Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Sản xuất giá trị thăng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối (cơ bản) của chủ nghĩa tư bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong bối cảnh mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.96 KB, 13 trang )

PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Họ và tên học viên: ……………………………….
Đơn vị công tác: ……………………………
Lớp: ……………………………
Số thứ tự: ……………………
CÂU HỎI
Câu 1: Sản xuất giá trị thăng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối (cơ bản) của
chủ nghĩa tư bản? Ý nghĩa của việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong
bối cảnh mới?
1. Khái quát chung về Quy luật giá trị thặng dư
Để trả lời cho câu hỏi: sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối (cơ
bản) của chủ nghĩa tư bản, trước hết, cần nắm vững bản chất tư tưởng cốt lõi của học
thuyết giá trị thặng dư.
Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị - lao
động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa to
lớn về mặt lý luận, nó đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở khoa học
thực sự.
Trước C. Mác, ngay cả những nhà kinh tế học lỗi lạc của trường phái tư sản cổ
điển, như Adam Smith và David Ricardo đã khơng giải thích nổi vì sao các nhà tư bản
trao đổi hàng hóa đúng giá trị mà vẫn thu được giá trị thặng dư. C. Mác đã khắc phục
được những nhầm lẫn, hạn chế của trường phái cổ điển và làm cho học thuyết giá trị lao động đạt tới sự hoàn bị. Sử dụng phương pháp đặc thù trong nghiên cứu kinh tế
chính trị là trừu tượng hóa khoa học, C. Mác đã tách giá trị thặng dư ra khỏi những
hình thái đặc thù của nó, xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư của mình.
Các nhà kinh tế trước C. Mác thấy được lao động tạo ra giá trị, nhưng không
tách ra được lao động nào (cụ thể hay trừu tượng) tạo ra giá trị. C. Mác cho thấy, chỉ
có lao động trừu tượng mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Nhờ phát hiện ra tính chất hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa cùng với một loạt những kết quả nghiên cứu khác:
Về lượng giá trị, cấu thành lượng giá trị; nguồn gốc, bản chất, chức năng tiền tệ; quy
luật giá trị và tác động của nó; mâu thuẫn công thức chung của tư bản và đặc biệt là
nhờ phát hiện ra giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hóa sức lao động có thuộc tính hết


sức đặc biệt là sản sinh ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó và nhờ phân biệt được q
trình lao động và quá trình làm tăng giá trị (quá trình sản xuất giá trị thặng dư), C. Mác
đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực chất của quá trình sản xuất
1


giá trị thặng dư. Qua đó, C. Mác làm rõ giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất chứ
không phải là trong lĩnh vực lưu thông; lưu thông rất cần cho quá trình sản xuất và
thực hiện giá trị thặng dư.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của một hình
thức bóc lột đặc biệt, tức là hình thức chiếm đoạt lao động của người khác (lao động
thặng dư) dưới hình thái giá trị thặng dư. Khác với phạm trù “lợi nhuận” vốn được nhà
tư bản yêu thích, giá trị thặng dư biểu hiện một cách chính xác như sau:
1- Là giá trị, tức lao động vật hóa;
2- Là lao động thặng dư vật hóa, là phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động
và bị nhà tư bản chiếm dụng.
Từ đó, đặc điểm bóc lột của chủ nghĩa tư bản không phải là ở sự tồn tại lao
động thặng dư, mặc dù dưới sự thống trị của tư bản, trình độ bóc lột được nâng lên rất
cao, mà đặc điểm của nó là lao động thặng dư đã hao phí mang hình thái giá trị thặng
dư, cịn tỷ lệ giữa thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động tất yếu thì mang
hình thái tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Quan hệ bóc lột bị vật hóa, bị
che lấp đằng sau quan hệ giữa vật với vật. Vì thế, sự bóc lột trong chủ nghĩa tư bản là
rất tinh vi và khơng có giới hạn.
Như vậy, điểm mấu chốt của học thuyết giá trị thặng dư là:
-

Thứ nhất, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị của hàng hóa, tạo ra giá trị
thặng dư. Nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân
làm thuê, chỉ có lao động sống (sức lao động đang hoạt động) mới tạo ra giá
trị, trong đó có giá trị thặng dư, nguồn gốc của giá trị thặng dư là sự tiêu

dùng sức lao động kéo dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó;

-

Thứ hai, giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, không có sản xuất giá trị thặng dư thì khơng có chủ
nghĩa tư bản, giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản, nội tại của
xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa lao động và tư bản, giữa giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân), mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế
tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

-

Thứ ba, chừng nào còn chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, còn hàng hóa sức lao động, chừng nào mà người lao động còn
phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để ni sống mình một số thời
gian lao động dơi ra để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm
hữu tư liệu sản xuất, chừng đó, học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn
còn nguyên giá trị.

2


2. Sản xuất giá trị thăng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối (cơ bản) của chủ
nghĩa tư bản
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C. Mác, tạo ra
giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thật vậy, giá trị thặng dư – phần giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do
công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế

bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị
thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các
nhà tư bản.
Học thuyết giá trị thặng dư được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị - lao
động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa to
lớn về mặt lý luận, đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở khoa học thực
sự.
Khi nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư, C. Mác chỉ rõ giá trị thặng dư là lao
động không công của công nhân cho nhà tư bản chỉ được tạo ra trong quá trình sản
xuất nhờ tính chất đặc biệt của loại hàng hố sức lao động. Đồng thời C. Mác khẳng
định rằng: Sản xuất ra giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật giá trị thặng dư đòi hỏi sản xuất giá trị thặng dư ngày càng nhiều cho các nhà
tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê trên cơ sở mở rộng sản xuất và
phát triển kỹ thuật. Tóm lại, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, vì:
-

Quy luật giá trị thặng dư quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Quy luật giá trị
thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận động của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Khơng có sản xuất giá trị thặng dư thì khơng có chủ nghĩa
tư bản. Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì
ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có
sản xuất giá trị thặng dư. Chính vì vậy, Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là
quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

-


Quy luật giá trị thặng dư chi phối các quy luật kinh tế khác, như: Quy luật
lợi nhuận, quy luật lợi nhuận bình quân, quy luật lợi nhuận siêu ngạch,…

-

Quy luật này quyết định toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa
tư bản. Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã
hội tư bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản và giai cấp công nhân, là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn cơ bản và nói

3


chung toàn bộ mâu thuẫn của xã hội tư bản ngày càng sâu sắc, tất yếu dẫn
đến sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản.
-

Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị
thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột cơng nhân làm thuê. Mục đích của
sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng, mà là
sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư
bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của
mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Sản xuất ra giá trị thặng
dư quả thực là động lực vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hóa với chất lượng tốt cũng chỉ
vì họ muốn thu được nhiều giá trị thặng dư. C. Mác viết: “Mục đích của sản
xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu, là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó
bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thặng dư”.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực

thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn
tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm
cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay
thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

-

Quy luật này không những vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa là sản xuất giá trị và giá trị thặng dư mà còn vạch rõ phương thức,
phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để kéo dài ngày lao động,
tăng cường độ lao động và tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất để
tăng cường bóc lột cơng nhân làm th.
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn
thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm
giảm giá trị hàng hoá. Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà
chức năng của họ suy cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả
các nhân tố của sản xuất mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị
thặng dư.
Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hố ngày càng
cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

-

Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với
mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản
cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mơ giá trị thặng dư
lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.


Như vậy, thoạt nhìn, việc mua bán sức lao động cũng giống như mua bán các
hàng hóa thơng thường khác, nhưng ẩn sau quan hệ “thuận mua vừa bán” đó là sự bóc
4


lột tinh vi của nhà tư bản đối với người cơng nhân. Do đó, “sản xuất giá trị thặng dư”
chỉ là sự bóc lột lao động khơng cơng của cơng nhân một cách tinh vi của nhà tư bản.
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa
tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là
sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột cơng nhân làm th.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư
bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư
bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm
cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội
cao hơn.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong bối cảnh
mới
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự
trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vơ sản thứ vũ khí sắc bén trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa
xã hội, học thuyết này cịn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển
nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, việc nghiên cứu, khai
thác để vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trở thành việc làm cần thiết trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
với nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, khơng thể phủ
nhận chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh hợp

pháp đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao mức sống của
người lao động. Tuy nhiên, xét một cách biện chứng thì thu nhập của chủ doanh
nghiệp tư bản tư nhân là lợi nhuận (tức giá trị thặng dư) nên vẫn tồn tại bóc lột giá trị
thặng dư. Cũng cần khẳng định chiếm đoạt giá trị thặng dư là đối lập với xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta đang xây dựng nhưng chừng nào nó vẫn cịn có tác dụng chúng ta
vẫn phải tạo điều kiện cho nó tồn tại và làm cho nó gia tăng. Và như vậy, việc vận
dụng học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là cần thiết.
Nền kinh tế thế giới hiện nay đang có xu hướng dịch chuyển từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Tại thời điểm C. Mác phát hiện ra học thuyết giá
trị thặng dư, đối tượng kinh tế tập trung hướng đến là nguyên vật liệu, tăng trưởng
kinh tế chủ yếu do nguyên liệu mang lại. Hiện nay, nền kinh tế thế giới dịch chuyển
sang phát triển kinh tế tri thức, đối tượng kinh tế tri thức, chất xám, tăng trưởng kinh tế
chủ yếu do tư bản vơ hình mang lại. Mặc dù kinh tế thế giới nói chung và kinh tế các
nước tư bản chủ nghĩa nói riêng đã có nhiều thay đổi, song sự thay đổi đó khơng làm
mất đi giá trị của học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác mà ngược lại, học thuyết giá

5


trị thặng dư càng cần được nghiên cứu sâu hơn nữa để vận dụng vào từng điều kiện
thực tiễn của đất nước và từ đó lựa chọn những bước đi phù hợp.
Giá trị học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị bởi những luận giải
sau:
Một là, bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi, tuy nhiên quy
luật sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới
Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở
hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can

thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của
giai cấp tư sản.
Hiện nay, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát
triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động
và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quy luật giá trị thặng dư ngày càng phát
huy tác dụng mạnh mẽ trong điều kiện toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, song, cơ chế
tác động của quy luật này phức tạp hơn, hình thức bóc lột giá trị thặng dư tinh vi hơn
nhiều so với trước đây. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những
đặc điểm mới sau đây:
-

Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối
lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động.
Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại có
đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì
máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn. Hơn nữa, nhà tư
bản thông qua sử dụng ồ ạt các thiết bị tự động hóa, đem khoa học - kỹ
thuật hiện đại ứng dụng với quy mô lớn vào sản xuất, đã nâng cao rất nhiều
lần năng suất lao động. Vì thế, họ th ít cơng nhân hoặc khơng th cơng
nhân điều khiển máy móc mà vẫn có thể giành được giá trị thặng dư nhiều
hơn. Sự thực đó cũng khơng thể phủ định lý luận giá trị lao động và nguyên
lý cơ bản của lý luận giá trị thặng dư, tức là giá trị và giá trị thặng dư đều do
lao động sống của người lao động sáng tạo ra, lao động sống là nguồn gốc
duy nhất của giá trị và giá trị thặng dư. Các yếu tố sản xuất khác (máy móc,
thiết bị, kỹ thuật, công nghệ,... kể cả người máy) đều không tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư.
Trong nền kinh tế cơng nghiệp trước đây đã như thế thì ngày nay, trong điều
kiện kinh tế tri thức cũng như vậy. Ai cũng biết, khoa học - kỹ thuật và thiết
bị tự động hóa, cùng yếu tố sản xuất khác đều là sản phẩm lao động và có

giá trị, đều thuộc về tư liệu sản xuất và điều kiện vật chất không thể thiếu
trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. C. Mác chưa bao giờ phủ định
6


“tác dụng quan trọng” của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất. Khi
trình bày sự hình thành giá trị và làm tăng thêm giá trị, C. Mác khẳng định
tiền đề của nó là tư liệu sản xuất (nguyên liệu và tư liệu lao động) không thể
thiếu của sản xuất giá trị thặng dư.
Dù máy móc tự động hóa đã thay thế lao động trực tiếp và một bộ phận lao
động trí óc của con người, nhưng khơng thay thế được địa vị lao động của
con người, càng không thể thay đổi địa vị chủ thể của con người trong q
trình sản xuất. Do đó, bất cứ lao động nào, dù là lao động giản đơn hay lao
động trí tuệ mà không được trả công tương xứng với giá trị mà lao động đó
sáng tạo ra (sau khi trừ các khoản chi phí cần thiết) trong tư bản chủ nghĩa
đều bị bóc lột giá trị thặng dư.
-

Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có
sự biến đổi lớn.
Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp,
lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do
đó, lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng; có vai trị
quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực
lượng lao động ngày nay mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng
lên rất nhiều.
Hàm lượng chất xám (sự đầu tư trí tuệ của cơng nhân, trí thức, kỹ thuật lập
trình, nhà khoa học phát minh, sáng chế, nhà quản trị và công nghệ hiện
đại), nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động
giản đơn, lao động cơ bắp, dẫn đến lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ

thuật cao ngày càng có vai trị quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng
dư. Thu nhập chủ yếu của nhà tư bản trong điều kiện kinh tế tri thức cũng
không phải công quản lý mà từ phần lao động thặng dư của người lao động
làm thuê, chủ yếu là lao động trí tuệ, nhà tư bản chiếm lấy. Chính nhờ sử
dụng lực lượng lao động này mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã
tăng lên rất nhiều.
Sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước quốc tế đã làm cho sự bóc lột giá trị thặng dư mang
tính hai mặt: vừa tăng cường, vừa hạn chế. Tăng cường vì có mơi trường
đầu tư thuận lợi: cung cấp tư liệu sản xuất, chỉ dẫn và định hướng quá trình
sản xuất giá trị thặng dư; điều chỉnh dòng chảy giá trị thặng dư tư bản hóa,...
Hạn chế vì sử dụng các luật lệ, chính sách để điều chỉnh khi sự bóc lột của
các cơng ty tư bản “q ngưỡng” có thể xảy ra nguy cơ xung đột về chính trị
và xã hội. Ngày nay, sự điều tiết phân phối giá trị thặng dư của các nhà tư
bản qua thuế, quỹ phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp,...
cũng tạo nên một số thu nhập nào đó cho người lao động.
Sự xuất hiện chế độ sở hữu hỗn hợp với sự hiện diện của các công ty cổ
phần, trong đó đại bộ phận là sở hữu tư nhân tư bản với một bộ phận nhỏ cổ
7


phần của người lao động đã làm giảm đi một phần nào tính gay gắt của mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất xã hội với chế độ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong lĩnh vực quản lý
và phân phối cũng có những điều chỉnh đáng kể. Giai cấp tư sản dưới danh
nghĩa bán 1% cổ phần cho người lao động, họ đã thực hiện được phương
châm “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô”, họ chia tỉ lệ 1% giá trị thặng dư cho
người lao động, nhận về 99% lao động không công do công nhân làm ra
đồng thời kèm theo đó là sự quan tâm, tinh thần thái độ lao động hết mình
của người lao động.

Mặc dù có những thay đổi đáng kể như thế, nhưng sự thay đổi biểu hiện bên
ngồi khơng tạo ra sự thay đổi về mặt bản chất của chủ nghĩa tư bản. Quan
hệ kinh tế của chủ nghĩa tư bản vẫn dựa trên cơ sở là hình thức sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Người lao động mặc dù được là cổ đông đồng sở
hữu về tư liệu sản xuất với nhà tư bản nhưng 99% cổ phần thuộc trong tay
giai cấp tư bản. Cán cân quyền lực kinh tế vẫn nghiêng về giai cấp tư sản.
Mặt khác, với tư cách là cổ đông đồng sở hữu về tư liệu sản xuất, người
công nhân lại làm việc trên tinh thần “làm cho mình” với nhiệt huyết hăng
say, năng suất và hiệu quả tăng lên. Như vậy, việc người lao động trở thành
cổ đông đồng sở hữu tư liệu sản xuất thực chất không phải do nhà tư bản tự
nguyện mà đó là một trong những biện pháp để chủ nghĩa tư bản thích nghi
với những thay đổi của nền kinh tế thế giới.
Nhà tư bản ưu ái, coi trọng và trả lương cao cho người lao động có trình độ
thực chất là họ đang đầu tư vào yếu tố tạo nên lượng giá trị thặng dư vô tận
cho mình. Sự thay đổi này thực chất là thay đổi hình thức bóc lột giá trị
thặng dư của nhà tư bản đối với người lao động. Chuyển bóc lột lao động từ
hao phí lao động chân tay sang bóc lột hàm lượng tri thức, chất xám, gia
tăng khối lượng giá trị thặng dư từ lao động của người công nhân nhưng lại
có được sự quan tâm và nhiệt huyết của họ, đồng thời xóa mờ mâu thuẫn
giữa hai giai cấp đối kháng này. Việc cho người công nhân được mua cổ
phiếu, tham dự hội nghị cổ đông, việc giảm thiểu thời gian lao động trong
tuần,... dường như là chiếc van điều áp, giảm thiểu mâu thuẫn giữa tư bản và
lao động.
-

Ba là, điểm cần lưu ý, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày
nay khơng chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động
làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà phải xem xét cả quan hệ thống
trị, bóc lột của các nước phát triển với các nước kém và đang phát triển,
thể hiện ở sự phân hóa hai cực: giàu, nghèo của thế giới. Bởi vì, sự bóc

lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã mang “tính quốc tế”.
Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng
được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi
khơng ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản phát triển bòn
8


rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp
nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày
càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các
nước tư bản phát triển đã bòn rút chất xám, hủy hoại môi sinh cũng như cội
rễ đời sống văn hóa của các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Ngày nay, trong điều kiện tồn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước quốc tế, thông qua các hình thức, như xuất khẩu tư bản, di chuyển lao
động từ nước này sang nước khác, việc bành trướng của các cơng ty xun
quốc gia, tình trạng bất bình đẳng trong các quan hệ thương mại quốc tế, sự
xuất hiện cái gọi là chủ nghĩa thực dân kinh tế, sự áp đặt chính sách giữa
Đơng và Tây, giữa các nước giàu với các nước nghèo,... khiến cho việc sản
xuất giá trị thặng dư mang tính quốc tế, được tư bản hóa, được xuất khẩu để
quốc tế hóa tư bản với sự đa dạng của các hình thức sản xuất ra nó.
-

Bốn là, những sự “điều chỉnh” để thích ứng của chủ nghĩa tư bản tuy có
tác động tới sự phát triển, song đưa lại hệ quả xấu là khoét sâu thêm
khoảng cách giữa giàu và nghèo, làm cho các nước nghèo ngày càng
nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu hơn.
Tích tụ tư bản và bóc lột cơng nhân là hai q trình thực tế khơng tách rời
nhau. Điều đó được xác nhận qua sự thành lập các tập đồn kinh tế khổng lồ
trên cơ sở tăng cường bóc lột bằng những phương thức mới, qua nạn thất
nghiệp phổ biến đang trở thành hiện tượng kinh niên. Mặt khác, điều đó

cũng xác nhận cho học thuyết của C. Mác khi nói rằng đi kèm sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản là hiện tượng tăng tư bản bất biến (dùng để mua tư liệu
sản xuất) và giảm tư bản khả biến (dùng để mua lao động). Vì thế “đội quân
hậu bị” trở thành yếu tố thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản. Sự phân
cực trong vấn đề tài sản tự nó là biểu hiện của tình trạng bất bình đẳng xã
hội ngày càng tăng ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Cực tích tụ của cải
và cực tích tụ đói nghèo là hai mặt của một đồng tiền tư bản ở từng nước và
trên phạm vi thế giới.
Hiện nay, trong phạm vi quốc gia, chủ nghĩa tư bản hiện đại cố gắng xây
dựng một hệ thống pháp luật đa dạng, phổ cập trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tạo điều kiện cho quá trình “điều chỉnh” của chủ nghĩa tư bản
tư nhân đối với các q trình kinh tế. Để điều hịa các mâu thuẫn hiện tại của
nó, chủ nghĩa tư bản tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế nhằm thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Động thái này được tiến hành trong sự
kết hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản xuất,
giảm bớt chi phí xã hội, mở rộng mơi trường cạnh tranh,... Vì thế, việc nhà
nước tư sản ở các nước công nghiệp phát triển chiếm hữu và phân phối từ
30% - 60% thu nhập quốc dân và sử dụng một phần từ siêu lợi nhuận thu
được để trả công cho người lao động dễ tạo ra trong người lao động một “ảo
giác” về tình trạng khơng bị bóc lột.
9


Những phân tích trên đây chưa thể nói lên tất cả những mâu thuẫn, xung đột
ngày càng gay gắt trong lòng xã hội tư bản hiện nay, nhưng cũng đã phác họa được
bức tranh khái quát về những hình thức biểu hiện mới của vấn đề bóc lột của tư bản
đối với lao động trên tồn thế giới. Tóm lại, ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có những
điều chỉnh nhất định, ở mức độ nào đó về chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, quản lý và
phân phối, về kiến trúc thượng tầng, nhất là về hệ thống pháp luật và sự điều tiết kinh
tế của nhà nước tư sản độc quyền,... để thích nghi ở mức độ nào đó với bối cảnh mới,

điều kiện mới, nhưng học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn còn nguyên giá trị,
bởi sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột
của chủ nghĩa tư bản vẫn hiện hữu, khơng hề thay đổi, luận điểm của C. Mác và Ph.
Ăng-ghen về chế độ người bóc lột người trong xã hội tư bản vẫn giữ nguyên giá trị
khoa học. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.
Những khái niệm và luận điểm phản ánh, đề cập những sự kiện, quan hệ kinh tế
- xã hội mới nhất bao giờ cũng hấp dẫn người ta. Nhưng chúng không bác bỏ được
thực tế là: không phải lao động quá khứ như máy móc, thiết bị kỹ thuật làm ra giá trị
mới, mà lao động sống mới làm ra giá trị mới, lao động sống mới tạo ra giá trị thặng
dư trong thời đại kinh tế công nghiệp trước đây đã như vậy, trong kinh tế tri thức hiện
đại cũng vậy. Dù những hình thức bóc lột có biến tướng, tinh vi đến mức nào chăng
nữa thì bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn là bóc lột giá trị thặng dư - tức
là bóc lột lao động sống của người lao động chứ khơng thể bóc lột lao động “chết” của
máy móc được. Do vậy, nói một cách khác, học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên
giá trị, chủ nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên bản chất bóc lột của nó. Khi nào những mâu
thuẫn trong lòng xã hội tư bản cịn tồn tại thì khi ấy, học thuyết giá trị thặng dư vẫn sẽ
mãi là ánh sáng chỉ đường cho sự nghiệp giải phóng giai cấp cơng nhân và lồi người
khỏi mọi hình thức nơ dịch, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Hai là, khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn
nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc
quản lý thành phần kinh tế tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền
kinh tế ở nước ta sao cho vừa khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh
tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Điều này cần có chính sách thúc đẩy thành phần kinh tế này để qua đó thu hút
được nhiều lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm
thỏa mãn nhu cầu xã hội. Trong thực tế, sau hơn 30 năm kể từ khi Luật đầu tư được
ban hành năm 1987, đây là văn bản pháp quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp
nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện mời gọi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi vào Việt Nam. Hơn 30 năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi
(FDI) đang trở thành một phần khơng thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp khơng nhỏ

sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Nhưng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần phải quản lý
doanh nghiệp này để nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài
10


thời gian lao động vượt quá thời gian quy định của luật lao động mà khơng có sự thống
nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người lao động
như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động.
Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta thấy rằng chúng ta thừa nhận
bóc lột này khơng thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người lao động cần
phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế, nhà nước ta đã
có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, quy
định về tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy
nhiên, yếu kém nhất hiện nay trong bảo vệ người lao động là thiếu sự kiểm soát chặt
chẽ và xử lý vi phạm nghiêm minh của các cơ quan chức năng đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi. Nhiều cuộc đình cơng, bãi cơng của cơng nhân nước ta ở
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi chiếm tỷ lệ khá cao trong các cuộc đình
cơng. Hiện nay, tuy đã giảm nhưng vẫn còn diễn ra các cuộc đình cơng mà ngun
nhân dẫn đến có liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, chế độ ngày
nghỉ, chất lượng bữa ăn ca. Nếu khắc phục được những yếu kém này, chúng ta sẽ thúc
đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta,
các thành phần kinh tế cần phải vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
mà các nhà tư bản đã vận dụng để phát triển sản xuất đặc biệt là chú trọng vận dụng
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối để năng cao năng suất lao động, thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với phân phối theo lao động và hiệu quả
kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư có ý nghĩa to lớn đối với nước

ta trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế theo hướng kinh tế tri thức.
Học thuyết giá trị thặng dư có ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử phản ánh mâu thuẫn
cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong chủ nghĩa tư bản, vạch rõ tính tất
yếu của sự ra đời một xã hội mới thay thế cho chủ nghĩa tư bản. Ở Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, học thuyết này có ý nghĩa hiện thực to lớn
cho quá trình phát triển kinh tế hướng đến nền kinh tế tri thức. Cần vận dụng học
thuyết một cách thông minh, sáng tạo nhưng đảm bảo tính khoa học phù hợp với điều
kiện thực tiễn của Việt Nam.
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác trong điều kiện phát triển
kinh tế hướng đến kinh tế tri thức của nước ta hiện nay, chỉ rõ:
-

Muốn tối ưu hóa lợi nhuận, Việt Nam cần thực hiện phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư siêu ngạch. Hiện nay, trong xu thế chung của thế giới là
chuyển dịch kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, cần nhận thức rõ
phương pháp đem lại giá trị thặng dư và lợi nhuận cao là tìm kiếm giá trị
thặng dư nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa sản xuất, hạ giá thành
sản phẩm. Muốn làm được điều đó, Việt Nam cần giải quyết tốt mối quan hệ
giữa khoa học, công nghệ và tri thức. Xác định rõ sự phát triển của khoa
11


học, cơng nghệ là điều kiện cơ bản để hình thành và phát triển kinh tế tri
thức.
-

Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học công nghệ, chú trọng công tác giáo dục,
thực hiện chính sách thu hút người lao động có trình độ cao, tránh nguy cơ
chảy máu chất xám,… Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí
tuệ phù hợp với Việt Nam hiện nay, bảo vệ lợi ích của nước mua cơng nghệ,

đồng thời khuyến khích sự sáng tạo từ trong nước.

-

Xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn so với các nước khác trong khu vực
và trên thế giới, do đó Việt Nam cần thực hiện chiến dịch “đi tắt, đón đầu”,
học tập những thành tựu khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của các nước trên thế giới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

Bốn là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản để có
cơ chế, chính sách phân phối giá trị thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
C. Mác đã khẳng định giá trị thặng dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư
vào sản xuất sinh ra, hoặc do máy móc tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng dư
của người lao động tạo ra. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, người lao động không chỉ bao gồm người công nhân trực tiếp
đứng máy, mà cịn có những người lao động khác như lao động của những người chủ
doanh nghiệp, lao động của bộ phận quản lý sản xuất kinh doanh… Nếu người chủ
doanh nghiệp cũng là người trực tiếp quản lý thì lao động của họ cũng tạo ra giá trị
thặng dư. Lao động quản lý gọi là lao động phức tạp. Như vậy, chủ doanh nghiệp được
hưởng một phần giá trị thặng dư từ hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp là hồn tồn chính đáng. Vấn đề đặt ra làm sao lượng hóa chính xác số lượng
lao động thặng dư của từng bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối giá
trị thặng dư một cách công bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều có hai hình thức phân
phối: Theo tiền lương, tiền cơng và phân phối theo phúc lợi. Vấn đề là lượng hóa một
cách chính xác số lượng, chất lượng lao động. Số lượng thì đơn giản, nhưng về chất
lượng thì khó hơn. Mặc dù, lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, nhưng
bội số là bao nhiêu thì rất khó. Vậy cần phải dựa vào hai yếu tố: Một là dựa trên sự
thỏa thuận hợp đồng của người thuê lao động và người lao động, mối quan hệ này

được điều chỉnh theo quy luật của thị trường, quy định mặt bằng chung về giá cả sức
lao động, về cạnh tranh của doanh nghiệp để thu hút lao động bằng tiền lương, tiền
thưởng. Hai là, sự điều chỉnh của Nhà nước bằng chính sách tiền lương và luật lao
động. Nhà nước quy định lương tối thiểu và điều kiện làm việc, về bảo hiểm…của
người lao động tại các doanh nghiệp.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và
lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu
của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tìm ra bản
12


chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản cổ điển và xu hướng thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước,
chúng ta cịn nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ
thống lý luận phong phú và sâu sắc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

13



×