Tải bản đầy đủ (.pdf) (418 trang)

EM PHẢI ĐẾN HAVARD ĐỂ HỌC KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 418 trang )


LƯU VỆ HOA – TRƯƠNG HÁN VŨ


EM PHẢI ĐẾN HARVARD HỌC KINH TẾ



Những người dịch: Nguyễn Phan Quế

Luyện Xuân Thiều

Luyện Xuân Thu

Dịch từ nguyên bản tiếng Hoa

“CÔ BÉ HARVARD Lưu Diệc Đình”
Do Tác gia Xuất bản xã ấn hành 2001



NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ THÔNG TIN – HÀ NỘI 2004

LỜI GIỚI THIỆU

Một giọt mực có thể làm

vạn người suy nghĩ

Một cuốn sách hay có thể thay đổi


số phận biết bao người!

Lord Byron (1878 – 1824)

LÀM MỘT VIỆC “KHÓ HƠN LÊN TRỜI”

Ngày 12 tháng 04 năm 1999, với hàng chữ lớn, tờ “Thương báo Thành Đô” đăng
bài “Em phải đến Harvard học kinh tế” làm xôn xao dư luận toàn Trung Quốc, đồng
thời qua các phương tiện thông tin đại chúng và mạng Internet, bài báo đã làm nức
lòng các bậc cha mẹ đang chăm lo con cái học hành. Tác giả bài viết: Lôi Bình thông
báo: Bốn trường Đại học Mỹ nổi tiếng đồng thời sẵn sàng tiếp nhận cô bé Thành Đô,
18 tuổi, Lưu Diệc Đình và đài thọ hoàn toàn tiền học, tiền mua sách vở, tiền ăn ở và
tiền sinh hoạt phí mỗi năm khoảng trên 30 nghìn USD. Bốn trường Đại học đó là: Đại
học Harvard danh tiếng, Đại học Columbia, Học viện Wellesley, Học viện Mount
Holyoke. Ngay học sinh Hoa Kỳ chen chân vào được cũng là một kỳ công, đòi hỏi
phải có thực lực, phải được chuẩn bị từ xa hết sức chu đáo. Còn như vào được Trường
Đại học Harvard đã được các chuyên gia soạn sách “Hướng dẫn du học” gọi là một
việc “khó hơn lên trời”.

Trong thư của Trường Đại học Harvard gửi Lưu Diệc Đình có đoạn viết: “Năm
nay có tất cả trên 18 nghìn thí sinh ghi tên, vậy mà nhà trường chỉ có thể tiếp nhận
1.650 sinh viên. Với số lượng thí sinh tài giỏi và đầy tiềm lực như vậy mà chỉ cho
phép chọn một số lượng sinh viên tương đối ít, thành thử Ban Chiêu sinh Harvard
phải cân nhắc hết sức thận trọng, cốt sao lựa chọn được những em thực sự thông
minh, tích cực hoạt động và có nhiều tiềm lực. Ban Chiêu sinh tin rằng, với khả năng
nổi trội và năng lực tổng hợp xuất chúng của mình, chắc chắn trong thời gian học ở
Đại học Harvard và sau khi tốt nghiệp, em sẽ có những cống hiến quan trọng”.

Ngày 01 tháng 08 năm 1999, Lưu Diệc Đình đã hoàn tất mọi thủ tục lên máy bay
sang Hoa Kỳ, bắt đầu một chặng đường phấn đấu mới.


CUỐN SÁCH “CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG”

Ngay sau khi bài báo “Em phải đến Harvard học kinh tế” được công bố, bà Lưu
Vệ Hoa và ông Trương Hân Vũ, ba mẹ của em Lưu Diệc Đình nhận được hàng nghìn
các cú điện thoại và hàng vạn bức thư hỏi về cách thức nuôi dạy Lưu Diệc Đình, đồng
thời đề nghị cho biết tại sao Trường Đại học Harvard lại coi trọng “khả năng nổi trội
và năng lực tổng hợp” đến như vậy. Thậm chí có một Công ty lớn ở Thẩm Quyến còn
“fax” cho họ đề nghị sau khi tốt nghiệp, Lưu Diệc Đình sẽ đến Công ty đó làm việc…

Không thể trả lời hết các câu hỏi và những bức thư, bà Lưu Vệ Hoa đã cùng chồng
là Trương Hân Vũ viết cuốn sách “Em nhất định sẽ học ở Harvard” mà bạn đang có
trong tay, kể tỉ mỉ về quá trình nuôi dạy con của mình, do Tác gia Xuất bản xã ấn
hành năm 2001, số lượng in tới 1 triệu 60 nghìn bản, chỉ trong vòng 1 năm tái bản với
32 lần.

Bà Lưu cho biết: “Năm 1980, lúc đang mang thai bé Đình, tôi được người bạn là
Hiệu trưởng Khâu tặng một cuốn sách của tác giả Kimura Kyuichi “Giáo dục từ sớm
với thiên tài”. Cuốn sách trông giản dị, không có vẻ gì hoa mỹ, thậm chí không thấy
cả tên người dịch. Có được cuốn sách ấy tôi mừng như bắt được vàng. Hằng ngày mỗi
khi đi làm về tôi đều đọc kỹ và nghiền ngẫm những điều viết trong đó tới khuya.
Cuốn sách Kimura Kyuichi viết vào năm 1916, trong đó giới thiệu tư tưởng giáo dục
cùng những kinh nghiệm nuôi dạy cụ thể thần đồng Carl Witer. Cuốn sách như đã mở
mắt cho tôi. Tôi hiểu ra rằng, với chính sách “mỗi gia đình chỉ đẻ một con”, muốn con
thành tài ắt phải dạy con bắt đầu ngay từ khi “0 tuổi”, nghĩa là từ lúc chưa có tuổi. Tôi
bàn bạc, trao đổi thống nhất với chồng tôi. Chúng tôi quyết định dạy con ngay từ lúc
đứa bé vừa cất tiếng chào đời. Và chúng tôi đã làm đúng như thế.

Có thể nói, đối với chúng tôi, đó là cuốn sách “công sức vô lượng”. Và, cho mãi
tới giờ, tôi vẫn chưa biết vị hảo tâm nào đã dịch cuốn “Giáo dục từ sớm với thiên tài”

từ tiếng Nhật ra tiếng Hán. Tôi chỉ tâm niệm một điều: Mãi mãi hàm ơn người khởi
xướng tư tưởng giáo dục từ sớm và những nhà hoạt động thực tiễn đã mở ra con
đường thành công đối với các bậc cha mẹ khát khao nuôi dạy con thành tài. Tôi cũng
thật không ngờ, chính nhờ sự truyền bá tư tưởng giáo dục được nêu trong cuốn sách
còn lại duy nhất một bản, trưng bày tại phòng các kỷ vật quý hiếm của Thư viện
Trường Đại học Harvard cuối cùng lại dẫn đứa con chúng tôi, Lưu Diệc Đình, đến với
Harvard.

TẠI SAO BẮT ĐẦU TỪ MỐC “SỐ 0”

Người ta đã chứng minh được rằng, nếu trong thời kỳ nhất định, ta cho ong thợ ăn
một loại thức ăn nhất định, thì con ong đó sẽ biến thành ong chúa. Nhưng nếu bỏ qua
giai đoạn cần thiết đó thì cho dù có nuôi con ong kia bao nhiêu lâu và cũng bằng
đúng loại thức ăn ấy chăng nữa nó cũng không sao trở thành ong chúa được. Chó
rừng ngay từ lúc nhỏ đã có khả năng bới đất giấu thức ăn còn thừa, nhưng đúng vào
thời gian ấy, nếu ta nhốt chó rừng vào căn phòng nền tráng ximăng thì chỉ một thời
gian sau đó, chó rừng mất đi khả năng bới đất giấu thức ăn.
Với đứa trẻ, sự việc xảy ra cũng hệt như vậy.

Người ta cứ tưởng là bắt đầu dạy con càng muộn càng tốt, vì nó sẽ được chuẩn bị
chu đáo hơn. Nhưng không phải thế! Có những giai đoạn hết sức quan trọng và đặc
biệt nhạy cảm đối với mỗi hình thức nuôi dạy, như thế bị bỏ qua sẽ không bao giờ bù
đắp lại được. Nếu như đứa trẻ lên ba mới bập bẹ biết nói thì tưởng như chuyện đó
chẳng có gì “nguy hiểm” cả. Rồi sau này bé sẽ nói sõi thôi. Song người ta thấy rằng
việc học nói của em sẽ lâu hơn, khó khăn hơn và cái chính là nó không có tác dụng
phát triển trí thông minh như khi biết nói đúng độ tuổi.
Carl Witer bố đã linh cảm đợc điều đó và về sau Kimura Kyuichi, Lưu Vệ Hoa tiếp
bước phát huy. Thì ra trong thế giới trẻ em phổ biến “Quy tắc tiềm năng giảm dần”.
Điểm này về sau đã được khoa sinh tâm lý học chứng thực. Ví dụ, một em bé sinh ra
có 100 phần tiềm năng, nếu như bắt đầu ngay từ 0 tuổi, ta nuôi dạy hết sức chu đáo,

thì sau này em sẽ trở thành người có 100 phần năng lực. Nếu như đến 5 tuổi mới bắt
đầu dạy dỗ thì cho dù có dạy dỗ xuất sắc đến đâu cũng chỉ đạt khoảng 80 phần năng
lực. Nhưng nếu lại để đến 10 tuổi mới bắt đầu dạy dỗ thì lúc này chỉ đạt khoảng 60
phần năng lực. Do vậy, vào đúng thời kỳ phát triển, nếu như tiềm năng của trẻ không
được khêu gợi, nuôi dạy bồi dưỡng thì dần dần cạn kiệt, mai một. Và đây chính là lý
do phải bắt đầu dạy trẻ từ mốc “số 0”.

Có điều ở đầu thế kỷ XIX, người ta không hiểu được điều đó. Người ta cho Carl
Witer con sở dĩ thành thiên tài là do “tư chất” chứ không phải do “giáo dục”…
Rõ ràng, là đối với mỗi loại tiềm năng, chúng ta không được để mất thời cơ, phải ra
sức tạo cơ hội cho chúng phát triển, chắc chắn rồi cũng như Carl Winter bố, như
Kimura Kyuichi, Lưu Vệ Hoa… Chúng ta sẽ nuôi dạy con thành những nhân tài trí
việt siêu quần!

Cuốn “Em nhất định sẽ học ở Harvard” cung cấp cho chúng ta một ví dụ sinh
động về con đường giáo dục các “thần đồng”. Cuốn sách đã tuân thủ chặt chẽ các
nguyên tắc giáo dục của Carl Winter “Đối với sự trưởng thành của con trẻ, vấn đề tối
quan trọng là ở giáo dục, chứ không phải ở tư chất. Trẻ em cuối cùng trở thành thiên
tài hay người thường, không phải di tư chất thông minh nhiều hay ít quyết định, mà
điểm mấu chốt là ở việc giáo dục trẻ từ lúc mới sinh cho tới 5 – 6 tuổi”.
Các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ hãy kịp thời nắm lấy giai đoạn phát triển tối quan
trọng này, đừng để nó trôi đi không hình không bóng!

Hãy ra sức làm cho trẻ trở thành chính nó ngay từ mốc “số 0”!

Thế Trường.

LỜI MỞ ĐẦU

BỐN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỔI TIẾNG CỦA MỸ ĐỒNG THỜI TUYỂN CHỌN

LƯU DIỆC ĐÌNH

(Tự thuật của Lưu Vệ Hoa - Mẹ của Lưu Diệc Đình)

BẢN TIN ĐẶC BIỆT GÂY CHẤN ĐỘNG TOÀN QUỐC

Ngày 12 tháng 04 năm 1999, “Thành Đô thương báo” đã đưa ra hàng tít đặc biệt trên
đầu trang nhất: “Em phải đến Harvard học kinh tế”. Phóng viên báo Lôi Bình cho biết:
Có 4 trường đại học của Mỹ (trong đó có Đại học Harvard nổi tiếng) cùng một lúc gửi
giấy báo trúng tuyển cho Lưu Diệc Đình – cô gái 18 tuổi ở Thành Đô, trong đó có
giấy cấp học bổng và sinh hoạt phí lên tới 30 ngàn đô la Mỹ mỗi năm.
Bốn trường đại học của Mỹ đó là: Đại học Harvard, Đại học Columbia, Học viện
Wellesley và Học viện Mount Holyoke. Học viện Wellesley là một học viện nổi tiếng
đã từng đào tạo các nhân vật mà không ít người không biết tới như Hillary - cựu phu
nhân Tổng thống Mỹ, Albright - cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Tống Mỹ Linh, nhà văn
Trung Quốc Băng Tâm … Còn trường Đại học Columbia và Học viện Mount Holyoke
cũng đều là những trường đại học hàng đầu thế giới, chế độ tuyển sinh hàng năm rất
khắt khe, ngay cả những học sinh Mỹ cũng khó trúng tuyển, còn việc thi đậu vào đại
học Harvard đứng đầu thế giới thì lại càng được các học sinh coi là chuyện “khó hơn
lên trời”. Thế mà Lưu Diệc Đình - người còn đang bận rộn căng thẳng cho đợt thi cử,
phút chốc được các trường đại học nổi tiếng trên đồng thời gửi giấy báo trúng tuyển và
còn giành được học bổng toàn phần! Học bổng toàn phần ám chỉ toàn bộ các chi phí
gồm: tiền học phí, tiền sách vở và các chi phí ăn ở. Những khoản tiền này đều được
nhà trường đài thọ.
Thông báo trên được tung lên mạng Internet lập tức lan truyền ra toàn quốc, gây nên
một chấn động lớn.


- Tân Hoa xã phát thông báo trên toàn cầu.


- Hơn chục phóng viên đua nhau đến phỏng vấn Lưu Diệc Đình và Trường Ngoại ngữ
Thành Đô, nơi cô đang ở.

- Báo chí địa phương đua nhau đăng các tin tức liên quan.

- Rất nhiều các thầy, cô giáo các trường trung học, tiểu học giới thiệu về kỳ tích Lưu
Diệc Đình cho các học sinh trên lớp.

- Những ông bố bà mẹ mong muốn con cái mình thành đạt thì lại càng xúc động, khát
vọng giáo dục con cái mình trở thành một Lưu Diệc Đình thứ hai.



BỐN BỨC THƯ NHANH ĐƯỢC CHUYỂN TỪ NƯỚC MỸ

Đối với Đình Nhi (Đình Nhi, Đình Đình – tên gọi thân mật của Lưu Diệc Đình), tháng
04 năm 1999 là một thời khắc không bao giờ quên. Trải qua gần bốn tháng trời miệt
mài học tập và dốc toàn sức thi vào các trường đại học Mỹ, giờ đã đến thời điểm thông
báo kết quả.

Thời gian ra thông báo ở các trường đại học Mỹ rất khác nhau, đối với những học
sinh nhập học vào mùa thu thì thời gian gửi giấy báo khoảng từ tháng 12 năm trước
đến tháng 4 năm sau. Đình Nhi chủ yếu làm hồ sơ thi vào các trường đại học và học
viên nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ. Để thống nhất tuyển sinh, tám trường đại học
vùng miền Đông nước Mỹ, đã thoả thuận về thông báo trúng tuyển nhất định vào
ngày 1 tháng 4. Vì hàng năm đều có những thí sinh đặc biệt ưu tú cùng được nhiều
trường tuyển chọn, để tạo lập sự công bằng, các trường đại học có một thoả thuận
nghiêm ngặt: đó là để cho các thí sinh cùng một lúc nhận được giấy báo trúng tuyển
của các trường.


Những trường đại học này đang là mục tiêu và khát vọng của nhiều người.
Sau khi tiếp xúc với người đại diện của Đại học Harvard, Đình Nhi đã đồng ý đến
trung tâm ôn thi để luyện tập. Chúng tôi cứ đếm từng tháng, chỉ mong giải đáp được
ba câu hỏi hóc búa:


Đình Đình liệu có trúng tuyển không?

Trúng tuyển vào những trường nào?

Có trúng tuyển vào Đại học Harvard
không?

Cửa ải cuối cùng quyết định thí sinh trúng tuyển vào trường đại học này là cuộc
bỏ phiếu tập thể của Hội đồng tuyển sinh. Thời gian bỏ phiếu tuyển sinh của Đại học
Harvard vào trung tuần tháng 3 hàng năm. Theo quy định, một phút trước khi ban
hành thông báo, không ai được biết kết quả.

Thế nhưng Trương Hán Vũ, cha dượng của Đình Nhi, lại có cách khác để suy
đoán kết quả - từ khi Đình Nhi sáu tuổi, anh ấy đã trực tiếp giáo dục Đình Nhi, chỉ
bảo dẫn dắt trong quá trình trưởng thành của cháu. Dựa vào phương pháp giáo dục gia
đình đã áp dụng nhiều năm nay ở trong nước, anh ấy hiểu rất rõ hiểu quả thực tế của
nó, vì vậy anh ấy khẳng định rằng Đình Nhi chắc chắn sẽ trúng tuyển vào các trường
đại học này. Khi tuyển sinh, các trường đại học này chẳng đã mong muốn có được
những học sinh ưu tú hay sao? Anh ấy kiên tâm tin vào sự giáo dục tố chất gia đình
mà hơn chục năm qua nhà nước đang theo đuổi. Nền giáo dục ấy đủ để Đình Nhi đạt
được tuyêu chuẩn trúng tuyển của đại đa số các trường đại học nổi tiếng trên thế giới.

Có điều, liệu có trúng tuyển vào Đại học Harvard hay không thì anh ấy không
chắc chắn lắm. Harvard chính là ngọn tháp cao nhất trong các Kim Tự Tháp.

Với câu hỏi thứ nhất, anh đã dự đoán đúng. Chiều ngày 29 tháng 3, chúng tôi nhận
được thư nhanh của Học viện Mount Holyoke, bên trong có giấy báo trúng tuyển và
giấy chứng nhận đủ tư cách nhập học gửi cho Đình Nhi, do Phó Chủ nhiệm Văn
phòng sự vụ Quốc tế của học viện này ké. Nội dung như sau:

“Em Diệc Đình thân mến! Em đã được Học
viện Mount Holyoke tuyển chọn và trở thành sinh viên mới của trường, nhập học vào
tháng 2. Chúc mừng em! Năm học này, tổng số người dự thi vào Học viện là tương
đối lớn trong lịch sử Học viện. Có hơn 2430 nữ sinh cạnh tranh nhau để được nằm
trong danh sách 500 học sinh trúng tuyển. Bản thân sự thật của việc em trúng tuyển
đã chứng minh em là một nữ sinh có tố chất cá nhân rất tốt và có năng lực học tập
cao. Tôi cùng với ngài Kerirtow Zeivis, Chủ nhiệm văn phòng và ngài Geon Picad
Phó chủ nhiệm văn phòng sự vụ Quốc tế xin chúc mừng em…”.

Đình Nhi đã có một trường đại học “bảo lãnh”. Học viện Mount Holyoke là một
trường nữ sinh nổi tiếng vùng miền Đông nước Mỹ. Nhiều năm lại đây nó luôn là một
trong những trường nữ sinh hàng đầu của 8 trường đại học miền Đông nước Mỹ.

Buổi tối, khi Đình Nhi trở về nhà, chúng tôi báo tin này cho cháu. Đình Nhi nhảy
lên vui mừng, nhưg lại chợt lặng đi. Còn “câu hỏi” quan trọng hơn vẫn chưa có lời
giải đáp.

Ngày hôm sau, chúng tôi lại nhận được thư nhanh của Học viện Wellesley, cũng
có giấy thông báo trúng tuyển và giấy chứng nhận tư cách học tập gửi cho Đình Nhi:

“Em Diệc Đình thân mến! Chúc mừng em!
Hội đồng tuyển sinh của Học viện Wellesley đã bỏ phiếu tuyển chọn em trở thành
học sinh khoá 1999 – 2003 của Học viện. Em là người luôn luôn được ca ngợi, bởi
vì với thành tựu trên nhiều mặt của mình, em đã tạo ra sự khác biệt lớn nhất so với
những người dự thi trong lịch sử của Học viện Wellesley. Từ sự nghiệp học tập và

thành tích cá nhân em, Học viện Wellesley đã coi em là một tiền lệ trong những đối
tượng cạnh tranh đua tài hoa và có nhiều năng lực. Tôi hy vọng vào mùa thu năm
nay em có thể gia nhập vào cộng đồng của Học viện Wellesley.

Chủ nhiệm tuyển sinh

Jannit Riwen Lapuly”

Wellesley là một trường nữ sinh hàng đầu của Mỹ, được đến trường này học tập
Đình Nhi cuũn đã mãn nguyện lắm rồi. Thế nhưng, Đình Nhi vẫn chưa thông báo tin
vui này cho trường biết. Cháu còn muốn đợi, bởi vì mong muốn của cháu là Đại học
Harvard. Trong những ngày đó bên tai cháu còn văng vẳng lời của một cựu sinh viên
Harvard nói với cháu rằng: “Tôi rất tin tưởng em có thể cống hiến cho Harvard và
cho Trung Quốc, tôi hy vọng em sẽ trúng tuyển vào Đại học Harvard”. Vì thế, mặc
dù đã có giấy báo trúng tuyển của hai trường khác, nhưng cháu vẫn kiên trì đợi hồi âm
từ Harvard. Thế rồi, ngày 5 tháng 4 đã đến. Theo quy định của Đại học Harvard, vào
ngày đó trường sẽ mở đường dây điện thoại, hỏi theo yêu cầu, để cho những thí sinh
nóng lòng muốn biết tin nhanh kết về kết quả thi, nhưng họ lại yêu cầu được trả lời
bằng thẻ tín dụng được chỉ định. Do chúng tôi không có thẻ tín dụng như yêu cầu nên
ngài Lasue Timooen - người phụ trách tổ chức giao lưu học sinh Trung - Mỹ đã chủ
động đề nghị giúp đỡ chúng tôi. Là một trong những người giới thiệu Đình Nhi, ông
cũng rất muốn biết được kết quả ngay.
10 giờ tối, tức là 9 giờ sáng ở miền Đông nước Mỹ, chuông điện thoại nhà tôi vang
lên, đó chính là ngài Lasue gọi đến. Sau khi nối thông điện thoại với chúng tôi, ông
chuyển tiếp kết nối với điện thoại hỏi đáp của Đại học Harvard. Khi đường dây đã
thông, Đình Nhi trực tiếp hỏi vị trực ban của Văn phòng tuyển sinh Harvard, bởi vì
Đại học Harvard chỉ trả lời yêu cầu của chính thí sinh.
“Xin hãy nói rõ họ tên và ngày tháng năm sinh”. Một giọng Anh đặc sệt khẩu âm Mỹ
vang lên. Đình Nhi đáp ứng mọi chi tiết yêu cầu. Tiếp theo mà mấy phút bồn chồn
không yên, trong ống điện thoại còn nghe rõ tiếng chạy rè rè của máy tính.


“Congratulution!” (Chúc mừng bạn!). Bạn
đã trúng tuyển vào Đại học Harvard!”. Người trực ban nhiệt tình trả lời. Ngay lập
tức, toàn bộ gia đình chúng tôi vui mừng hò reo. Chúng tôi đã đợi giờ phút này từ rất
lâu, nó là kết quả của con đường giáo dục tố chất mà chúng tôi đã chọn lựa cho Đình
Nhi từ hơn chục năm trước và luôn mong đợi được chứng minh, một phần thưởng cao
nhất cho tâm huyết của cha mẹ! Đó cũng là phần thưởng xứng đáng cho quá trình hơn
chục năm phấn đấu của Đình Nhi! Đầu dây điện thoại phía bên kia ngài Lasue cũng
rất xúc động. Ông nhiệt thành chúc mừng cho Đình Nhi, sau đó còn đòi Đình Nhi đưa
ống nghe cho cha mẹ. Ông muốn bày tỏ lời chúc mừng cho chúng tôi. Ngày 7 tháng 4,
chúng tôi đồng thời nhận được thư nhanh của Đại học Harvard và Đại học Columbia
gửi tới.


VÌ SAO ĐẠI HỌC HARVARD LẠI TUYỂN CHỌN DIỆC ĐÌNH?

Khi mở hai bức thư nhanh ra, nỗi xúc động của chúng tôi lại chuyển sang sự hiếu
kỳ. Cả gia đình chúng tôi xem đi xem lại giấy báo trúng tuyển với niềm vui khôn xiết.
“Em Lưu thân mến! Tôi rất vui mừng được thông báo cho em, Hội đồng tuyển sinh
và cấp xét học bổng của Đại học Harvard đã bỏ phiếu tán thành đưa tên em vào
danh sách học sinh khoá học 1999 – 2003. Xin hãy nhận lấy lời chúc mừng của tôi
đối với thành viên kiệt xuất của em. Năm nay, có hơn 18.000 thí sinh đăng ký thi để
tranh giành 1650 chỉ tiêu tuyển sinh của trường chúng tôi. Trước số lượng chủ tiêu
tuyển chọn tương đối ít mà lượng thí sinh đăng ký thì vào thì nhiều, Hội đồng tuyển
sinh Harvard đã phải chọn lựa hết sức kỹ lưỡng để tuyển chọn những người có năng
lực cá nhân, sự nghiệp học tập và hoạt động ngoại khoá phi phàm. Hội đồng tin
tưởng rằng, với tố chất ưu tú và năng lực tổng hợp xuất chúng của mìnhm em sẽ có
những cống hiến quan trọng trong thời gian theo học ở Harvard và sau khi tốt
nghiệp ra trường. Tôi rất hy vọng em sẽ đến Cambridge (đây là địa bàn dừng chân
của Đại học Harvard) gia nhập vào đội ngũ chúng tôi!


Chủ tịch
Hội đồng tuyển sinh và cấp xét học bổng
William R. Fitzsimans"

Hình như thấy như vậy vẫn chưa diễn đạt hết tình cảm của mình, vị chủ tịch này
còn viết thêm một dòng dưới chữ ký của mình: “Một lần nữa, hy vọng em sẽ gia
nhập vào đội ngũ của chúng tôi!”. Trong thư nhanh của Đại học Harvard còn có một
bức thư chúc mừng của nữ sĩ Maro. Vị đại diện tuyển sinh này có lẽ là người sớm vui
mừng trước việc Đình Nhi đăng ký vào Harvard. Người sắp xếp cho Đình Nhi nói
chuyện với Harvard chính là bà. Đình Nhi được Hội đồng tuyển sinh bỏ phiếu thông
qua, khiến bà hết sức vui mừng. Nữ sĩ Maro viết trong thư:
“Diệc Đình thân mến! Tôi viết thư này bày tỏ chúc mừng đối với việc trúng tuyển
của em và những thành tích mà em đã đạt được! Với tư cách là người đại diện tuyển
sinh của em, tôi cảm thấy hết sức vui mừng. Tôi rất kỳ vọng vào em sẽ quyết định
đăng ký nhập học vào tháng 9 năm nay. Tôi xin gửi lời cầu chúc chân thành nhất
cho mọi thành công trong tương lai của em”.

Trường Đại học Columbia từng được chúng tôi coi trọng nhất, suất tiền học bổng
của họ còn cao hơn cả Đại học Harvard, ngay cả kỳ nghỉ cũng không phải làm thêm
để lo cho việc ăn học của mình. Giấy báo trúng tuyển của Học viện Columbia thuộc
Đại học Columbia viết:

“Em Diệc Đình thân mến! Xin chúc mừng
em! Tôi cùng với ngài Oersden Quigeli và toàn thể thành viên của Hội đồng tuyển
sinh vui mừng được thông báo cho em biết rằng, em đã trúng tuyển vào Học viện
Columbia, là thành viên của khoá học 1999 – 2003, với trí lực thiên phú và tài năng
cá nhân, em sẽ trở thành một bộ phận giàu sức sống trong làng học thuật. Chúng
tôi tin tưởng mọi năng lực của em sẽ được phát huy, bồi đắp ở Đại học Columbia.
Do em đã trúng tuyển trong cuộc canh tranh quyết liệt nhất trong lịch sử của Đại

học Columbia, em và gia đình em có đầy đủ lý do để tự hào. Năm nay, Học viện
Columbia nhận được 13.000 đơn dự thi vào trường với chỉ tiêu tuyển sinh là 955.

Chủ nhiệm tuyển sinh hệ chính quy
Erico. J. Veda”.

Trong bức thư nhanh của Đại học Columbia còn có thông báo trợ cấp học bổng
hệ chính quy. Trường sẽ đài thọ toàn bộ tiền học phí, chi phí ăn ở, chi phí sách vở và
các phí dụng cần thiết khác trong 4 năm học dưới hình thức học bổng. Tiền trợ cấp
của năm đầu tiên khoảng 35.400 đô la. Có thể nói, từ bỏ bất cứ một trường đại học
nào cũng đều khiến chúng tôi vô cùng luyến tiếc. Thế nhưng, còn có trường đại học
nào có sức hấp dẫn hơn Đại học Harvard đứng đầu thế giới.

LƯU DIỆC ĐÌNH ĐƯỢC GIÁO DỤC NHƯ THẾ NÀO?

Đúng lúc Lưu Diệc Đình còn đang bận trưng cầu ý kiến khắp nơi nên lựa chọn
trường đại học nào, mọi người lại bàn luận việc Đại học Harvard coi trọng “Tố chất
ưu tú và năng lực tổng hợp” là ám chỉ điều gì? “Tố chất ưu tú và năng lực tổng
hợp” của Lưu Diệc Đình được bồi dưỡng như thế nào? “Thành Đô thương báo” đã
mở bốn đường dây điện thoại nóng với Lưu Diệc Đình - đến buổi chiều đã nhận được
gần một ngàn cú điện thoại, các ông bố bà mẹ khát vọng con cái mình thành đạt,
mong muốn có được “bí quyết” dạy con thành tài từ Lưu Diệc Đình và gia đình chúng
tôi.

Thư tín của các độc giả từ khắp đất nước ùn ùn gửi đến.
Có một bà mẹ trẻ hỏi: “Làm sao để giáo dục ngay từ đầu đối với đứa con năm tháng
tuổi?". Có học sinh lớn tuổi thỉnh giáo Đình Nhi làm thế nào để học tốt tiếng Anh. Có
ông bố của một học sinh nhỏ tuổi quan tâm “Làm thế nào để bổ sung những khiếm
khuyết của một đứa trẻ?”. Còn có một giáo viên quân sự đàm đạo với Đình Nhi về
kinh tế, văn hoá và nhân sinh. Một em bé chân thật hỏi: “Vì sao trong con mắt của

bố mẹ, chị Diệc Đình chỉ là một con người bình thường?”.
Còn có rất nhiều học sinh trung học muốn trở nên nổi tiếng, muốn được đi du học đã
coi Diệc Đình là tấm gương để mình học tập. Họ càng muốn biết kinh nghiệm “tận
dụng thời gian như thế nào?”, “Làm thế nào để đi du học?” …Ngay cả một số
thanh niên đang bi quan thất vọng cũng coi Lưu Diệc Đình là “động lực để phấn đấu
vươn lên”, “ngọn đèn trong đêm tối”… Một công ty lớn ở Thẩm Quyến thậm chí còn
gửi Fax mời Diệc Đình sau khi tốt nghiệp về làm việc cho công ty của họ.
Đối với những bức thư đó, Diệc Đình và chúng tôi đều rất muốn trả lời, nhưng do thời
gian gấp gáp nên không thể trả lời từng thư một. Chúng tôi chỉ có thể viết một lá thư
chung đồng thời trả lợi mọi thức của bạn đọc, bày tỏ lời cảm ơn và xin lỗi chân thành
của chúng tôi tới tất cả những người gửi thư.

Thời gian đó, Diệc Đình thực sự rất bận rộn. Ngoài việc đón tiếp những cuộc
viếng thăm liên tiếp, Đình Nhi còn phải lo các loại thủ tục, tranh thủ thời gian học
thêm Anh ngữ, đi khách sạn tập sự làm nhân viên phục vụ theo yêu cầu của cha mẹ,
học tập cách phục vụ người khác, bởi vì trong thời gian học cao trung, bố mẹ phải
thường xuyên phục vụ cháu; ngoài ra, còn phải đọc rất nhiều sách đại học ở Trung
Quốc theo kế hoạch, tận dụng mọi khả năng có thể bổ sung tinh hoa văn hoá dân tộc
… Đối với những việc khác, Đình Nhi đành phải cáo lỗi, tạ từ những cuộc phỏng vấn
của báo chí, truyền hình. Cháu đã nộp tiền đi học lái xe, nhưng do bận rộn quá nên
cũng đành gác lại. Đã nhiều tháng ròng, Đình Nhi chỉ được ngủ 4 -5 tiếng mỗi đêm,
nay cháu cũng cần phải được ngủ bù.

Ngày 1 tháng 8 năm 1999, cuối cùng Lưu Diệc Đình đã hoàn thành mọi thủ tục,
đáp máy bay đi Mỹ, bắt đầu một lịch trình phấn đấu mới trong cuộc đời mình. Trước
khi chia tay, cháu ôm chặt lấy bố mẹ: “Con đi rồi, bố mẹ hễ có thời gian là phải viết
thư cho con. Bố mẹ cũng khẩn trương viết lại quá trình nuôi dưỡng con, để giúp cho
những ông bố bà mẹ và những đứa con khát vọng có được bí quyết thành đạt”. Đó
cũng chính là tâm nguyện của chúng tôi.


CHƯƠNG 1

VẬN MAY ĐẾN TRƯỚC KHI SINH

(Tự thuật của Lưu Vệ Hoa)

THỜI GIAN MANG THAI, MẸ CỦA LƯU DIỆC ĐÌNH ĐÃ CÓ ĐƯỢC MỘT
CUỐN SÁCH HAY

Là người mẹ sinh dưỡng con, tôi hiểu hơn ai hết rằng, Lưu Diệc Đình có được
ngày hôm nay chính là quá trình của luật nhân quả. Nhưng để tất cả những nhân tố
này được phát huy tác dụng, chính là do cháu được sinh ra trong thời đại tốt đẹp chưa
từng có. Chính trong “phong trào giải phóng tư tưởng” của công cuộc “cải cách mở
cửa”, bố mẹ cháu mới được tiếp xúc với những lý luận và phương pháp giáo dục từ
sớm của Âu Mỹ và Nhật Bản và có cơ sở vững chắc để giáo dục Diệc Đình từ sơ sinh
đến các thời kỳ phát triển sau này.

Những ai từng trải qua thời kỳ đó hẳn đều biết, trong thời kỳ đầu cải cách mở cửa,
nổi lên nhiều tư tưởng và học thuyết mới. Những phần tử trí thức tiến bộ đều rất hăng
hái tìm tòi và giới thiệu những tư tưởng mới, phương pháp mới để có thể thúc đấy
cuộc cuộc hiện đại hoá đất nước. Trong các trước tác lý luận của nước ngoài, Nhà xuất
bản Nhân dân Hà Bắc đã xuất bản cuốn sách “Thiên tài và sự giáo dục từ sớm”. Cuốn
sách mỏng manh và ngay cả tên người dịch cũng không có này đã gây hứng thú vô
cùng cho hiệu trưởng Khâu, bạn của tôi trong lớp học giáo dục từ sớm của tổ chức
Thành Đô năm 1980. Chị ấy hứng thú mua luôn vài cuốn rồi đem tặng cho đám bạn
bè đàn em đang muốn sinh con, tôi may mắn cũng có được một cuốn.

Khi đó, chính sách chỉ sinh một con vừa mới bắt đầu thực hiện, tôi và cha Đình
Nhi đã trải qua một kế hoạch cẩn thận mang thai cháu. Khi có được cuốn sách này, tôi
vừa đang thực hiện kiểm tra thai định kỳ ở bệnh viện. Trước khi kết thúc kiểm tra, bác

sĩ Hồng, khoa Sản phụ xoa lên bụng tôi một lớp kem và đặt chiếc ống nghe lên, mở
máy, tiếng “tung, tung, tung …” nhanh đều vang lên, giống như tiếng còi tàu hoả chạy
từ xa. Bác sĩ Hồng cười nói:

- Đó chính là nhịp tim đập của cháu bé con
bạn đấy, mạnh mẽ lắm!

Lần đầu tiên nghe được nhịp đập của Lưu Diệc Đình. Và cũng là lần đầu tiên nghe
được lời tán thưởng của người khác đối với con mình. Tôi vừa vui mừng lại vừa đắc ý.
Mừng vì thời kỳ thai nghén nghiêm trọng suốt ba tháng chưa ảnh hưởng xấu đến quá
trình hình thành thai nhi. Mặc dù cứ và bốn giờ chiều và chín giờ tối hàng ngày tôi
đều bị nôn oẹ kịch liệt, nhưng hai bữa cơm buổi trưa và buổi tối tôi đều cố hết sức ăn,
có thể ăn được bao nhiêu là cố gắng bấy nhiêu. Bữa sáng duy nhất không bị nôn ói tôi
đều duy trì mỗi ngày hai quả trứng gà, đến hơn 10 giờ còn tăng thêm cốc sữa đậu nành
… Nói tóm lại, bản thân khi khó chịu cũng phải đáp ứng nhu cầu của thai nhi. Tôi
nghĩ, đó là cách nghĩ của tất cả những bà mẹ chỉ sinh một con. Hiện thực chỉ được
sinh một con đã khiến lời kêu gọi nuôi dạy con tốt của Chính phủ biến thành nguyện
vọng tự phát của cả thế hệ chúng tôi.

Trước khi có được cuốn sách “thiên tài và sự giáo dục từ sớm”, tôi đã được xem
qua mấy cuốn sách khoa học nuôi dưỡng trẻ nhỏ, chuẩn bị đầy đủ về ý thức làm thế
nào cho trẻ khoẻ mạnh. Nhưng làm sao nuôi dưỡng trẻ trở thành người thông minh tài
giỏi? Ngoài việc di truyền, tôi chưa tìm ra biện pháp nào khác.

Từ góc độ di truyền, hai bên cha mẹ của Diệc Đình, ông nội Đình Nhi là một cán
bộ lão thành có tinh lực dồi dào, đầu óc minh mẫn, trí nhớ rất tốt, ông ngoại Đình Nhi
là một “phái hữu” già tài hoa, ý chí kiên cờng. Theo lời ông ngoại, tên ban đầu của
ông là Đàm Tế Dân, trong tộc phả có ghi: “Tổ tiên họ Đàm là Thái sử Tư Mã Đàm đời
Hán. Sau này do Tư Mã Thiên bị cung hình, bị coi là nỗi đại nhục của gia tộc, để tránh
hoạ nhục cho gia tộc nên đã đổi thành họ Đàm.


Sự ghi chép của tộc phả tự nhiên khiến mọi người tự hào, nhưng là một truyền
thuyết khó có thể kiểm chứng, như Kporrob đã viết trong cuốn “Con ngỗng của La
Mã”: “Cứ coi tổ tiên bạn thật sự là tướng quân, nhưng bạn vẫn chỉ là con ngỗng La
Mã”.

Trên thực tế, sự di truyền tốt chỉ là tiềm chất với ý nghĩa sinh học, muốn thành
công về mặt ý nghĩa xã hội học, bất cứ ai cũng đều phải nỗ lực sau khi sinh nở.
Trong tâm trạng đó, tôi đã có cuốn sách “Thiên tài và sự giáo dục từ sớm” do hiệu
trưởng Khâu tặng, tôi vô cùng vui mừng và phấn khởi.

MỞ RỘNG TẦM NHÌN, TẠO RA “THIÊN TÀI” KHÔNG CHỈ LÀ GIẤC
MỘNG

Có được cuốn sách ấy, tôi vui mừng như vớ được vàng, hằng ngày mỗi khi rời trụ
sở tạp chí, tôi đều đọc nghiền ngẫm cho tới tận đêm khuya. Thành tựu huy hoàng của
những người đi trước trong thực hiện giáo dục từ sớm làm tôi mở rộng tầm nhìn. Tư
tưởng giáo dục và biện pháp nuôi dưỡng con cái cụ thể của họ lại càng hấp dẫn tôi.

Cuốn sách trước tiên giới thiệu quá trình nuôi dưỡng “thần đồng” Carl Witer. Khi
chưa có con, ông đã đề ra biện pháp giáo dục con cái ngay từ khi mới lọt lòng. Theo
lời ông, “việc giáo dục đối với con trẻ phải bắt đầu đồng thời với ánh bình minh trí lực
của nó”. Ông tin tưởng rằng, với những đứa trẻ bình thường, chỉ cần giáo dục đúng sẽ
có thể trở thành người phi thường.

Con của mục sư Witer sinh vào tháng 7 năm 1800, Witer con sinh ra có vẻ ngốc
nghếch hơn những đứa trẻ bình thường, xóm giềng đều cho đứa bé mắc chứng đần
đồn. Mẹ của Witer con cũng nói: “Việc nuôi dạy đứa con như vẫy sẽ chẳng có ích lợi
gì, chỉ thêm tốn tiền của sức lực”. Mục sư Witer tuy cảm thấy buồn, nhưng vẫn không
từ bỏ chủ trương của mình. Để con 17 – 18 tuổi vào đại học không bị kém cỏi so với

những đứa trẻ khác, ông quyết định vẫn tiến hành thử nghiệm giáo dục thời kỳ đầu
như kế hoạch. Không ai có thể ngờ được rằng, kết quả thể nghiệm lại gây kinh ngạc
đến như vậy.

Witer 8 – 9 tuổi đã có thể sử dụng sáu ngôn ngữ: Đức, Pháp, Italia, Anh, Latin và
Hy Lạp, thông hiểu động vật học, thực vật học, vật lý và hoá học, đặc biệt cậu bé rất
giỏi toán học. Năm Witer lên 9 tuổi cậu thi đỗ vào Đại học Leipzig; chưa đầy 14 tuổi,
do hoàn thành luận văn toán học nên được trao học vị tiến sĩ triết học, khi 16 tuổi
chàng trai trẻ lại giành được học vị tiến sĩ Pháp học của Đại học Berlin; ở 23 tuổi,
Witer trở thành nhà Pháp học ưu tú và nghiên cứu về Dante. Witer suốt cuộc đời dạy
học, tạ thế ở tuổi 83, trải qua một cuộc đời hạnh phúc, vui sướng và nổi tiếng.

Witer đã đem sự giáo dục Witer trước tuổi 14 viết lại thành cuốn sách “Giáo dục
Carl Witer”. Cuốn sách này khi đó chưa được mọi người coi trọng, chỉ còn rất ít bán
được lưu hành cho đến ngày nay. Điều thú vị là, trong thư viện Đại học Harvard còn
lưu giữ một bản. Nghe nói đó là cuốn sách hiếm duy nhất của nước Mỹ. Thư viện này
coi đó là vật quý, và nó được lưu giữ trong phòng lưu trữ vật đặc biệt quý hiếm. Phàm
là những ông bố bà mẹ may mắn được đọc cuốn sách này và làm theo phương pháp
trong cuốn sách thì đều nuôi dưỡng thành công con cái trở thành cực kỳ ưu tú giống
như con của Witer cha.

Đầu thế kỷ này, một giáo sư thần học Mỹ đã đọc cuốn sách này và áp dụng
phương pháp của Witer cha để giáo dục cho con cái mình, nuôi dưỡng con trai Bill 13
tuổi và con gái Lina 15 tuổi của mình trở thành sinh viên nhỏ tuổi của Đại học
Harvard. Ngoài ra còn có Sedce trở thành sinh viên Đại học Harvard khi 13 tuổi của
Werner, tiến sĩ Harvard khi 18 tuổi đều được giáo dục theo phương pháp này. Cha của
họ đều đọc cuốn “Giáo dục Carl Witer” và cũng đem quá trình giáo dục thời kỳ đầu
đối với con mình viết thành sách.

Kimura Kyuichi - học giả Nhật Bản đầu thế kỷ 20, đã chú ý tới thành tựu và trước

tác của họ. Để dân tộc Nhật Bản có nhiều nhân tài, năm 1916, Kimura Kyuichi đã viết
cuốn sách “Thiên tài và sự giáo dục từ sớm”, giới thiệu lý luận và phương pháp giáo
dục của Witer cha và những người đi theo ông. Học thuyết giáo dục thời kỳ đầu mà
cuốn sách này viện dẫn đã tạo nên ảnh hưởng sâu sắc đến tư chất dân tộc Nhật Bản.

Đến nay tôi vẫn chưa biết vị hảo tâm nào đã dịch cuốn sách “Thiên tài và sự giáo
dục từ sớm” ra tiếng Hán. Chỉ biết rằng cần phải cảm tạ người sáng lập và những
người đã thực hiện biện pháp giáo dục từ sớm này, mở ra con đường thành công cho
những ông bố bà mẹ mong muốn nuôi dưỡng con mình thành tài. Rất nhiều ông bố bà
mẹ nuôi dưỡng con theo phương pháp trong sách, tạo ra vô số những thanh niên ưu
tú. Tư chất ưu tú của Lưu Diệc Đình khiến nhiều trường học nổi tiếng trên thế giới coi
trọng, cũng chính là được giáo dục trên cơ sở cuốn sách này.

Khi đó, tôi cũng không ngờ được rằng, chính tư tưởng giáo dục được truyền bá
trong cuốn sách cất giữ ở thư viện Harvard cuối cùng đã đưa Lưu Diệc Đình đến với
chính Harvard.

NGHIỀN NGẪM PHƯƠNG PHÁP, LẬP CHÍ PHÁT TRIỂN TIỀM NĂNG
CỦA CON CÁI

Đọc hết cuốn “Thiên tài và sự giáo dục từ sớm”, trong tôi đã nẩy sinh một tâm
nguyện mãnh liệt - chỉ cần sinh ra một đứa trẻ trí lực bình thường, nhất định sẽ nuôi
dưỡng nó thành ngời có năng lực phi phàm! Vì thế tôi nghiền ngẫm phương pháp nuôi
dạy con của Witer cha, nghiền ngẫm tư tưởng giáo dục của ông.

Witer cha cho rằng, khả năng bẩm sinh của những đứa trẻ là khác nhau, có đứa
mạnh hơn, có đứa kém hơn. Nhưng sự khác biệt đó là có giới hạn. Giả dụ thiên tài
bẩm sinh là 100 phần năng lực thì sự bẩm sinh đần độn từ khi nhỏ chỉ khoảng dưới 10
phần, còn khả năng bẩm sinh của trẻ bình thường khoảng 50 phần. Nếu như tất cả
những đứa trẻ đều được giáo dục như nhau, vận mệnh của chúng phụ thuộc vào khả

năng bẩm sinh nhiều hay ít. Thế nhưng tất cả những đứa trẻ đều được áp dụng sự giáo
dục không có hiệu quả, cho nên chúng đã không thể phát huy được ngay cả một nửa
khả năng bẩm sinh của chúng. Ví dụ khả năng bẩm sinh là 80 phần thì chỉ có thể phát
huy được 40 phần, khả năng bẩm sinh là 60 phần thì chỉ có thể phát huy được 30
phần. Nếu cha mẹ giáo dục một cách có hiệu quả có thể phát huy khả năng bẩm sinh
lên 8 – 9 phần, giả sử khả năng bẩm sinh của đứa trẻ là 50 phần, có thể nuôi dưỡng
giáo dục nó vượt qua đứa trẻ có khả năng phẩm sinh 80 phần. Đương nhiên, nếu như
đứa trẻ có khả năng bẩm sinh cũng được áp dụng biện pháp giáo dục tương tự, thì đứa
trẻ kia sẽ không thể nào vượt qua được nó. Có điều, những đứa trẻ mới sinh ra đã có
khả năng bẩm sinh cao siêu là không nhiều. Khả năng bẩm sinh của đại đa số trẻ em ở
khoảng 50 phần - đối với những người có chí thực hiện giáo dục từ sớm thì điều đó
cũng là đủ lắm rồi.

Witer cha ý thức được rằng, muốn phát huy khả năng bẩm sinh của đứa con lên 8
– 9 phần, thì phải bắt đầu giáo dục từ sớm. Điều này đã được ngành tâm lý học sinh
vật đời sau chứng minh. Vì tiềm năng của đứa trẻ có quy luật giảm dần. Ví dụ nói một
đứa trẻ sinh ra đã có tiềm năng 100 phần năng lực, nếu như tiến hành giáo dục một
cách lý tưởng đối với nó từ khi lọt lòng, nó sẽ có thể trở thành người có năng lực. Nếu
như bắt đầu giáo dục từ 5 tuổi, giả sử có tiến hành giáo dục một cách xuất sắc thì cũng
chỉ có được 80 phần năng lực. Nếu như đến 10 tuổi mới bắt đầu giáo dục, thì năng lực
chỉ đạt khảng 60 phần.

Căn cứ vào nghiên cứu của các nhà khoa học hiện đại cho thấy, nguyên nhân của
quy luật “giảm dần tiềm năng trẻ em” là do: tiềm năng của mỗi động vật đều có thời
kỳ phát triển của mình, hơn nữa thời kỳ phát triển này là cố định, bất biến. Bất luận là
dạng tiềm năng nào, nếu không cho nó phát triển ở thời kỳ đó thì sẽ không bao giờ có
thể phát triển được nữa. Ví dụ, thời kỳ phát triển “năng lực theo mẹ” của gà con là
trong khoảng 4 ngày sau khi nở, nếu như trong 4 ngày đầu đó không cho gà con ở bên
cạnh mẹ, thì nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ đi theo mẹ nữa. Thời kỳ phát triển “năng
lực nhận biết âm thanh của mẹ” đối với gà con là trong khoảng thời gian 8 ngày sau

khi sinh. nếu trong khoảng thời gian đó không cho gà con nghe âm thanh gà mẹ thì
năng lực đó sẽ vĩnh viễn mất đi. Thời kỳ phát đạt “năng lực giấu thức ăn thừa xuống
đất” của chó con cũng có thời hạn nhất định, nếu trong khoảng thời gian đó đem cho
con đặt trong một gian phòng không thể giấu thức ăn xuống dưới đất, thì nó sẽ vĩnh
viễn không bao giờ có được năng lực này. Năng lực của con người chúng ta cũng vậy,
tiềm năng trẻ em đáng quý nếu như không có cơ hội phát triển trong thời kỳ đó cũng
sẽ bị thui chột. Nói ngược lại, nguyên nhân của việc đào tạo giáo dục thiên tài từ sớm
chính là ở chỗ đó.

Con người của thời kỳ đầu thế kỷ 19 lại không hiểu được điều đó, ngoài mấy
người thân cận, mọi người đều nói Carl Witer là “thiên tài” bẩm sinh chứ không phải
là kết quả của sự giáo dục. Tư tưởng giáo dục của Witer cha cũng không được phổ
biến ở nước Đức. Tôi nghĩ, thuyết pháp “bẩm sinh quan trọng hơn giáo dục”có lợi
hơn người lớn - vừa có thể tự an ủi mình lại vừa có thể trốn tránh trách nhiệm. Nhưng
nếu như Witer cha cũng nghĩ như thế, ông sẽ không thể nuôi dưỡng được đứa con ưu
tú như vậy.

Việc đọc sách và suy ngẫm thời kỳ mang thai đã khiến tôi nhận thức sâu sắc rằng:
ngoài việc nuôi dưỡng một cách khoa học trong cuộc sống, điều quan trọng nhất
trong nuôi dưỡng trẻ là phải tránh hiện tượng “mai một dần tiềm năng của trẻ”, đối với
mỗi dạng tiềm năng của trẻ đều phải kịp thời tạo cơ hội phát triển cho nó. Điều quan
trọng hơn là, bố mẹ phải có tinh thầnh trách nhiệm cao, kiên trì thực hiện không mệt
mỏi. May mà tôi và cha của Diệc Đình đều cùng chung một quan điểm, anh ấy cũng
muốn dùng phương pháp của Witer cha để nuôi dưỡng con gái mình trở thành người
có trí lực siêu phàm.




















CHƯƠNG HAI

×