Đối với lứa tuổi vị thành niên, khi đối mặt với đặc
trưng phiền phức của giai đoạn khủng hoảng cuộc sống, kiểu ứng phó được phát
triển từ thời thơ bé được đem ra áp dụng. Những kiểu ứng phó như vậy có thể
thay đổi theo những khó khăn trong cuộc sống vào thời điểm đặc biệt. Kiểu ứng
phó về sau có liên quan cơ bản đến kiểu tương tác với bố mẹ và bạn cùng lứa
được thiết lập trong giai đoạn này. Khi trẻ mở rộng mối quan hệ xã hội, các em
dần xa những người thân trong gia đình. Tuy nhiên, những mối quan hệ mới

được hình thành sẽ phản ánh mẫu hình giống như đã học được ở gia đình. Mặt
khác, giới tính và độ tuổi của vị thành niên quyết định mỗi kiểu ứng phó. [83]
+ Ảnh hưởng của các vấn đề tâm lí cá nhân và xã hội đến hành vi ứng phó
và cách ứng phó:
Cảm giác về một chỗ dựa tinh thần và vật chất, thông tin và cảm xúc ở
con người là một cảm giác dương tính, chi phối hoàn toàn đến cách ứng xử với
người khác, với môi trường xã hội cũng như với những tình huống khó khăn.
Đây là nghiên cứu về sự ủng hộ xã hội của các tác giả: Cobb .S (1976), Cohen và
Wills (1985), Cohen và Syme (1985), Kirkham, Schilling, Norelius, Schinke,
10
Yablin (1986), Zick và Temoshok (1987), Cohen S (1988), Hays, Turner và
Coats (1992). Các tác giả đều nhấn mạnh sự ủng hộ của xã hội là nhân tố trung
gian thúc đẩy sự vững tin của con người, khích lệ con người thực hiện những
hành động hiệu quả trong những tình huống khó khăn.
Bandura (1977), Thomson S.C (1981), Wallston K.A, Wallston, Smith, và
Dobbins (1987), Cohen S và Edwards (1989), Taylor S.E, Helgeson, Reed và
Skokan (1991) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa kiềm chế tâm lí và cách ứng phó
có hiệu quả.
Nghiên cứu khác lại đánh giá những đặc điểm của nhân cách là nguồn lực
chính của hành vi ứng phó. Những đặc điểm đó là: tính tự tin, tính tự chủ, tính có
trách nhiệm, biết đồng cảm với người khác, tính sẵn sàng trải nghiệm,… Đây là
nghiên cứu của Holahan và Moos (1987, 1990, 1991), Worden và Sobel (1978),
Friedman (1993).
Terry D.J. (1991); Lees M.C., Neufeld R.W.J. (1999) nghiên cứu mối liên
quan đánh giá về tình huống khó khăn, nhận diện về các khía cạnh khác nhau
của stress với hành vi ứng phó. Theo họ, việc con người ứng xử như thế nào
trong hoàn cảnh khó khăn thường chịu ảnh hưởng của việc họ đánh giá về chính
hoàn cảnh đó, tình huống đó. [90]
Segersform S.C, Taylor S.E, Kemeny M.E, Fahey J.L (1998); Horowwitz,
Adler và Kegeles (1988) tiếp cận nghiên cứu mối liên quan của cách ứng phó với

tính lạc quan và bi quan. Các tác giả nhận thấy tính lạc quan có quan hệ với
khuynh hướng sử dụng cách ứng phó tập trung vào giải quyết vấn đề, tìm kiếm
chỗ dựa xã hội, thể hiện những khía cạnh dương tính trong tình huống căng
thẳng; ngược lại tính bi quan thường đi kèm với xu hướng ứng phó như phủ nhận
hoặc tránh xa tình huống, tập trung trực tiếp vào những cảm giác căng thẳng của
bản thân. [89]
Gunther K.C, Cohen L.H, Armeli S (1999); Lazarus và Folkman (1984)
quan tâm đến vai trò của tính nhạy cảm đối với hành vi ứng phó trong tâm lí học
nhân cách. Theo các tác giả, tính nhạy cảm tham gia vào mọi giai đoạn của quá
11
trình hình thành hành vi ứng phó của con người trong những hoàn cảnh gây căng
thẳng, từ việc tri giác, đánh giá hoàn cảnh, huy động các nguồn lực ứng phó cho
đến việc áp dụng các phương án ứng phó nhất định và đánh giá hậu quả của các
ứng phó đã được lựa chọn. [72] [80]
Hong Y, Chiu C, Dweck C.S, Lin D.M.S, Wan W (1999) nghiên cứu mối
quan hệ giữa trí tuệ và các thuộc tính của năng lực với xu hướng ứng phó tốt và
nhận thấy các thuộc tính của năng lực là cầu nối trung gian giữa trí tuệ và xu
hướng ứng phó của con người. [75]
Lazarus và Folkman cho rằng hành vi ứng phó có tính chất tình huống rõ
rệt, chịu ảnh hưởng từ chính cách nhìn nhận, đánh giá tình huống của con người
ngay trong thời điểm xảy ra tình huống. Mục đích của các nghiên cứu của các tác
giả này nhằm tìm ra những khuôn mẫu ứng phó có hiệu quả với những tình
huống, hoàn cảnh nhất định để có thể giúp những người rơi vào hoàn cảnh đó có
cách ứng phó phù hợp. [80]
Vai trò của tôn giáo, niềm tin và ảnh hưởng của nó đến hành vi ứng phó
và cảm giác bình an của con người được Mahoney nghiên cứu và công bố. Tác
giả đã có bước tổng hợp các nghiên cứu trước về KNƯP với hoàn cảnh của cá
nhân được khích lệ bởi gia đình, bạn bè và cha cố trong nhà thờ trước khi hình
thành nghiên cứu của mình về vai trò của tôn giáo đối với cách con người ứng
xử với hoàn cảnh khó khăn. Theo tác giả, chính những lời răn dạy của chúa,

những lời khuyên của cha cố về sự bình yên trong tâm hồn đã hướng con người
đến cách ứng xử nhất định với hoàn cảnh.
Như vậy, các nghiên cứu theo khuynh hướng tìm kiếm mối quan hệ của các
nhân tố tâm lí xã hội và tâm lí cá nhân đã xác định được ảnh hưởng của các nhân tố
này đối với cách mà con người ứng xử trong những hoàn cảnh khó khăn.
+ Mối quan hệ giữa cách ứng phó với sự chuyển đổi xã hội:
McCubbin (1980) nghiên cứu ảnh hưởng có hại của cách ứng phó sai lầm
với stress trong gia đình và chỉ ra rằng cách ứng phó sai lầm có thể dẫn đến việc
phá huỷ hệ thống gia đình. Fosson lại chỉ ra những kiểu chuyển đổi trong gia
12
đình có thể dẫn đến stress và cách mà các thành viên ứng phó với những sự
chuyển đổi này.
Slavin (1991) phát hiện: chuyển đổi xã hội liên quan đến những vấn đề vĩ
mô như quan hệ dân tộc, tục lệ, lễ nghi, sự phân hoá kinh tế - xã hội và nó có liên
quan đến thói quen, văn hoá của mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Cuộc sống xã hội đòi
hỏi mỗi cá nhân phải thích nghi với chuyển đổi xã hội. Vì thế, hành vi ứng phó
của mỗi con người đều chịu ảnh hưởng của văn hoá. Sự lựa chọn cách ứng xử của
con người trước hoàn cảnh mới đã làm nên văn hoá hành vi, nhiều khi nó liên
quan đến chuẩn mực văn hoá, lễ nghi, tập tục ở cấp độ xã hội. Vì vậy, những
chương trình tự giáo dục, phân loại giá trị và chế ngự stress là những phương pháp
được đề nghị để ứng phó với những chuyển đổi xã hội. [dẫn theo 23, tr38-39]
Bên cạnh đó, còn có các nghiên cứu khác như: “Ứng phó với bệnh ung thư”
của B. Siegel, Carl và Simonton (1980); “Ứng phó với tình trạng mình là nạn nhân
của tội phạm” của Scheiner (1981), Berg và Jonhson (1979), Brooks (1981); “Ứng
phó với stress ở nơi làm việc” của Revicki và May (1985), Macke và Cooper
(1987), Adler và Matthews (1994); “Ứng phó với tiếng ồn, với những ảnh hưởng
của môi trường” của Cullen, Cherniack, Rosenstock (1990); “Cách ứng phó của
phụ nữ với việc nạo thai” của N. Sumer, C. Cozzarelli, B. Major (1998); “Cách
ứng phó với những khủng hoảng tinh thần, những tổn thương tâm lí” của E.A.
Holman, R.C. Silver (1998), … Các nghiên cứu này đã cho độc giả thấy được một

khuôn mẫu hành vi ứng phó hiệu quả với hoàn cảnh nhất định. [dẫn theo 23]
* Nghiên cứu về ứng phó với stress trong học tập:
Nghiên cứu về ứng phó với các tình huống trong cuộc sống có thể nói là khá
nhiều (như đã mô tả ở trên). Tuy nhiên, nghiên cứu trực tiếp về ứng phó với stress
trong học tập dường như rất hiếm. Hiện tại, chúng tôi chỉ tìm thấy một công trình
là:
Nghiên cứu cách ứng phó với những vấn đề liên quan đến trường học của
học sinh các châu lục (đại diện là vùng Bắc Mĩ gồm Canađa và Mĩ, Đức (Châu
Âu), Malaysia (Châu Á)) của C.A. Essau và Thommsdorff vào năm 1996.
13
Nghiên cứu cho thấy: biểu hiện của các cách ứng phó tập trung cảm xúc hay
cách ứng phó tập trung vấn đề của học sinh các châu lục rất khác nhau, đặc biệt
là những thể hiện về mặt cảm xúc. Nghiên cứu không những chỉ ra xu hướng
ứng phó của học sinh với những vấn đề trong nhà trường đại diện cho các châu
lục khác nhau mà còn đặt ra vấn đề ứng dụng phương pháp thống nhất trong
nghiên cứu giao thoa văn hóa.
1.1.1.2. Nghiên cứu về kĩ năng ứng phó với stress, stress trong học tập
Có thể nói, nghiên cứu về kĩ năng ứng phó với stress vô cùng hiếm, chúng
tôi tìm thấy hai công trình bàn trực tiếp về kĩ năng ứng phó. Đó là:
Thang đo về KNƯP của Erica Frydenberg và Ramon Lewis (1993) dùng
cho trẻ vị thành niên và thậm chí cả những đối tượng lớn hơn. Thang đo này là
công cụ lâm sàng cho phép đánh giá hành vi ứng phó của vị thành niên và được
thực hiện nhằm thu thập thông tin về 18 cách ứng phó của trẻ vị thành niên với
các hoàn cảnh khó khăn.
Kumarmahi (2007) với tác phẩm “Kĩ năng ứng phó với stress” của mình, tác
giả đã nêu bật các vấn đề liên quan đến kĩ năng ứng phó như: 3 bước của quá trình
ứng phó là nhận diện tác nhân (biết được gì), qui trách nhiệm (làm như thế nào) và
hành động (làm gì); đỉnh 3 phương pháp ứng phó là ứng phó tích cực, làm việc có ý
nghĩa và ứng phó hợp với tôn giáo. Từ đó, tác giả nhấn mạnh, kĩ năng ứng phó với
stress cần thiết phải có các kĩ năng sau: kĩ năng tư duy tích cực, kĩ năng ra quyết

định và giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tương tác xã hội và kĩ năng tự
điều chỉnh [79, tr8-9].
Ngoài ra, những công trình của các tác giả nước ngoài cũng đề cập đến từ
“kĩ năng ứng phó” cho tác phẩm của họ nhưng khi đọc nội dung, chúng tôi thấy
không hợp về mặt khái niệm so với bối cảnh nghiên cứu ở Việt Nam vì họ coi kĩ
năng như là những liệu pháp, cách thức ứng phó với căng thẳng. Do đó, chúng
tôi không liệt kê ra đây.
Riêng nghiên cứu về kĩ năng ứng phó với stress trong học tập, chúng tôi
14
chưa tìm thấy bất cứ công trình nào.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu kĩ năng ứng phó với stress trong hoạt động học
tập theo tín chỉ ở Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu về ứng phó với stress, stress trong học tập
Việt Nam hiện còn rất hiếm các nghiên cứu trực tiếp về ƯP với stress và
stress trong học tập.
Năm 2006, Viện Tâm lý học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam đã tiến
hành nghiên cứu về cách ứng phó của trẻ VTN với hoàn cảnh khó khăn tại một
số trường THCS, THPT, học sinh thuộc các Trung tâm giáo dục thường xuyên ở
Hà Nội và một số trẻ ở Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Nghiên cứu đã đưa
ra một số kết quả về những đặc điểm ứng phó của trẻ VTN Việt Nam với những
hoàn cảnh khó khăn trong đó có stress. [23]
Bên cạnh nghiên cứu của Viện Tâm lý học, Trung tâm Thông tin và
chương trình giáo dục Lê Thánh Tông, Sở Giáo dục và đào tạo TP. Hồ Chí Minh
với sự tài trợ của UNESCO và UNICEF đã biên soạn và triển khai chương trình
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. Trong chương trình này, ứng phó với căng
thẳng (stress) được đề cập nhưng không sâu, còn mờ nhạt. [50]
1.2.2.2. Nghiên cứu về kĩ năng ứng phó với stress, stress trong học tập
Nghiên cứu về kĩ năng ứng phó với stress nói chung và stress trong học
tập theo tín chỉ nói riêng là vô cùng hiếm.
Năm 2008, Đỗ Thị Thu Hồng với đề tài nghiên cứu “Kĩ năng ứng phó với

những khó khăn trong cuộc sống của học sinh trung học cơ sở tại Hà Nội” đã
nêu lên các loại khó khăn mà học sinh trung học cơ sở của hai trường được khảo
sát gặp phải, trong đó có khó khăn trong học tập chiếm 39.6% (trường trung học
cơ sở Việt nam - Angiêri), 13.2% (trường trung học cơ sở Tam Hiệp). Từ đó, tác
giả đặt câu hỏi: Như vậy khó khăn trong học tập ở đây phải chăng là những áp
lực học tập và những kì vọng cao của bố mẹ? [21, tr58]. Tuy nhiên, tác giả
không cho người đọc thấy được khái niệm kĩ năng ứng phó với khó khăn và biểu
hiện cụ thể của kĩ năng này.
15
Năm 2008, tác giả Đào Thị Oanh (chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ) - “Thực trạng biểu hiện của một số cảm xúc và kĩ năng đương đầu với
cảm xúc tiêu cực ở thiếu niên hiện nay” đã khẳng định: Hầu hết học sinh thiếu
niên chưa biết đương đầu hiệu quả với các cảm xúc tiêu cực và chưa hình thành
một phong cách đương đầu nhất định với cảm xúc tiêu cực. Không có sự khác
biệt giữa học sinh nam và nữ, giữa các địa bàn khác nhau, giữa các khối lớp và
giữa các trường. [44]
“Nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến stress trong học tập của SV Đại học
Quốc gia Hà Nội” của Nguyễn Hữu Thụ và các cộng sự (2009) đã cho thấy: SV bị
stress là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân từ môi trường học tập được
xem là nguyên nhân chủ đạo, trực tiếp. Qua đó, tác giả tập huấn cách ứng phó với
stress trong học tập cho SV, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của SV. [54]
Năm 2011, với tên đề tài “Kĩ năng ứng phó với căng thẳng của học sinh
trường Trung học cơ sở Tứ Minh thành phố Hải Dương”, Nguyễn Thị Minh Hải
không chỉ ra được bản chất của kĩ năng ứng phó với căng thẳng mà lại đi sâu
phân tích các biện pháp ứng phó với căng thẳng (từ lý luận đến thực tiễn): nhóm
biện pháp điều chỉnh nhận thức của bản thân, nhóm biện pháp điều chỉnh lối
sống, nhóm biện pháp tìm đến các hoạt động phong phú đa dạng, nhóm biện
pháp tìm về gia đình, nhóm biện pháp hoạt động xã hội.
Như vậy, qua tổng quan tài liệu chúng tôi nhận thấy, những nghiên cứu về
stress, stress trong học tập khá nhiều trong khi các nghiên cứu về kĩ năng ứng

phó với stress, stress trong hoạt động học tập vô cùng ít và mờ nhạt, đặc biệt kĩ
năng ứng phó với stress trong học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP thì không có.
Đây là khó khăn của người nghiên cứu trong việc tiếp cận các nghiên cứu ở cả
nước ngoài và Việt Nam về kĩ năng ứng phó với stress trong học tập nói chung
và học tập theo tín chỉ nói riêng. Bởi thế, đây là một khoảng trống cần được
nghiên cứu, làm rõ. Đề tài luận án “ Kĩ năng ứng phó với stress trong hoạt động
học tập theo tín chỉ của SV ĐHSP” được lựa chọn sẽ mang lại ý nghĩa lí luận và
thực tiễn to lớn, đặc biệt trong bối cảnh tất cả các trường đại học của Việt Nam
16
đã, đang triển khai triệt để chương trình đào tạo theo tín chỉ.
1.2. KĨ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI STRESS TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
THEO TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
1.2.1. Kĩ năng ứng phó
1.2.1.1. Khái niệm kĩ năng
Thuật ngữ “kĩ năng” được quan niệm dưới nhiều góc độ từ trước đến nay
trên thế giới. Nghiên cứu về kĩ năng dường như đã quen thuộc với nhiều đọc giả.
Dưới đây là sự hệ thống hoá hai hướng nghiên cứu chính về kĩ năng: Hướng thứ
nhất, coi KN là mặt kĩ thuật của hành động; Hướng thứ hai, coi KN là khả năng
của cá nhân trong hoạt động.
+ Quan niệm coi KN là mặt kĩ thuật của hành động:
A.V.Kruchetxki (1981) cho rằng: Kĩ năng là phương thức thực hiện hoạt
động (những cái mà con người đã nắm vững). Nghĩa là, khi con người nắm vững
vấn đề thì khi đó họ sẽ có cách thực hiện hành động. Tuy nhiên, tác giả chưa đề
cập đến hiệu quả của phương pháp đó trong hoạt động cụ thể. Bởi vì thực tế cho
thấy, có những cá nhân có cách thức thực hiện hành động tốt nhưng chưa chắc
đem lại hiệu quả cho hoạt động đó bởi có kết quả tốt còn phụ thuộc nhiều yếu tố
khác. Hơn nữa, nếu cá nhân chỉ có phương thức hành động đúng cũng không thể
kết luận rằng họ có KN hoạt động. [33]
A.G.Côvaliov (1994) thì cho rằng: KN là phương thức thực hiện hành
động thích hợp với mục đích và những điều kiện hành động. Ở quan niệm này,

tác giả đã không đề cập đến kết quả của hành động bởi ông cho rằng, kết quả của
hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là năng lực thực
hiện hành động. Khi con người tìm được phương thức hành động phù hợp với
mục đích trong những điều kiện xác định của hoạt động thì cũng có nghĩa con
người có KN. [8]
A.V.Petrôpxki (1982) quan niệm: KN là cách thức hoạt động dựa trên cơ
sở tri thức và kĩ xảo. KN được hình thành nhờ luyện tập, nó tạo khả năng cho
con người thực hiện hành động trong cả điều kiện hoạt động quen thuộc và
17
không quen thuộc. Có KN nghĩa là nắm được kĩ thuật hành động. Mức độ thành
thạo của KN phụ thuộc vào mức độ nắm vững tri thức về hành động đó và mức
độ sử dụng trong hoạt động thực tiễn. [45]
Giống như ba quan niệm tiêu biểu trên, các tác giả A.A. Xmiecnop, A.N.
Leonchev, X.I. Rubinsten, B.M. Chieplop (1975), Trần Trọng Thủy (1978),
B.Ph. Lomov (2000) cũng định nghĩa KN là phương thức hành động. Theo các
tác giả này, KN được hiểu là sự vận dụng kĩ thuật hành động phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh và yêu cầu của hoạt động, có KN mà không để ý đến kết quả của
hành động [35], [56], [63].
Một số tác giả như N.D. Levitov (1971), P.A. Rudic (1980) lại hiểu KN
cụ thể hơn, KN là kĩ thuật của từng thao tác. Còn A.V. Kruchetxki (1981),
Hargie O.D.W (1986), X.I. Kixegof (1996), Trần Hữu Luyến (2008) lại quan
niệm, KN là kĩ thuật của hành động, tức là kĩ thuật của các thao tác, là sự kết hợp
nhiều thao tác theo một trật tự phù hợp với mục đích và điều kiện của hoạt động
[32], [34, tr.67], [37, tr.295], [47, tr.124], [74, tr.12]. Cách hiểu này cho thấy, kĩ
năng mang tính hệ thống và linh hoạt.
Như vậy, khi chú ý đến mặt kĩ thuật của kĩ năng, các tác giả trên đã quan
niệm KN là sự vận dụng các kĩ thuật hành động. Kết quả của hoạt động còn chưa
được các tác giả quan tâm khi định nghĩa KN.
+ Quan niệm coi KN là khả năng của cá nhân trong hoạt động:
Nếu như các tác giả theo khuynh hướng coi KN là mặt kĩ thuật của hành

động chưa quan tâm đến kết quả của hoạt động thì các tác giả theo khuynh
hướng này đã quan tâm đến kết quả của hoạt động khi định nghĩa KN. Tiêu biểu
là các tác giả như: K.K. Platônov, Xavier Roegiers, A.V. Petropxki, I.F.
Khaclamop (1978), Nguyễn Quang Uẩn (2005), Vũ Dũng (2000), Trần Quốc
Thành (1992), Hoàng Thị Anh (1992), Nguyễn Văn Đính (1997). Họ quan niệm,
KN không chỉ là sự vận dụng phù hợp các thao tác, mà còn đem lại kết quả cho
hoạt động. KN được đồng nhất với năng lực và hiểu tương đối khái quát: vừa là
18
mặt kĩ thuật, vừa là khả năng của cá nhân [2], [10], [11], [27], [45], [51], [60].
Khi quan niệm KN là khả năng cũng có nghĩa coi KN thể hiện linh hoạt,
ổn định, bền vững trong hoạt động. Theo K.K.Platônov, người có KN không chỉ
hành động có kết quả trong một hoàn cảnh cụ thể, mà còn phải đạt kết quả tương
tự trong những điều kiện khác nhau [dẫn theo 42, tr20]. Ở đây, tri thức và sáng
tạo của cá nhân đóng vai trò quan trọng. Sự kết hợp với tri thức giúp sự vận dụng
kĩ năng phù hợp, linh hoạt và sáng tạo với từng điều kiện hoạt động.
Cho nên, theo khuynh hướng coi KN là khả năng của cá nhân, KN không
chỉ được hiểu là kĩ thuật, mà còn phải đem lại kết quả cho hoạt động. Đây có thể
nói là quan niệm tương đối toàn diện và khái quát về KN. Tuy vậy, các tác giả
theo khuynh hướng này vẫn chưa đi sâu phân tích mặt thao tác, hành động của KN.
Tóm lại, qua tổng hợp các quan niệm về KN theo hai hướng đã nêu ở trên
đã cho thấy: tuy có nhiều định nghĩa về KN nhưng các tác giả đều có chung một
quan niệm, đó là, gắn kĩ năng với hoạt động của cá nhân. Nó là phương thức
hành động phù hợp với điều kiện và yêu cầu của hoạt động và giúp mang lại hiệu
quả của hoạt động.
Từ đó, chúng tôi cho rằng: KN là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào
hoạt động cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả hoạt động đó.
Với khái niệm này, những đặc điểm cần quan tâm ở KN là:
- KN được biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân qua các
thao tác. Để tiến hành các thao tác, chủ thể phải có tri thức nhất định (tính nhận
thức) về hoạt động cũng như tổ hợp các thao tác, thực hiện đầy đủ các thao tác

của hoạt động (tính đầy đủ), thực hiện nhuần nhuyễn các thao tác mà không mắc
lỗi (tính thành thạo), tiến hành các thao tác của hoạt động một cách linh hoạt, có
thể áp dụng được ở đa dạng tình huống khác nhau (tính linh hoạt, sáng tạo);
-Sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm về hoạt động cũng như việc tiến hành
các thao tác hoạt động phải phù hợp với hoạt động và có hiệu quả.
1.2.1.2. Khái niệm ứng phó
Trong những năm gần đây, vấn đề ứng phó chiếm lĩnh một số lượng lớn
19
các nghiên cứu trong tâm lý học phương Tây. Việc cung cấp đầy đủ thông tin sẽ
làm hoàn thiện khái niệm “ứng phó” nhằm làm rõ hơn ý nghĩa của phạm trù này
trong tâm lý học cũng như khả năng ứng dụng của nó trong xã hội.
Khái niệm ứng phó xuất phát từ tiếng Anh “cope” có nghĩa là ứng phó,
đương đầu, đối mặt, thường là trong những tình huống bất thường, những tình
huống khó khăn và stress.
Trong Tâm lý học có 4 hướng nghiên cứu để lý giải vấn đề này:
- Hướng tiếp cận coi ứng phó như là sự phòng vệ của cái tôi:
Theo hướng này, ứng phó được hiểu như là cách thức tự vệ tâm lý, được
sử dụng để làm giảm căng thẳng (Haan, 1977) [73]. Hiệu quả của sự phòng vệ
được đánh giá dựa trên tính hiệu quả của những phản ứng đáp trả của cá nhân. Ở
đây, ứng phó được đồng nhất với kết quả của nó. Hơn thế nữa, với việc xem ứng
phó như một hệ thống phòng vệ mà mục đích của người sử dụng là hạn chế sự
căng thẳng, thì mọi nỗ lực của con người tập trung vào việc làm giảm căng thẳng
hơn là giải quyết vấn đề.
- Hướng tiếp cận coi ứng phó như là đặc điểm riêng biệt trong nhân cách
của cá nhân:
Cách tiếp cận này được phản ánh trong các nghiên cứu của Moos [80],
xem ứng phó như là một khuynh hướng tương đối ổn định của cá nhân nhằm đáp
ứng lại những tình huống khó khăn theo một cách thức nhất định. Tuy nhiên,
tính ổn định của các cách thức ứng phó khó có thể khẳng định bằng thực nghiệm.
Hơn nữa, các nhà nghiên cứu đã phát hiện rằng con người có khuynh hướng đáp

lại những tình huống khác nhau theo những cách khác nhau, nên các phương
pháp đo lường nét riêng biệt của cá nhân thường ít có khả năng dự báo việc sử
dụng các cách ứng phó.
- Hướng tiếp cận tính đến những đòi hỏi riêng biệt của các loại hoàn
cảnh cụ thể:
Đó là nghiên cứu của Felton và Revenson (1984) [80]. Khái niệm ứng phó
được xem xét ở góc độ này không liên quan đến quá trình phòng vệ cũng như
20

×