Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Khảo sát thực trạng đọc báo mạng điện tử của sinh viên học viện báo chí tuyên truyền hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 21 trang )

Tên đề tài: Khảo sát thực trạng đọc báo mạng điện tử
của sinh viên Học viện Báo chí & Tuyên truyền hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo điện tử là một loại hình báo chí non trẻ, ra đời sau loại hình
báo in, báo phát thanh và báo hình nhưng sự ảnh hưởng cũng
như phát triển của báo điện tử trong thời đại công nghệ thông
tin hiện nay thì khơng một loại hình báo chí nào sánh bằng.
Ngồi những đặc trưng riêng, báo điện tử cịn mang những vai
trị của báo chí nói chung trong xã hội như: Là kênh tạo lập,
định hướng và hướng dẫn dư luận; Là kênh chủ yếu cung cấp
kiến thức thông tin về tình hình thời sự trong nước và quốc tế
cho nhân dân; là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành
và cải cách xã hội; là một định chế với những quy tắc và chuẩn
mực riêng của mình và có những quan hệ mật thiết với các định
chế khác trong xã hội; là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu
trong đời sống hàng ngày của mọi cá nhân, là phương tiện cung
cấp thông tin, kiến thức và giải trí cho người dân. Chính những
vai trị trên đã làm cho báo điện tử có sự ảnh hưởng vơ cùng lớn
đối với người dân nói chung, đặc biệt là giới trẻ. Đây là những
người thường xuyên tiếp cận với internet nói chung và báo điện
tử nói riêng do đặc thù về điều kiện sống, công việc, nhận thức
và hành vi.
Có thể thấy hiện nay, rất nhiều người đang định hướng sai lệch
về như thế nào là báo mạng điện tử, đâu là trang thơng tin, có
người tìm những trang web “bẩn” để tiếp cận thơng tin một
cách khơng chính xác, thực trạng này xảy ra ở giới trung niên,


tiếp cận công nghệ thông tin chậm hơn là chuyện bình thường.
Nhưng với giới trẻ, những người đủ khả năng nhìn nhận một


cách thơng minh về cơng nghệ, thơng tin thì khơng nên để tình
trạng lệch lạc trong quan điểm và hành động này xảy ra.
Hay thu hẹp phạm vi hơn, những sinh viên đang theo đuổi
ngành báo chí – truyền thơng cần phải có cái nhìn đúng đắn về
loại hình báo chí điện tử, từ đó ngăn chặn nhiều hệ lụy rủi ro
cho nền báo chí nước nhà.
Chính vì thế, cũng là những sinh viên của Học viện Báo chí &
Tuyên truyền, những người đề cao tính chuyên nghiệp trong
hoạt động báo chí, nhóm chúng tơi quyết định thực hiện khảo
sát thực trạng đọc báo mạng điện tử của sinh viên học viện Báo
chí & Tuyên truyền hiện nay. Từ đó, tổng kết, tìm điểm mạnh để
phát huy, phát hiệu điểm yếu còn tồn đọng để đề xuất giải
pháp nhằm mang lại cách hiểu chính xác về báo chí điện tử Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tìm hiểu, nhóm nghiên cứu đã tìm ra được những số liệu
liên quan ở thế giới để giúp nhóm tham khảo và hồn thành
cơng trình nghiên cứu, khảo sát.
Trong cuốn sách “Bùng nổ truyền thông – Sự ra đời một ý thức
hệ mới” của hai tác giả Philippe Breton và Serge Proulx đã
khẳng định, sự ra đời của điện tử học và sự phát triển của khoa
học cơng nghệ đã có tác động mạnh mẽ đối với hệ thống
truyền thơng (hệ thống các media). Nhờ đó mà các media trở


nên dễ dàng hơn trong việc tiếp cận công chúng, đồng thời dễ
dàng làm ảnh hưởng tới tư tưởng, nhận thức của công chúng.
Bởi vậy, tùy thuộc vào nền văn hóa khác nhau, thể chế chính trị
khác nhau mà hệ thống media được sử dụng một cách linh

hoạt, phù hợp với tiêu chí hoạt động của từng tổ chức, cá nhân
sử dụng.
Bài viết “Study Shows How internet Use Affects Today’s Youth”
của tác giả Michael Harper đăng trên
cho thấy: các thanh thiếu niên ngày nay đang tích cực sử dụng
internet thông qua các thiết bị thông tin hiện đại trong cuộc
sống của mình. Bên cạnh việc cung cấp một lượng thông tin
phong phú, internet cũng mang lại sự lạc hướng về thông tin
đối với giới trẻ. Điều này cho thấy, internet nói chung và loại
hình báo điện tử nói riêng đã có ảnh hưởng nhất định đối với
giới trẻ.
Hay “The Impact of Social Media on Children, Adolescents, and
Families” (Tạm dịch: Ảnh hưởng của mạng xã hội đối với trẻ
em, thanh thiếu niên và gia đình) của hai tác giả Gwenn
Schurgin

O'Keeffe,

Kathleen

Clarke-Pearson

(đăng

trên

đã phân tích về thực
trạng sử dụng MXH của thanh thiếu niên Mỹ; “Impact of media
use on children and youth” (Tạm dịch: “Tác động của việc sử
dụng phương tiện truyền thông đối với trẻ em và thanh thiếu

niên) được đăng trên đã có
những phân tích sâu sắc về sự ảnh hưởng của các PTTT đại
chúng như: tivi, trò chơi điện tử, video âm nhạc, Internet… đối
với trẻ em và thanh thiếu niên; “Effects of Media on Teens: A
Look at the Research” (Tạm dịch: Ảnh hưởng của phương tiện


truyền thơng đối với giới trẻ: Một góc nhìn nghiên cứu) của hai
tác giả Alison Burkhardt và Daniel White Hodge đăng trên
website của trường Đại học North Park ngày 01/05/2012, trong
đó đã chỉ ra rằng, phương tiện truyền thơng đại chúng đã đưa
ra những “chỉ số” để những người trẻ định hình cái gì là “bình
thường” và “khơng bình thường”, củng cố kiến thức, giúp họ
nhận thức rõ về bản thân và những người xung quanh mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Hiện tại, thực trạng đọc báo mạng điện tử của sinh viên học
viện báo chí tuyên truyền là đề tài chưa được đưa vào nghiên
cứu. Tuy nhiên, tại học viện đã có những luận án, luận văn hay
những cuốn sách của các giảng viên trong trường nhằm xây
dựng cơng trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của báo mạng
điện tử đối với thế hệ trẻ hiện nay.
Trước hết, về mặt lý luận và những vấn đề cơ bản của báo điện
tử như: sự ra đời và phát triển của báo điện tử, khái niệm và
đặc trưng của báo điện tử, phương thức sáng tạo tác phẩm báo
điện tử… phải kể đến các cuốn sách tiêu biểu như:“Báo mạng
điện tử những vấn đề cơ bản” – TS. Nguyễn Thị Trường Giang
chủ biên (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội – 2011); “Đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo” – TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ
biên (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội – 2011); “Báo mạng
điện tử - Đặc trưng và phương pháp sáng tạo” – TS. Nguyễn Trí

Nhiệm, TS. Nguyễn Thị Trường Giang đồng chủ biên (Nxb Chính
trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2014); “Các thủ thuật làm báo
điện tử” do Vũ Kim Hải, Đinh Thuận biên soạn.


Trong cuốn sách “Tác nghiệp báo chí trong mơi trường truyền
thông hiện đại” – TS Nguyễn Thành Lợi, Nxb Thông tin và
Truyền thông, tháng 06/2014 đã giới thiệu những nét khái quát
nhất về các vấn đề khá mới mẻ đang được nghiên cứu rộng rãi
trên thế giới nhiều năm – nhiều thập kỷ qua như: truyền thông
xã hội, các lý thuyết về truyền thơng, hội tụ truyền thơng, xu
hướng tịa soạn báo hội tụ và những kỹ năng cần thiết trong
viết báo đa phương tiện. Cuốn sách đã khẳng định tầm quan
trọng của internet và các thiết bị truyền thông hiện đại đối với
báo chí. Trong cuốn “Phương tiện truyền thơng mới và những
thay đổi văn hóa xã hội ở Việt Nam” – Bùi Hoài Sơn, Nxb Khoa
học Xã hội năm 2008 đã khẳng định: “Dù biết rằng, công nghệ
luôn ln là cơng nghệ, nó khơng hồn tồn tốt cũng khơng
hồn tồn xấu, mà chỉ giúp con người trở nên thuận tiện hơn
trong cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên, các phương tiện truyền
thông mới đã khiến nhân loại lo lắng về một khả năng con
người trở thành nạn nhân của máy móc”.
Hay trong cuốn “Ảnh hưởng của internet đối với hành vi của
thanh niên Hà Nội”, Nxb Khoa học Xã hội (2006), tác giả trên có
viết: “Trên thực tế, đối với bất kỳ một công nghệ mới nào, bản
chất của cơng nghệ đều mang tính trung tính. Việc con người sử
dụng nó trong những hồn cảnh cụ thể và vì những mục đích cụ
thể sẽ quyết định nó có lợi hay có hại đối với bản thân người sử
dụng hay lợi ích của tồn bộ xã hội”. Tuy nhiên, cả hai tài liệu
nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới sự ảnh hưởng của mạng

internet mà vẫn chưa nói tới báo điện tử hay báo chí đối với lối
sống của giới trẻ. Trong các đề tài nghiên cứu khóa luận, luận
văn và luận án tiến sĩ tại Khoa Báo chí và Truyền thông – Đại


học KHXH&NV cũng đã đề cập tới sự ảnh hưởng của báo chí đối
với giới trẻ ở Việt Nam. Cụ thể: “Báo chí với q trình hình
thành nhân cách của học sinh - sinh viên” (Luận văn thạc sĩ
Truyền thông đại chúng của Lại Thị Hải Bình, năm 2006) có chỉ
ra rằng, báo chí với chức năng và vai trị định hướng dư luận xã
hội đã có sự tác động tới quá trình hình thành nhân cách của
học sinh – sinh viên, nhất là đối với các loại hình báo chí hiện
đại. “Báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên ” (Luận
văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Trương Thị Tuyên, năm
2008) đã trình bày cơ sở lý luận của báo chí với việc rèn luyện
đạo đức của sinh viên, mối quan hệ giữa báo chí và sinh viên.
Tìm hiểu thực trạng báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh
viên qua hệ thống báo chí cho sinh viên; nội dung chuyển tải và
hình thức thể hiện của của hệ thống báo chí cho sinh viên.
“Công chúng thế hệ Net với các phương tiện truyền thông đại
chúng” (Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Hoàng Thị
Thu Hà, năm 2011) đã chỉ ra được sự ảnh hưởng của các PTTT
hiện đại đối với thế hệ trẻ, những người có khả năng tiếp thu
cơng nghệ nhanh chóng.
Luận văn “Ảnh hưởng của Báo điện tử đối với lối sống của giới
trẻ Việt Nam hiện nay” của Ths. Nguyễn Thị Huyền Chinh cũng
là một tài liệu đã tổng hợp chi tiết rất nhiều con số thống kê,
thông tin về cả báo chí thế giới và báo chí Việt Nam.
Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đã có rất nhiều đề tài
nghiên cứu về báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng, trong

đó cũng có nói tới sự ảnh hưởng của chúng đối với người trẻ.
Đơn cử: “Thực trạng tiếp nhận báo mạng điện tử của học sinh


phổ thông trung học ở nội thành Hà Nội hiện nay” – Luận văn
Thạc sĩ của Phạm Duy Đức, năm 2013; “Báo mạng điện tử đối
với việc phát triển hỗ trợ kỹ năng mềm cho sinh viên Thành
phố Hồ Chí Minh” – Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh
Châu, năm 2014; “Tương tác giữa tịa soạn và cơng chúng báo
mạng điện tử” (Khảo sát báo Vietnamnet.vn, VnExpress.net và
Tuoitre.com.vn từ 01/2006 đến 01/2011) – Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Hoàng Quỳnh Hương…
3. Mục đích nghiên cứu
Nhóm thực hiện nghiên cứu về đề tài này để có thể thống kê
được con số sinh viên đọc báo mạng điện tử trong học viện Báo
chí & Tun truyền hiện nay. Từ đó cho thấy được tầm quan
trọng, sự ảnh hưởng của báo chí điện tử đối với sinh viên học
viện.
Không chỉ vậy, thông qua phương thức khảo sát của đề tài,
nhóm nghiên cứu dễ dàng nhận ra được đâu là tầm nhìn sai
lệch về báo chí điện tử, hay sinh viên nào đang có biểu hiện
chưa đúng khi tiếp xúc với loại hình báo chí 4.0 này.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhóm đặt ra những mục tiêu
nghiên cứu sau:
a) Tìm hiểu nhận thức và thái độ của sinh viên AJC về báo mạng
điện tử.
b) Khảo sát, thu thập số liệu về số lượng sinh viên đọc báo
mạng điện tử.
c) Tìm hiểu lý do lựa chọn đọc báo mạng điện tử.



5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng đọc báo mạng điện tử của
sinh viên học viện Báo chí & Tuyên truyền.
6. Đối tượng khảo sát
Đối tượng khảo sát của đề tài là những sinh viên đang theo học
tại học viện Báo chí & Tuyên truyền.
7. Khái niệm công cụ (mở rộng, thu hẹp)
a) Khái niệm công cụ mở rộng
Khái niệm công cụ mở rộng của đề tài đi từ thực trạng đọc báo
mạng điện tử của sinh viên AJC, sau đó tới thực trạng đọc báo
điện tử của giới trẻ, cuối cùng là thực trạng tiếp nhận thơng tin
báo chí – truyền thơng của giới trẻ.
b) Khái niệm công cụ thu hẹp
Khái niệm công cụ thu hẹp của đề tài đi từ khái niệm rộng nhất
là thực trạng đọc báo mạng điện tử của sinh viên AJC, cho tới
khái niệm công cụ nhỏ hơn là thực trạng đọc báo mạng điện tử
của các khoa nghiệp vụ, chun ngành báo chí, phát thanh
truyền hình.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận đã tham khảo và đưa ra cơ sở lý luận dựa vào những
tài liệu về báo chí – truyền thơng, cơng nghệ, tâm lý học, văn
bản quản lý báo chí.
8.2. Cơ sở thực tiễn


Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng câu hỏi,
bảng hỏi trực tuyến. Sau đó, thu thập câu trả lời, số liệu để có

thể thống kê chính xác hoặc gần nhất về thực trạng đọc báo
mạng điện tử của sinh viên học viện Báo chí & Tuyên truyền.
9. Kết cấu: (Chương, mục, tiểu mục):
Chương I: Những vấn đề cơ bản về báo mạng điện tử
1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp 4.0
1.2. Khái niệm báo mạng điện tử
1.3. Lịch sử phát triển của báo mạng điện tử
1.3.1. Trên Thế giới
1.3.2. Tại Việt Nam
1.4. Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử Việt Nam
hiện nay
1.5. Luật quản lý báo chí điện tử ở Việt Nam
Chương II: Khảo sát thực trạng đọc báo mạng điện tử
của sinh viên học viện Báo chí & Tuyên truyền hiện nay
2.1. Khái quát chung học viện Báo chí & Tuyên truyền và
sinh viên học viện
2.1.1. Tổng quan về Học viện Báo chí & Tuyên truyền
2.1.2. Tổng quan về sinh viên học viện
2.2. Phân tích thực trạng
2.2.1. Tiến hành khảo sát
2.2.2. Kết quả thu được qua khảo sát


Chương III: Đề xuất giải pháp về nâng cao thái độ tiếp
cận thơng tin báo chí – truyền thơng nói chung và báo
mạng điện tử nói riêng của sinh viên học viện Báo chí &
Tun truyền nói chung
3.1. Tổng quan về thực trạng
3.2. Giải pháp trước khi nghiên cứu
3.3. Đề xuất giải pháp

NỘI DUNG
Chương I. Những vấn đề cơ bản về báo mạng điện tử
1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp 4.0
Đánh dấu bước khởi đầu của một kỷ nguyên số, với những thiết
bị hiện đại, nền công nghiệp 4.0 đã khiến cho thế giới chuyển
mình theo hướng tân tiến hơn rất nhiều.
Nền công nghiệp 4.0 khiến cho nhiều ngành nghề được thay
đổi, đi theo một con đường hiện đại hơn. Với nông nghiệp, công
nghiệp, hay các nơi lao động nhỏ, lẻ, 4.0 vẫn đóng góp một
phần trong sự phát triển của những ngành nghề này, từ đó, nền
kinh tế của một đất nước được đẩy mạnh hơn rất nhiều lần.
Nền công nghệ số cũng thay đổi bộ mặt, cách hoạt động của
ngành báo chí – truyền thơng, trong những thay đổi đó phải kể
đến sự xuất hiện của loại hình báo chí điện tử. Cách vận hành
của những trang báo mạng điện tử, hay những mạng xã hội đều
góp phần làm thơng tin đến gần với mọi người hơn. Nhờ vào
internet, wifi, smartphone, người dùng có thể cập nhật thơng
tin ở bất cứ đâu, bất kì thời gian nào, mà lại nhỏ gọn, tiện lợi.


Có được điều này chính là do cách mạng cơng nghiệp 4.0 mang
lại.
1.2. Khái niệm báo mạng điện tử
Báo mạng điện tử là một loại phương tiện truyền thông đại
chúng được ra đời cũng khá lâu rồi nhưng lại sau truyền hình,
báo in và phát thanh. Ngày trước, khi có một sự kiện đời sống
xã hội xảy ra thì người dân sẽ tiếp cận qua đài phát thanh, kênh
truyền hình hoặc là trên các tờ báo. Còn bây giờ, báo mạng
điện tử đã có thể thay thế được những kênh tin tức kia một
cách nhanh chóng và dễ dàng.

Báo trực tuyến, báo điện tử, báo mạng hay tin tức trực tuyến là
loại hình báo viết được xây dựng theo hình thức một trang web
và phát hành dựa trên nền tảng Internet. Báo điện tử được tòa
soạn điện tử xuất bản, cịn người đọc báo dựa trên máy tính,
thiết bị cá nhân như máy tính bảng, điện thoại di động trung
cao cấp,... có kết nối internet.
Khác với một trang web nói chung hay trang thông tin điện tử,
báo trực tuyến cập nhật thường xuyên tin tức, đặc biệt là đăng
"tin tức thời" hay "tin giật gân" (Breaking news). Báo điện tử
cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh
chóng khơng phụ thuộc vào khơng gian và thời gian. Sự phát
triển của Báo điện tử đã làm thay đổi thói quen đọc tin và ít
nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển báo giấy truyền thống.
So với các phương tiện truyền thơng đại chúng khác thì thì báo
mạng điện tử có những đặc điểm vượt trội hơn như khả năng
tương tác cao – sự tương tác qua lại giữa người dân và báo điện
tử rất cao, khả năng đa phương tiện, tính thời sự cao vì khả


năng tiếp cận và truyền đạt thông tin rất nhanh chóng, ngồi ra
báo điện tử cịn có khả năng tìm kiếm thông tin và lưu giữ
thông tin tốt nhất.
Về thuật ngữ báo trực tuyến trong tiếng Anh gọi là "Online
newspaper". Sự phổ biến và thuận tiện của việc dùng từ
"Online" dẫn đến trên thế giới và trong nước từ này được gắn
thẳng vào tên báo, ví dụ "Báo Tin Tức Online", "Tuổi Trẻ
Online",... để chỉ phiên bản trực tuyến.
Tuy nhiên, cũng vì những ưu thế trên mà tính chính xác và an
tồn thơng tin của báo mạng điện tử khiến người dân và chính
trị phải lo lắng. Là một trong những phương tiện truyền thông

đại chúng phổ biến nhất hiện nay, việc đảm bảo chính xác về
thơng tin của báo mạng điện tử là vấn đề rất quan trọng.
1.3. Lịch sử phát triển của báo mạng điện tử
1.3.1. Trên thế giới
Sự ra đời và phát triển của mạng Internet trong những năm đầu
của thập niên 90 là một bước tiến vượt bậc của khoa học kỹ
thuật. Cả thế giới được liên kết với nhau thơng qua mạng máy
tính. Và một trong những thành tựu lớn nhất của Internet là tiền
đề tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của một loại hình
báo mới – Báo mạng điện tử.
Năm 1973, các nhà nghiên cứu đã nghĩ đến mơ hình một tờ báo
điện tử. Nhưng mãi đến năm 1980 tờ báo điện tử đầu tiên mới
xuất hiện. Sự ra đời của báo mạng điện tử thời kỳ này gặp
khơng ít những khó khăn: số lượng người đọc báo ít, người dung
máy tính ít, các khâu trong kỹ thuật gặp trục trặc. Những rào
cản đó đã khiến cho báo mạng điện tử chậm phát triển.


Tuy nhiên, những khó khăn đó đã được khắc phục vào cuối
những năm cảu thập niên 80 khi các xuất bản phẩm điện tử
dưới dạng file ASCIT bắt đầu xuất hiện.
Đầu thập niên 90, đã có những ứng dụng cộng nghệ mới hơn
cho việc xuất bản và phân phối điện tử như: nhóm tin Archie,
Usernet, Gopher, Wais. Gopher cho phép người sử dụng xem và
tìm lại các số báo đã phát hành nhiều lần trước đó. Wais cho
phép các nhà xuất bản dễ dàng tìm kiếm thơng tin trong cơ sở
dữ liệu. Năm 1991, đánh dấu sự ra đời hàng loạt của tờ báo
điện tử như Electronic journal of communication, Journal of
international academy of hospitality research. Giai đoạn 19901991, có khoảng 30 tờ báo điện tử và có ít nhát 60 bản tin trên
mạng. Năm 1992, báo điện tử có một bước tiến quan trọng về

hình thức khi tờ báo đầu tiên có đầy đủ cà văn bản lẫn hình ảnh
sinh động xuất hiện, đó là Online journal of current climical
triale. Mạng tin tức đầu tiên trên thế giới Chicago Tribum xuất
hiện tại Mỹ năm 1992. Năm 1994, phiên bản của điện tử của
tạp chí Hotwired chạy những banner quảng cáo đầu tiên, tiếp
đếm là hàng loạt các cơ quan báo chí nổi tiếng ở Mỹ lần lượt
cho ra đời phiên bản điện tử như: Los Angeles Times, USA
Today, New York Newsday… Năm 1995, nhiều tờ báo ở Châu Á
cũng

xuất

hiện

trên

mạng

Internet

như:

Chine

daily,

Utusan(Malaixia), Kompas(Indonexia), Asahi Shimbun(Nhật Bản)
… Và cũng năm 1995, thị trường báo in ở Mỹ có nhiều biến
động, số lượng báo in giảm đã thúc đẩy sự phát triển của báo
mạng điện tử. Đến giữa năm 1996, Mỹ đã có khoảng 768 tờ báo

mạng điện tử, Châu Âu có 169 tờ báo, Châu Á và Trung Đơng có
54 tờ, Nam Mỹ có 25 tờ, Australia có 20 tờ, Châu Phi có 6 tờ.


Theo thống kê của Newslink, năm 1996 trên toàn thế giới có
1335 tờ báo mạng điện tử, đến 9/1998 là 4925 tờ, đầu năm
2000 là 8474 tờ. Từ năm 2000 trở đi các hang thơng tấn đài
truyền hình lớn như: CNN, NBC, AFP, các tờ báo New york
Times, Washington Pots… đều có tờ báo mạng điện tử của mình
và coi đó là phương tiện để thu hút cơng chúng.
Sự phát triển của Internet kéo theo sự phát triển của báo mạng
điện tử một cách nhanh chóng và nó trở thành “Cơn sốt vàng”.
Ngày nay, báo mạng điện tử là một phương tiện truyển thông
đa phương tiện không thể thiếu dối với cuộc sống của con người
và Nó là loại hình báo chí đang cạnh tranh gay gắt với các loại
hình báo chí khác như: báo in, truyền hình, phát thanh. Cùng
với các loại hình báo chí đa phương tiện, báo mạng góp phần
tạo nên sự đa dạng cho nền báo chí đồng thời cũng là kênh
thơng tin mà con người tiếp cận nhiều nhất cho đến thời điểm
này. Tương lai của báo mạng còn phát triển hơn nữa với tộc độ
nhanh chóng của mạng Internet.
1.3.2. Tại Việt Nam
Năm 1993, mạng VARINET được thành lập là mạng duy nhất tại
Việt Nam kết nối Internet ngoại tuyến.
19/11/1997, Việt Nam chính thức nối mạng Internet. Chỉ sau 1
tháng nối mạng, ngày 31/12/1997, tạp chí Quê hương (tạp chí
của Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc Bộ Ngoại
giao của Việt Nam) có đọa chỉ đã trở
thành tờ báo mạng điện tử ở nước ta. Tạp chí chủ yếu phục vụ
nhu cầu cộng đồng người Việt Nam định cư, sinh sống ở nước

ngoài.


Trước thế mạnh của báo mạng điện tử, ngay sau đó hàng loạt
các cơ quan báo chí đã tiến hành thử nghiệm và lần lượt xuất
bản ấn phẩm của mình trên mạng Internet.
Ngày 21/6/1998, báo Nhân dân điện tử ()
chính thức phát hành trên mạng Internet. Ngày 3/2/1999, Đài
Tiếng Nói Việt Nam hòa mạng với tên . Tiếp
theo, Đài Truyền hình Việt Nam cũng cho ra đời trang mạng
điện tử của mình .
Báo mạng thời kỳ đầu hết sức đơn giản, hầu như chưa gây được
ấn tượng với người đọc. Mặt khác do tốc độ truy cập Internet
còn chậm, những người làm việc ở các tờ báo mạng điện tử rất
xa lạ và bỡ ngỡ với loại hình báo chí này.
Sự ra đời của hàng loạt các tờ báo mạng điện tử độc lập đã thổi
luồng gió mới thúc đẩy báo mạng điện tử phát triển hơn nữa.
Ngày 26/2/2002 tờ Tin nhanh Việt Nam cho ra đời trang mạng
của mình với tên gọi . Ngày 23/1/2003,
VietNamNet

cũng

.

được

cấp

Ngay


giấy
sau

phép
đó,

hoạt

động

VnMedia

cũng cho ra đời trang báo mạng điện tử
của mình.
Trước tốc độ lan truyền tin tức một cách nhanh chóng, một số
tờ báo in đầu tư rất mạnh đến các ấn phẩm trực tuyến nhằm
thu hút độc giả ví dụ như: tờ Thanh Niên, Cơng An Nhân dân, An
ninh thế giới, cảnh sát tồn cầu, Tuổi trẻ tp Hồ Chí Minh, tuổi trẻ
Online…Bên cạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển của báo mạng
điện tử, khi cho ra đời các trang báo mạng điện tử gặp khơng it
những khó khăn về đội ngũ những nguwoif làm báo mạng, trình


độ chun mơn, nghiệp vụ cịn hạn chế. Các tờ báo mạng điện
tử phụ thuộc thông tin vào báo in…
Phải đến năm 2005, báo mạng điện tử mới thực sự trưởng
thành cả về mặt chất lẫn số lượng. Những trang thơng tin điện
tử cũng dần thốt khỏi cái bóng của tờ báo in, dần khẳng định
được vị thế của mình trong lòng độc giả. Các trang báo mạng

điện tử đã thay đổi cả về nội dung và hình thức để thu hút sự
quan tâm của độc giả với giao diện mới, phong phú những hình
ảnh sinh động, nội dung đa dạng đề cập đến nhiều vấn đề đời
sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, thể thao,
giải trí, pháp luật…Các trang báo mạng điện tử ngày càng đáp
ứng được nhu cầu của công chúng về thông tin mới, nóng hổi,
hấp dẫn, giải trí, văn nghệ…
Tháng 10/2007, năm tờ báo gồm: Sài Gịn Giải phóng, Lao
động, Tiền phong, Thanh niên, Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh
đã ký kết một thỏa thuận về trao đổi và bảo vệ bản quyền, cho
phép sử dụng thông tin của nhau đã được đăng tải trên báo
mạng điện tử.
Hiện nay, trên cả nước có 46 báo mạng điện tử và tạp chí điện
tử, 287 trang tin của cơ quan báo chí và gần 200 trang thông
tin điện tử tổng hợp, hơn 12000 trang thông tin điện tử dăng ký
tên miền.vn, và hơn 80000 trang thông tin điện tử tên miền
quốc tế đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam đang hoạt động tại
63/83 tỉnh, thành phố, 20/22 bộ, ngành. Tất cả đang tạo nên
một bức tranh đa sắc màu, đa phong cách, góp phần tạo nên sự
đa dạng của báo chí Việt Nam nói riêng và báo chí trên thế giới
nói chung. Với tốc độ phát triển nhanh chóng, tột bậc của


Internet đã tạo điều kiện cho báo mạng điện tử phát triển một
cách nhanh chóng với đội ngũ những người làm báo mạng điện
tử chuyên nghiệp, số lượng ngày càng tăng, tốc độ truyền
thông tin tới độc giả là 0. thu hút sự quan tâm của độc giả cao
bới những tính năng vượt trội của báo mạng điện tử: đa phương
tiện, tính tương tác hai chiều cao, lưu trữ thơng tin lớn….Điều
này đã tạo nên một gương mặt mới hoàn tồn cho báo mạng

điện tử. Nó được ví như một con người lột xác so với những năm
đầu ra đời.
1.4. Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử Việt Nam
hiện nay
Dù là loại báo được hình thành sau các loại hình báo chí khác
nhưng sự phát triển nhanh chóng của báo điện tử là điều không
thể phủ nhận. Ở thời đại cơng nghệ số, ta có thể dễ dàng truy
cập internet và tìm kiếm thơng tin theo u cầu. Là loại báo
tích hợp từ kỹ thuật cơng nghệ số và báo chí truyền thống,
khơng bị giới hạn trong khn khổ nhất định, báo điện tử có thể
truyền tải thơng tin tới người đọc nhanh chóng, chính xác.
Đứng trước kỷ nguyên 4.0, công nghệ đã dần chiếm ưu thế
trong tất cả các mảng đời sống của con người, đặc biệt tác
động mạnh mẽ tới sự thay đổi của ngành báo chí Việt Nam. Từ
loại hình báo chí truyền thống như báo viết, báo nghe nay đã
dần chuyển sang mơ hình báo chí điện tử, loại hình truyền
thơng đa phương tiện, cung cấp nhiều dịch vụ liên quan đến
truyền thông đến cho người dùng. Thay vì đọc báo, xem thời sự
trong khung giờ nhất định thì giờ đây thói quen người dùng đã
thay đổi do sự ảnh hưởng của thời đại cơng nghệ số. Báo chí
điện tử đã trở thành xu hướng phát triển toàn cầu, chỉ với một


thiết bị điện tử có kết nối wifi là có thể truy cập các trang báo
điện tử và tìm kiếm thông tin dễ dàng.
Theo thống kê năm 2010, Việt Nam nằm trong top các nước có
tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới, xếp thứ 17 trên
tổng số 20 nước có lượng truy cập internet hàng đầu. Số người
sử dụng Internet rơi vào khoảng 23 triệu người, đạt tới 27%,
gấp đơi mức bình qn trong khu vực Đơng Nam Á và vượt mức

bình quân của thế giới. Đến năm 2019, số lượng sử dụng
internet rơi vào khoảng 64 triệu người, chiếm 65% dân số Việt
Nam, đứng thứ 16 trên thế giới. Sử dụng internet trở thành hoạt
động thường ngày, chiếm đến 94% dân số, trong đó số lượng sử
dụng thiết bị di động vượt ngưỡng dân số Việt Nam, lượt đăng
ký thuê bao ở Việt Nam lên tới 143 triệu số, cho thấy rằng cơng
chúng đã hồn tồn tiếp cận với điện thoại di động thông minh
và nhiều người sử dụng 2 đến 3 chiếc điện thoại cùng một lúc
để phục vụ mục đích cá nhân.
Nhanh hơn, chính xác hơn, báo mạng điện tử xóa bỏ rào cản về
khơng gian và thời gian. Cập nhật thông tin liên tục từng giây
từng phút là điều thiết yếu đối với báo mạng điện tử. Thông tin
trên báo mạng thường rất phong phú, bao quát tất cả lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, quốc tế, pháp luật, đời sống, khoa học, xã
hội… nên các nội dung sẽ phải chú trọng và chính xác hơn,
tránh vấn đề đưa tin thiếu chính xác, khơng có nguồn rõ ràng.
Sự phát triển của các cơng cụ tìm kiếm địi hỏi các trang báo
cải thiện tính năng lọc thơng tin của chính mình sao cho chính
xác và nhanh chóng hơn. Xây dựng các từ khóa, nội dung tìm
kiếm dễ dàng, phịng trừ trường hợp tìm kiếm khơng cho ra kết
quả cần tìm sẽ ảnh hưởng đến lượt tiếp cận công chúng và uy


tín tờ báo. Mở rộng nguồn kết nối ra quốc tế, để phát triển
thành những tờ báo quốc tế không chỉ người Việt Nam đọc thì
phải nhanh chóng cập nhật cho ra phiên bản báo bằng tiếng
nước ngoài.
Trở thành nguồn lực chính của báo chí, báo mạng điện tử phải
chú ý hơn hình thức truyền thơng đa phương tiện, linh hoạt
trong các sản phẩm dưới dạng ảnh, văn bản, phóng sự, video,

đồ họa, âm thanh…
Các trang mạng xã hội song hành cùng báo điện tử trở thành xu
thế sử dụng tồn cầu. Mạng xã hội có sức ảnh hưởng lớn như
Facebook, instagram chính là chủ lực để tiếp cận cơng chúng
hiện nay. Vì vậy phát triển mạnh các cách thức truyền thông
cho báo điện tử kết hợp với các trang mạng xã hội sẽ nâng cao
khả năng tương tác, là cách thức để báo chí thiết lập những mối
quan hệ và lắng nghe ý kiến của công chúng. Chú ý nhiều hơn
đến độc giả có những hành vi mang tính cộng tác, tham gia
phản hồi và tái phản hồi thông tin bình luận một cách tích cực.
Sự tương tác của độc giả sẽ được xem là phản hồi đóng góp để
tịa soạn và nhà báo hồn thiện, nâng cao chất bài viết hơn.
Mặt khác, báo chí điện tử đã mang đến xu hướng mới: mọi cơng
dân đều có thể sản xuất sản phẩm báo chí. Ở Việt Nam, khơng
ít các bài báo có thơng tin là do chính các độc giả cung cấp.
Tính cập nhật tức thời là yếu tố quan trọng trong việc định hình
và hoạt động của báo chí và nhất là báo chí điện tử. Vì vậy với
nhiều trường hợp phóng viên, biên tập khơng có mặt kịp thời để
tường thuật nắm bắt thông tin, công chúng nhân dân sẽ là
người cập nhật, ghi hình và tường thuật để làm sản phẩm báo
chí. Tuy nhiên người dân sẽ tham gia những khơng có quyền


quyết định. Các bài báo có sự tham gia sản xuất của người đọc
sẽ được gửi đến các tòa soạn, thông qua chủ biên tập và xuất
bản đưa thông tin lên các trang báo. Chính vì thế chủ biên càng
phải chú trọng hơn đến khâu duyệt bài và đăng tải, ngăn chặn
trường hợp thơng tin khơng chính xác chưa kiểm duyệt mà đã
xuất hiện, gây mất uy tín cho báo chí.
Đứng trước sự phát triển như vũ bão của cơng nghệ, xu hướng

của báo chí điện tử địi hỏi các tờ báo phải cải tiến chất lượng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bao gồm hệ thống máy móc, đường
truyền và cơng nghệ. Nhận thức đánh giá chính xác tầm quan
trọng của báo chí, định hướng đúng lối đi và kỹ năng làm báo,
xử lý tin tức kịp thời chính xác. Giữ vững tư tưởng lập trường về
báo chí, tận dụng ưu việt các tính năng truyền thơng đa phương
tiện, đề cao tính nhân văn trong báo chí. Tăng khả năng tương
tác với công chúng, coi phản hồi của công chúng là một phần
nội dung thông tin để rút kinh nghiệm mà phát triển.
1.5. Luật quản lý báo chí điện tử ở Việt Nam
Ngày 22/7/2005, Ban Bí thư T.Ư Đảng đã ban hành Chỉ thị số
52-CT/TW về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta, theo
đó, về chủ trương: “Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai
trị, tác động của mạng thơng tin tồn cầu và các báo điện tử
đến sản xuất và đời sống xã hội. Đổi mới nội dung, phương thức
chỉ đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước đối với báo chí điện
tử; xây dựng các tờ báo điện tử ở nước ta có kỹ thuật và cơng
nghệ hiện đại, đúng đắn, chân thực, phong phú về nội dung,
sắc bén về tính định hướng, tính chiến đấu, có tính văn hóa,
tính nghiệp vụ cao, thực sự là vũ khí chính trị tư tưởng quan


trọng, sắc bén của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, phục vụ đắc
lực sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Báo điện tử ở nước ta phải được phát triển nhanh, vững chắc,
có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể về kinh tế, kỹ thuật,
con người, năng lực quản lý; đảm bảo an ninh, an tồn, kết hợp
hài hịa với việc phát triển các loại hình báo chí và các phương
tiện thơng tin khác.”
Tiếp nối chủ trương năm 2005,ngày 25-12-2013, Bộ Chính trị

(khóa XI) cũng ra chỉ thị 30-CT/TW về phát triển và tăng cường
quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền
thơng khác trên internet.



×