Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI TẬP NHÓM Môn: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Đề tài: Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.93 KB, 13 trang )

BÀI TẬP NHÓM
Môn: CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài: Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Hoàng Việt
Nhóm thực hiện: Nhóm 22
Mai Thị Hồng Thắm MSV: 0951010570
Nguyễn Thị Hồng Tuyết MSV: 0951010605
Nguyễn Thị Chinh MSV: 0951020189
Trương Thị Thu Hằng MSV: 0951010628
Hoàng Tố Quỳnh MSV: 0951010649
Đặng Thị Minh Thư MSV: 0951020201
Hà Nội, tháng 11 năm 2011
TÓM TẮT NỘI DUNG CHÍNH
I. Tổng quan về chính sách xuất khẩu và nền kinh tế Thái Lan nói chung
cũng như chính sách xuất khẩu gạo nói riêng
II. Điều kiện thuận lợi để Thái Lan xuất khẩu gạo
III. Các chính sách sản xuất, xuất khẩu gạo chính của Thái Lan:
1. Về sản xuất
2. Về xuất khẩu
3. Về tiếp thị
4. Chính sách giá gạo
5. Về hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo
IV. Thành tựu đạt được từ các chính sách
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
Đề tài: Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
“Thái Lan đã thống lĩnh ngôi vị vô địch quá lâu, bây giờ là lúc phải nhường ngôi
vị đó cho nước khác, tôi nghĩ đó là Việt Nam.”, đây là lời phát biểu của ông Vichai
Sriprasert, Chủ tịch danh dự của Hiệp hội Xuất khẩu gạo Thái Lan trước khi Thái Lan
áp dụng chính sách giá gạo mới. Thật vậy, kể từ năm 1962 Thái Lan luôn là nước có sản
lượng xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. năm 2006 Thái Lan đã đạt được con số xuât khẩu
gạo là 29,5 triệu tấn và đạt kỷ lục là và năm 2009 với 10 triệu tấn gạo. Tuy nhiên, gần


đây để bảo hộ giá gạo trong nước nhằm bảo đảm thu nhập cho nông dân nghèo chính
phủ Thái Lan kể từ mùng 7 tháng 10 năm 2011 đã chính thức áp dụng chính sách giá
gạo. Theo các chuyên gia quốc tế, chính sách mới của Thái Lan sẽ tạo ra khoảng thiếu
hụt lớn trong nguồn cung gạo toàn cầu. Vậy chính sách mới này có thực sự công bằng và
hiệu quả?. Các chính sách của Thái Lan trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo từ trước
đến nay chính sách nào là hợp lý…
I. Tổng quan về chính sách xuất khẩu và nền kinh tế Thái Lan nói chung
cũng như chính sách xuất khẩu gạo nói riêng:
Xuất khẩu trong thương mại quốc tế vốn được hiểu là việc bán hàng hóa và dịch vụ
cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán
hàng hóa cho nước ngoài. Nhất là trong thời kì hội nhập hiện nay, việc xuất nhập khẩu có
vai trò quan trọng giúp đáp ứng các nhu cầu kinh tế hiện tại. Vì vậy, để điều chỉnh hoạt
động xuất khẩu đi đúng hướng, mỗi quốc gia đều có những chính sách xuất khẩu riêng
đáp ứng các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước mình trong một thời kỳ nhất định.
Thái Lan, được biết đến là nước có nền công nghiệp mới, với xuất khẩu chiếm 2/3 tổng
sản phẩm quốc nội. Với việc sản xuất 1,6 triệu ô tô cung cấp cho thị trường Đông Nam
Á, Thái Lan cũng được đánh giá là nước có nên công nghiệp ô tô phát triển mạnh mẽ.
Với hàng điện tử, tuy phải đối mặt với sự cạnh tranh từ Malaysia và Singapore nhưng
Thái Lan vẫn đạt xếp hạng cao. Ở Thái Lan, ngành dịch vụ cũng rất phát triển. Trong đó
phải kể đến ngành du lịch, chỉ riêng doanh thu du lịch đã chiếm 6% trong GDP, trong
năm 2007 đất nước này đã đón chào 14 triệu khách du lịch. Là nước có nguồn lao động
dồi dào nhưng cũng là nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới, và số hộ nghèo thấp
nhất châu Á
Về xuất khẩu, Thái Lan luôn được kể đến trong danh sách các nước đứng đầu về xuất
khẩu thạch cao, gạo. Trong đó, kể từ giữa thế kỉ 19 Thái Lan đã trở thành một trong
những nước xuất khẩu gạo lớn nhất. Nhờ khí hậu thuận lợi, nguồn tài nguyên đất phong
phú, truyền thống trồng lúa lâu đời cũng như có các chính sách xuất khẩu phù hợp đã tạo
điều kiện giúp Thái Lan phát triển sản xuất gạo. Thái Lan được chia thành bốn khu vực
phía bắc, phía đông bắc, miền trung và phía nam. Trong đó khu vực sản xuất gạo lớn nhất
là vùng động bắc. (Tổng diện tích canh tác của Thái Lan chiếm 20.900 nghìn ha trong đó

một nửa dành cho việc trồng lúa). Thêm vào đó, con người Thái Lan chăm chỉ, cần cù,
yêu lao động, có nhiều kinh nghiệm trong nghề nông. Chính phủ Thái Lan thông qua các
chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất lúa gạo của Thái Lan phát triển.
3
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
Trong những năm qua, nhận thấy được những lợi ích to lớn mà ngành sản xuất lúa gạo
mang lại, chính phủ Thái Lan đã xây dựng chiến lược nhằm phát triển việc xuất khẩu
gạo.
Năm 2001, Shinawatra Thaksin lên nắm quyền và giới thiệu chính sách giá gạo tối thiểu.
Chính sách giá tối thiểu đảm bảo chức năng như một chương trình thế chấp, trong đó
nông dân có thể được vay vốn lãi suất thấp từ chính phủ. Tuy chính sách này rất tốn kém,
nhưng vẫn mang lại hiệu quả ……. Tuy nhiên, khi chính phủ Thái Lan công bố về việc
áp dụng chích sách giá gạo mới năm 2011 này, qua việc tăng giá gạo 40%- 50%, chắc
chắn sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Thái Lan và có tác động đến thị trường gạo
thế giới.
II. Điều kiện thuận lợi để Thái Lan xuất khẩu gạo:
Thái Lan là một nước có kích thước trung bình nằm trong khu vực Đông Nam Á và
chung ranh giới với bốn quốc gia khác, Lào, Cam-pu-chia, Malaysia và Miến Điện. Thái
Lan cũng giáp với hai vùng biển Vịnh Thái Lan và Biển Đông ở phía đông và biển
Andaman và Ấn Độ Dương ở phía tây.
Thái Lan chịu ảnh hưởng chính của khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm có 2 loại gió
mùa chính: gió mùa Tây Nam nhiều mây, ấm mưa nhiều (vào giữa tháng 05 tới tháng
09), gió mùa đông bắc khô mát ( vào tháng 11 tới tháng 03). Vùng eo đất phía Nam của
Thái Lan đặc biệt là luôn nóng và ẩm.Thái Lan tập trung nhiều đồng bằng ở miền Trung.
Ở phía đông có một vùng bình nguyên rộng lớn tên là Khroat. Đó là những vùng đất rất
thích hợp, thuận lợi cho việc phát triển ngành trồng lúa ở Thái Lan. Một trong những
thuận lợi của Thái Lan là có rất nhiều con sông mang nhiều phù sa: sông Mê Kong, sông
Mê nam, sông Chao Pharaya…Do chịu sự ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên
lượng mưa trung bình năm rất lớn là 1200 mm.
Thái Lan có truyền thống lâu đời trong sản xuất lúa gạo. Với diện tích đất lúa canh tác

đứng thứ năm trên thế giới là 20.900 nghìn ha trong đó khoảng một nửa là dành cho
việc trồng lúa và là nước xuất khẩu gạo lớn nhất của thế giới. Loại gạo sản xuất đặc trưng
của Thái Lan là gạo hoa nhài, chất lượng gạo cao hơn hẳn các loại gạo khác. Tuy nhiên,
gạo hoa nhài có sản lượng thấp hơn đáng kể so với các loại gạo khác, nhưng giá của nó
cao hơn gấp đôi các chủng khác trên thị trường toàn cầu.
Cho đến khoảng những năm 1960, sản xuất lúa gạo ở Thái Lan chủ yếu tập trung nông
dân canh tác khu vực nhỏ và sản xuất một lượng khiêm tốn gạo (sinh hoạt nông nghiệp).
Đồng bằng sông Chao Phraya là trung tâm sản xuất lúa gạo vào thời điểm đó. Nông
nghiệp là một phần lớn tổng sản lượng của Thái Lan và hầu hết các công dân Thái Lan là
nông dân làm việc trên nông trại. Nguồn nhân lực của Thái Lan thời điểm này tập trung
mạnh vào nông nghiệp vì 2 lí do chính: số lượng lớn đất canh tác và các chính sách cụ thể
của chính phủ là hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi nông dân. Chính phủ sẽ giúp nông dân được
tiếp cận đất đai và hạn chế sự độc quyền của các quý tộc địa chủ. Do quan điểm của
chính phủ các thương gia thành thị đã không thể giành quyền kiểm soát nhiều hơn ngành
công nghiệp lúa gạo ở Thái Lan. Chính phủ quan tâm đến sản xuất nông nghiệp cá nhân
chứ ít hướng đến sản xuất tập thể, do đó lượng lúa gạo thời điểm này mới chỉ đủ để nuôi
sống số dân ở đây.
4
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
Sau chiến tranh thế giới thứ II, khi Châu Âu bắt đầu thương lượng với nhau trên nhiều
vấn đề gồm cả chính sách nông nghiệp (bao gồm cả hỗ trợ giá). Thái Lan đã bắt đầu bảo
vệ nông dân sản xuất lúa gạo ít hơn và làm việc với các thương nhân nhiều hơn. Chính
phủ bắt đầu lo lắng về việc tăng sản xuất và khai thác dư thừa nhiều hơn từ ngành công
nghiệp lúa gạo. Thái Lan quay sang các thương nhân để thực hiện chính sách này và tạo
ra hiệu quả rất tốt.
Nhưng dù là trong thời kỳ nào và với chính sách ra sao thì đối với nền kinh tế Thái Lan,
sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn đóng vai trò hết sức
quan trọng. Thái Lan có dân số 65,1 triệu người trong đó có 3,7 triệu hộ gia đình, là
những nông dân trồng lúa. Vì vậy, khoảng 26,5% tổng dân số là tham gia vào trồng lúa
và đa số nông dân sống ở nông thôn. Sản xuất lúa gạo ở Thái Lan đại diện cho một phần

đáng kể của nền kinh tế Thái và lực lượng lao động trên đất nước này. Vì vậy, các chính
sách trong sản xuất lúa gạo luôn là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ Thái Lan.
III. Các chính sách sản xuất, xuất khẩu gạo chính của Thái Lan:
1. Về sản xuất:
Trong sản xuất, Thái Lan thừa nhận, trong quá khứ khủng hoảng lương thực hiếm khi
xảy ra. Nhưng trong tương lai rất có thể khủng hoảng lương thực xảy ra thường xuyên
hơn. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân: chiến tranh, thiên tai, biểu tình, đình công
quy mô lớn kéo dài hoặc do giá nhiên liệu tăng ảnh hưởng đến sản xuất lúa gạo. Ngoài ra,
nông dân có xu hướng gieo trồng những loại cây khác thay thế lúa để sản xuất năng
lượng sinh học, do cho thu nhập cao hơn lúa.
Do đó, ổn định sản xuất lương thực, đặc biệt là sản xuất lúa là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong bối cảnh hiện tại. Phương hướng để kiểm soát khủng hoảng lương thực
là đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng nông nghiệp và đầu tư nghiên cứu về lúa gạo một
cách nghiêm ngặt hơn, nhằm tìm ra bí quyết cải thiện quá trình sản xuất và mở rộng
những vùng trồng lúa trên thế giới. Song, điều này chỉ khả thi khi những vùng có diện
tích trồng lúa đó có chính sách an ninh ổn định, cũng như tình trạng kinh tế tốt, kể cả sự
ủng hộ của Chính phủ về chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trực tiếp đến với người trồng lúa.
Một số nước khác đầu tư tiền bạc để mua nhiều đất trồng lúa hơn. Còn Thái Lan duy trì
vị trí nước đứng hàng đầu xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới bằng cách cải thiện và
phát triển chất lượng lúa gạo ngày càng tốt hơn. Do đó Thái Lan quan tâm đầu tư nhiều
hơn cho nghiên cứu chọn tạo giống lúa. Và cũng xác định rõ ràng chiến lược quy hoạch
các vùng gieo trồng các loại lúa chất lượng khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của khách hàng. Từ đó, tăng khả năng cạnh tranh và kích thích khách hàng lựa chọn
loại gạo đặc biệt và độc nhất của họ để nhập khẩu cho nhu cầu tiêu thụ của người dân ở
nhiều nước trên thế giới.
Theo Bộ trưởng Nông nghiệp Thái Lan Somsak Thepsuthin, "mở rộng hệ thống tưới tiêu
và phục hồi độ màu mở của đất là phương tiện then chốt để đạt được những mục tiêu
trên". Bộ Nông nghiệp Thái Lan đã quyết định chi hai tỉ baht cho những dự án tưới tiêu
nhằm đẩy mạnh sản lượng lúa ở những vùng thiếu nước và cho nông dân vay 10 tỉ baht
5

Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
để nuôi gia cầm. "Nuôi gia cầm có thể giúp giảm giá thành sản xuất lúa vì phân gia cầm
có thể thay thế phân hóa học" .
2. Về xuất khẩu:
Chiến lược áp dụng cho việc kinh doanh xuất khẩu gạo là sự hợp tác giữa Bộ Thương
mại với Bộ Nông nghiệp và hợp tác xã. Hai bộ này sẽ hỗ trợ nghiên cứu và tìm giải pháp
nhằm hạ chi phí, giảm giá thành sản xuất lúa và tăng năng suất. Ví dụ, một trong những
giải pháp để giảm chi phí hậu cần cho lúa gạo xuất khẩu là việc thay thế vận chuyển xe
tải bằng tàu thủy.
Việc giảm chi phí nói chung giúp các nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan dễ dàng cạnh tranh
trên thị trường thế giới. Thái Lan luôn đổi mới và gia tăng hiệu quả xuất khẩu vì họ ý
thức rằng các nước khác cũng phát triển chiến lược để cạnh tranh với gạo Thái Lan trên
thị trường thế giới. Trong những năm gần đây, cuộc khủng hoảng lương thực dẫn đến sản
xuất lương thực thế giới không ổn định và giá gạo tăng cao hơn trước đây. Kết quả là
nhiều nước khác cũng muốn gia tăng gieo trồng lúa gạo cho xuất khẩu. Vì thế Thái Lan
nhấn mạnh sự phát triển một cách nghiêm ngặt chiến lược của mình để duy trì vị trí nước
xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới bằng các biện pháp như tăng cường đa dạng hóa các sản
phẩm gạo và mẫu mã bao bì đóng gói. Thái Lan thường xuất khẩu rất đa dạng các mặt
hàng gạo sau đây: gạo thơm trắng Thái Lan (Hommali, Jasmine rice), gạo trắng Thái, gạo
tấm trắng Thái, gạo nếp trắng Thái, gạo nếp đen Thái, gạo đỏ Thái, gạo đồ Thái (Thai
Parboiled Rice), gạo lức Thái, gạo lức thơm Thái.
Trong đó, gạo trắng hạt dài Thái Lan thường có các phẩm cấp gạo sau đây: 100% phẩm
cấp B, 5%, 10%, 15%, 25%, 35% tấm, 100% tấm A 1 cực siêu hạng, và 100% tấm A 1
siêu hạng. Loại gạo hạt dài gồm các sản phẩm như: loại 100% gạo không chọn lựa hạt
(không dùng máy để tách hạt khác màu), 5%, 10% và loại 15% tấm không chọn lựa hạt…
3. Về tiếp thị:
Hệ thống tiếp thị của Thái Lan gồm 2 bộ phận: cho lúa và cho gạo.
a. Hệ thống tiếp thị cho lúa:
Hệ thống tiếp thị cho lúa gạo có thể chia thành 2 hệ thống :địa phương và trung
ương . So với các nước khác, hệ thống tiếp thị của Thái Lan là khá hiệu quả với chỉ

khoảng một tháng lưu trữ giữa thu hoạch và buôn bán. Chính sách thời gian lưu trữ của
Thái Lan đóng một vai trò thiết yếu trong trong thương mại quốc tế . Do thời gian lưu trữ
ngắn , mùa không ảnh hưởng đến giá tại cổng trang trại và chi phí tiếp thị được giảm .
Trong hệ thống tiếp thị cấp địa phương có 5 bộ phận chủ yếu là : nông dân địa phương,
thương nhân, môi giới, tổ chức nông dân và cơ quan chính phủ. Có một số nông dân bán
gạo của họ trực tiếp đến các nhà máy xa . Có hai loại ở tổ chức nông dân cấp địa
phương . Người đầu tiên là tổ chức nông dân. Đây là một đơn vị pháp lý gồm ít nhất 30
người nông dân cùng nhau hoạt động trong tiếp thị, tuyển dụng và mua lại từ các cơ sở
… và đôi khi họ còn tổ chức các hoạt động vận chuyển, thiết bị hay lưu trữ. Họ cũng có
6
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
thể thực hiện các giao dịch tài chính. Các nhóm nông dân có thể bán lúa trực tiếp cho
thương nhân hoặc tự xay xát .
Hình thức thứ hai của tổ chức là hợp tác xã nông nghiệp thu thập lúa từ các thành viên và
vận chuyển đến hợp tác xã lớn hơn để xay xát . một số hợp tác xã xay xát gạo cho các
thành viên và bán ra thị trường . Và chỉ có rất ít hợp tác xã nông nghiệp chuyên xay xát
và tiếp thị gạo ra thị trường . Chính phủ Thái Lan cũng hoạt động ở cấp địa phương trong
hệ thống tiếp thị gạo. Chính phủ có các đại lý mua lúa trực tiếp từ nông dân đảm bảo ở
mức giá tối thiểu thường cao hơn giá thị trường.
b. Hệ thống tiếp thị gạo:
Từ cấp địa phương và trung ương, tất cả lúa gạo đều phải qua xay xát, đó là nới các
hoạt động xử lí diễn ra trước khi được bán ra thị trường .có các loại xay xát nhỏ vừa và
lớn , và trong đó xay xát nhỏ phục vụ cho nông dân và nhữn làng tiêu thụ, những nhầ
máy xay xát có kích thước lớn và trung bình của địa phương ,khu vực và đôi khi còn cho
thị trường xuất khẩu .
Từ xay xát gạo có thể có nhiều con đường để đi tới đích cuối cùng, lượng gạo lớn nhất
được mua bởi các nhà môi giới người có thể giúp các nhà xuất khẩu và bán buôn tìm
được những giống lúa có phẩm chất tốt nhất. Có hơn 100 công ty xuất khẩu ở Thái Lan
và họ chiêm một khu vực mạnh mẽ trong công nghiệp lúa gạo. Do chính sách thế chấp
chính phủ đã tăng lượng mua của mình đối với mặt hàng gạo và do đó cũng tăng xuất

khẩu. Trong năm 2007 xuất khẩu gạo của chính phủ tăng 1000000 tấn, khoảng mười hai
phần trăm trong tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm đó.
Chính phủ cũng mua một lượng đáng kể tè những người xay xát và sau đó bán lại cho
nững nhà bán buôn để họ bán lẻ lại cho các đại lý và cuối cùng để người tiêu dùng sử
dụng .một số gạo được các nhà xay xát bán trực tiếp cho nhà xuất khẩu và thâm chí cho
các nhà nhập khẩu nước ngoài , nhưng thực sự chỉ có những nhà xay xát lớn mới bán trực
tiếp như vậy .
4. Chính sách giá gạo:
Năm 1980, Thái Lan kể từ khi ký thỏa thuận GATT, tự do hóa các chính sách lúa
chính phủ Thái Lan rút khỏi thị trường trong nước và để cho các thị trường thế giới xác
định giá gạo trong nước . Shinawatra Thaksin chính phủ lên nắm quyền vào năm 2001
giới thiệu một chính sách bảo đảm giá lúa. Chính sách giá tối thiểu đảm bảo chức năng
như một chương trình thế chấp, trong đó nông dân có thể được vay vốn lãi suất thấp từ
chính phủ. Kể từ khi giá bảo lãnh được thiết lập cao hơn nhiều so với giá thị trường,
chính sách đã dẫn đến mua sắm lớn gạo của chính phủ. Chương trình cho vay thế chấp đã
trở nên rất tốn kém cho chính phủ và mỗi lần chương trình được chạy một khoản tiền lớn
được chi tiêu. Đầu năm 2006, chính phủ hơn 5.000.000 tấn vào cổ phiếu. Đến cuối tháng
8 năm 2008, Chính phủ đã tích lũy 2820000 tấn vào cổ phiếu.Sau khi đình chỉ chính sách
này gần hai năm chính phủ lại áp dụng lại. Năm 2008, chính phủ lại áp dụng mức giá
10000 baht mỗi tấn của vụ lúa đầu tiên. Tháng 6, năm 2008 mức giá tăng lên 14000 baht
mỗi tấn. Chi phí của chương trình này được ước tính khoảng 35 triệu baht và lên đến 2,5
triệu tấn lúa gạo đã được mua trước khi kết thúc chương trình vào ngày 30 tháng 9.
7
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
Cho đến gần đây, Chính phủ Thái Lan chính thức áp dụng chính sách bảo hộ giá gạo
sản xuất trong nước từ ngày 7-10-2011 và sẽ tạm thi hành trong 1 năm. Từ ngày 7-10,
gạo trắng sẽ được chính phủ Thái Lan mua với giá 15.000 baht/tấn (tương đương 360
euro), so với giá 216 euro trên thị trường hiện nay. Mức tăng giá từ 40-50% đối với mặt
hàng gạo sẽ tạo điều kiện cho các nước xuất khẩu khác chiếm chỗ của Thái Lan trên thị
trường thế giới.

Trước mắt, người nông dân Thái Lan sẽ được hưởng lợi từ chính sách bảo hộ giá
gạo của chính phủ Thái Lan, khi giá trị sản phẩm của họ tăng lên. Trong cương l„nh chính
sách mới, Chính phủ sẽ sớm thực thi "Dự án bảo đảm thu nhập cho nông dân", giá lúa
bảo hộ tối thiểu là 15 nghìn bạt/tấn, lúa hương nhài chất lượng cao 20 nghìn bạt/tấn. Mức
giá này cao hơn khoảng 40% so với giá thị trường hiện nay. Điều này góp phần làm dịu
khó khăn cho nông dân nhằm tăng thu nhập cho người trồng lúa. Số liệu của Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc cho thấy, giá lương thực quốc tế hiện nay
tiếp cận mức cao kỷ lục. Tuy nhiên, so với các loại lương thực khác thì giá gạo vẫn dao
động ở mức thấp, thu nhập của người trồng lúa Thái Lan tăng chậm chạp, kinh tế nông
thôn tiêu điều.
Tuy nhiên, phần lớn các nhà xuất khẩu lo lắng, sau khi chính sách mới nâng cao giá
gạo, vị thế nước xuất khẩu gạo số 1 thế giới trong mấy chục năm qua của Thái Lan rất có
thể sẽ nhường lại cho nước khác. Thái Lan sẽ mất đi sức cạnh tranh so với các quốc gia
Châu Á khác. Việt Nam và Ấn Độ sẽ tranh thủ cơ hội để chiếm l„nh thị trường. Giới xuất
khẩu gạo Thái Lan cho rằng, chính sách mới sẽ làm cho giá gạo ở Thái Lan tăng 25%.
Chỉ số giá gạo xuất khẩu của Tổ chức Lương Nông Liên Hợp Quốc (FAO) đã chạm kỷ
lục tính từ năm 2009. Trong tình hình đó chính sách nói trên của Thái Lan lại giống như
“lửa cháy đổ thêm dầu”. Chính sách mới không những sẽ làm cho giá gạo ở Thái Lan gia
tăng, mà còn tác động tới giá gạo thế giới. Một số chuyên gia kinh tế quan ngại, do châu
Á chiếm tới 87% lượng tiêu thụ gạo của toàn cầu, chính sách mới về gạo của Thái Lan rất
có thể sẽ mang lại áp lực lạm phát lớn hơn cho châu Á. Về lâu dài, chính sách này sẽ tạo
ra sức ỳ cho ngành nông nghiệp trong nước, trong khi gánh nặng bảo hộ lại đặt trên vai
các tầng lớp dân cư khác, đồng thời nó còn làm méo mó cơ chế phân công lao động và
phân bổ nguồn lực hữu hiệu của thị trường.
Hiện nay, các nhà nhập khẩu gạo nước ngoài vẫn chưa có phản ứng gì đối với giá gạo
Thái Lan tăng cao. Sô liệu cho thấy, năm 2010 Thái Lan xuất khẩu 9,05 triệu tấn gạo, dự
kiến năm 2011 sẽ đột phá 10 triệu tấn. Tổ chức Lương-Nông Liên Hợp Quốc khu vực
châu Á-Thái Bình Dương cho rằng, giá gạo Thái Lan gia tăng một mặt sẽ kích thích các
nước lớn khác về xuất khẩu gạo tăng thêm sản lượng, mặt khác người tiêu dùng sẽ
chuyển sang sử dụng các loại thực phẩm thay thế khác, như lúa mì và ngô. Bởi vậy, hiệu

quả của cạnh tranh và thay thế đã quyết định giá gạo Thái Lan gia tăng chưa hẳn sẽ áp đặt
toàn bộ cho thị trường quốc tế.
5. Về hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo:
Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy và phát triển xuất khẩu gạo. Đây là bộ phận tư nhân làm việc để giúp đỡ và ủng hộ
8
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
những nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan. Nhiệm vụ chính của Hiệp hội này là nghiên cứu
và thu thập dữ liệu và thông tin liên quan đến xuất khẩu gạo và gởi cho các thành viên
của Hiệp hội. Do những tin tức, thời sự và thông tin thay đổi nhanh chóng về các sản
phẩm hàng hóa như gạo. Nhà kinh doanh gạo Thái lan cấn cập nhật thương mại lúa gạo ở
cả l„nh vực trong nước và tất cả các nước trên thế giới.
Chức năng khác của Hiệp hội là chức năng trung tâm của cả bộ phận tư nhân và nhà
nước. Hiệp hội sẽ nêu lên những vấn đề liên quan thương mại lúa gạo hoặc kiến nghị để
nhờ Chính phủ giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Hơn nữa, bộ phận Nhà nước sẽ cùng
thảo luận với Hiệp hội trước khi Chính phủ đề ra chính sách hoặc quy định về thương
mại lúa gạo. Hiện nay, thị trường trên khắp thế giới đã mở cửa tự do, vì thế sự hợp tác
giữa các nhà xuất khẩu sẽ tốt hơn là tranh đấu vì quyền lợi riêng hoặc cạnh tranh không
lành mạnh lẫn nhau. Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái lan cũng có sự hợp tác với
Hiệp hội các nhà xuất khẩu khác ở các nước khác chẳng hạn hợp tác với Hiệp hội Lương
thực Việt Nam như việc thường xuyên hội họp trao đổi dữ liệu và những thông tin liên
quan với nhau.
IV. Thành tựu đạt được từ các chính sách:
Với những chiến lược và biện pháp trên, nền sản xuất gạo Thái Lan đã thu được khá
nhiều thành tựu.
Từ giữa thế kỉ thứ 19 Thái Lan luôn giữ vững ngôi vị nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế
giới. Với khí hậu thích hợp, nguồn tài nguyên đất đai phong phú, truyền thống trồng lúa
lâu đời và chính sách xuất khẩu gạo hợp lí, Thái Lan đã thành công trong việc duy trì vị
trí của nó như là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Mặc dù Thái Lan chỉ sản
xuất khoảng 4,4% trong tổng số sản lượng thế giới, lên tới 627 triệu tấn lúa gạo

trong năm 2007, Thái Lan xuất khẩu chiếm khoảng 30% tổng sản lượng xuất khẩu gạo
thế giới.
Tổng diện tích đất canh tác ở Thái Lan chiếm tới 20.900 nghìn ha trong đó khoảng một
nửa là dành cho việc trồng lúa. Từ cuối những năm 1960 cho đến đầu những năm
1980, đất dành cho trồng lúa được mở rộng nhanh chóng do thành tựu đạt được từ cuộc
Cách mạng Xanh và những nỗ lực để tăng sản xuất lúa gạo. Sản xuất tăng từ 12,4 triệu
tấn đến 21,2 triệu tấn lúa trong hai thập kỷ đầu tiên của cuộc cách mạng ( IRRI,
2000).Trong năm 2006, tổng sản lượng lúa gạo là 29,5 triệu tấn, theo USDA, Thái Lan
sản xuất khoảng 18,4 triệu tấn gạo xay xát trong năm 2007. Trong tổng số gạo xay xát,
khoảng 9 triệu tấn được xuất khẩu, làm cho Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
nhất trên thế giới với thị phần chiếm khoảng 30% tính từ tất cả các loại giống và chất
lượng cộng lại. Trong 50% tổng lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan chủ yếu là loại gạo
hạt dài chất lượng cao có giá cao nhất trên thị trường (Vanichanont, 2004, trang 4). Thái
Lan có thể tăng lượng xuất khẩu hàng năm, như là kết quả của một sự kết hợp của sản
xuất tăng và giảm của bình quân tiêu thụ đầu người trong nước(IRRI, 2000).
Trong khoảng thời gian từ năm 1960 và 1980, Thái Lan đã đầu tư đáng kể trong phát
triển nông nghiệp, đặc biệt là trong hệ thống thủy lợi, mạng lưới giao thông đường bộ,
9
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
phương tiện tiếp thị vànghiên cứu nông nghiệp và mở rộng, ở nhiều nơi của đất nước. Sự
gia tăng về cường độ canh tác lúa và trong việc áp dụng các giống lúa hiện đại giúp tái
sinh tăng trưởng trong sản xuất.
Xuất khẩu gạo Thái được xem là đạt mức cao kỷ lục mới trong năm 2004. Thái Lan xuất
khẩu 7,58 triệu tấn gạo trong năm 2003,khối lượng cao nhất trong lịch sử của đất nước.
Từ tháng 1- tháng 7 năm 2004, Thái Lan xuất khẩu gạo lên tới 5.600.000 tấn, trị giá 1.5 tỉ
USD, tăng 43% về khối lượng và 65% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Trong năm 2008, Thái Lan xuất khẩu khoảng 10 triệu tấn gạo, chiếm khoảng 33% thương
mại gạo thế giới. Theo Hội đồng Thương mại Thái Lan, các nhà nhập khẩu lớn nhất
của gạo trong năm 2009 là Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Malaysia.
Dựa trên dữ liệu thống kê gạo thế giới (FAO, 2008), diện tích thu hoạch lúa thô là

10.248.000 ha, sản lượng gạo thô 30.466.920 tấn, năng suất lúa thô là 2,97 tấn/ ha.
Biểu đồ năng suất gạo trung bình ở Thái Lan từ 1951-2006
10
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
Biểu đồ diện tích thu hoạch lúa và sản lượng gạo sản xuất ở Thái Lan từ 1951-2006
Biểu đồ thị phần xuất khẩu gạo của Thái Lan 1999-2000
Nguồn: Bộ Ngoại thương
Căn cứ vào khối lượng xuất khẩu gạo hàng năm của Thái Lan cho từng khu vực trên
thế giới, có thể thấy được thị phần ở các thị trường. Ở châu Á, trong đó Thái Lan có thị
phần xuất khẩu lớn nhất vào năm 1999 so với các vùng khác thị phần giảm nhẹ từ 37,3%
năm 1999 xuống 29,5% vào năm 2000. Sự giảm này có thể do sự gia tăng trong cuộc
cạnh tranh với các thị trường xuất khẩu mới nổi, chẳng hạn như Việt Nam và Trung
Quốc. Tại thị trường châu Phi, gạo Thái đã chứng kiến sự gia tăng thị phần từ 32,5% lên
11
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
38,7%. Tại Trung Đông và châu Âu, thị phần của Thái Lan đã tăng nhẹ, trong khi ở Mỹ
và Châu Đại Dương, thị phần đã giảm nhẹ.
Nhìn chung, muốn phát triển xuất khẩu một mặt hàng nào cũng cần chính phủ
cũng cần một chính sách xuất khẩu phù hợp và đối với mặt hàng gạo, Thái Lan đã đi
đúng hướng với chính sách xuất khẩu gạo hợp lý. Nếu như trước đây, muốn tăng nhanh
lượngxuất khẩu gạo, chính phủ Thái Lan đã sử dụng chính sách giá gạo tối thiểu, nhằm
tăng nhanh lượng gạo xuát khẩu ra thế giới, nhưng khi chính phủ Thái Lan muốn tập
trung phát triển về chất lượng gạo, Thái Lan lại khéo léo áp dụng chính sách giá gạo
mới. tuy rằng, chính sách giá gạo mới năm 2011 của Thái Lan còn chịu nhiều ảnh hưởng
từ chính trị cũng như nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ chuyên gia trên thế giới,
nhưng đã mở ra một hướng đi mới và lâu dài cho ngành sản xuất gạo của Thái Lan, đó
là sản xuất và xuất khẩu lúa gạo chất lượng cao. Hướng đi mới này của Thái Lan là một
hướng đi mạo hiểm, nó có thể biến Thái Lan từ một nước có lượng xuất khẩu gạo lớn
nhất thế giới thành một nước nổi tiếng với gạo chất lượng cao nhưng cũng có thể hủy
hoại nền sản xuất gạo của Thái Lan, làm cho nên sản xuất gạo trong nước trỏ nên trì trệ,

ỷ lại vào chính phủ. Tuy rằng, chính sách giá gạo mới này chưa có tác động cụ thể nào
tới sản xuất và xuất khẩu gạo của đất nước Thái Lan, có thể tác động xấu hay mang lại
nguồn lợi lớn cho Thái Lan nhưng đây vẫ là một cách đi táo bạo và Thái Lan rất đáng
khen khi dám áp dụng chính sách giá gạo mới này.
12
Chính sách xuất khẩu gạo của Thái Lan
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Economic factors affecting rice production in Thailand (Kwinarajit Sachchamarga và
Gary W. Williams, Nghiên cứu TAMRC quốc tế Báo cáo số IM-03-04, tháng 3 năm
2004)
Rice price policy in Thailand, poliicy making and recent development (Sara Forssell,
Tháng 10 năm 2008)
Tạp chí kinh tế châu Á số 17 (Journal of Asian Economics 17 (2006) 103–125)
/> /> />www.thairiceexporters.or.th/
www.thairiceexporters.or.th/price.htm
www.foodmarketexchange.com/ /rice/detail/dc_pi_gr_rice0502.htm
www.bbc.co.uk/news/business-15195058
www.riceland.co.th/news.html
13

×