Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Xuất khẩu giày dép của việt nam sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.04 KB, 38 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết tạo ra một hành
lang pháp lý để điều tiết mọi hoạt động thương mại giữa hai quốc gia, phát
triển hoạt động buôn bán mậu dịch song phương giữa hai nước. Doanh nhân
Hoa Kỳ sẽ tìm thấy ở Việt Nam một thị trường nhiều tiềm năng về lực lượng
lao động dồi dào và có khả năng mở rộng các loại dịch vụ như bưu chính,
viễn thông Còn doanh nhân Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội đưa hàng hoá Việt
Nam thâm nhập được sang thị trường Hoa Kỳ nhiều hơn cũng như có điều
kiện tiếp cận được với các phương tiện kỹ thuật hiện đại, cải thiện chất lượng
sản phẩm của mình.
Giày dép là mặt hàng được dự báo là sẽ có nhiều triển vọng nhất trong số
các mặt hàng sẽ xuất khẩu sang Mỹ. Các nhà xuất khẩu giày dép Việt Nam
có thể tìm thấy ở Mỹ một thị trường tiềm năng lớn về giày dép với nhu cầu đa
dạng về mẫu mã, chủng loại, chất lượng bên cạnh đó Mỹ cũng là nước nhập
khẩu giày dép lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội mở rộng thị trường thì khó khăn thách
thức đối với các doanh nghiệp giày dép Việt Nam cũng rất lớn. Đó là hàng
hoá Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng hoá của Hoa Kỳ và các
nước trên thị trường Hoa Kỳ và thậm chí ngay cả trên thị trường Việt Nam.
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam là cạnh tranh thế nào khi chất
lượng hàng hóa chưa ổn định, nghèo nàn về mẫu mã, kiểu dáng, giá lại cao do
công nghệ, khả năng quản lý và khấu hao chưa phù hợp. Lao động rẻ và dồi
dào nhưng năng suất lao động vẫn còn thấp do trình độ tay nghề còn thấp.
Mặt khác, việc chưa am hiểu luật pháp kinh doanh cũng như phong tục tập
quán của Hoa Kỳ cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam
khi đưa hàng hoá vào thị trường này.
Để tháo gỡ những khó khăn trong việc xuất khẩu giày dép sang thị
trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các cơ quan quản lý cần
đưa ra những chính sách phù hợp. Mục đích của đề tài này là muốn nêu lên
một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng giày dép của Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ.


Nội dung của đề tài được chia làm 3 phần, trong đó:
Phần I: Tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Phần II: Triển vọng xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam sang thị
trường Mỹ.
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
Phần III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam
sang thị trường Mỹ.
PHẦN I: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG MỸ
I. Những thành tựu
Trước năm 1992, ngành giày dép của Việt Nam chủ yếu thực hiện các
hợp đồng hợp tác gia công mũ giày cho Liên Xô và các nuớc Xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu. Khi khối này tan rã, ngành giày dép đã phải trải qua một
thời kỳ khó khăn do thiếu đơn đặt hàng. Tuy nhiên giai đoạn này kéo dài
không lâu.
Bắt đầu từ năm 1993, ngành giày dép đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di
chuyển sản xuất của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động từ các
nước công nghiệp phát triển và các nước công nghiệp mới (NIEs) sang các
nước đang phát triển. Ngành giày dép Việt Nam đã bắt đầu tiếp nhận sự
chuyển giao công nghệ từ các nước thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc
biệt là từ các NICs trong khu vực. Cùng với nó là sự dịch chuyển các đơn đặt
hàng từ những nước có truyền thông về sản xuất giày dép như Đài Loan và
Hàn Quốc sang Việt Nam.
Nếu lấy năm trước làm gốc để so sánh, tốc độ tăng trưởng hàng năm như
sau: năm 1994 là 106,8%, năm 1995 là 38,2%, năm 1996 là 56,2%, năm 1997
là 82,6%, năm 1998 là 3,7%. Năm 1998 so với năm 1993 kim ngạch bằng gần
850%, điều đó có nghĩa là trong giai đoạn 1993 - 1998, mỗi năm kim ngạch
xuất khẩu hàng giày dép tăng hơn 1,2 lần. Xuất khẩu giày dép đã đạt được tốc
độ tăng trưởng cao. Năm 1996 xuất khẩu đạt được 138 triệu đôi giày dép các
loại, năm 1999 xuất khẩu được 221 triệu đôi giày dép các loại. Năm 1999, do

chịu ảnh hưởng khá nặng của biến động kinh tế, tài chính trong khu vực
nhưng kim ngạch xuất khẩu đạt 1014 triệu USD, tăng 34,5% so với cùng kỳ
1998. Năm 2000, xuất khẩu 1,5 tỷ USD (tăng 12 lần so với năm 1993), 9
tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu giày dép đạt 1.130 triệu USD,tăng
6,3% so với cùng kỳ năm 2000. Dự kiến năm 2001, kim ngạch xuất khẩu tăng
2
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
6% so với năm 2000, năm 2002 sẽ là 1,8 tỷ USD. Hiện nay Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu giày dép đứng thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc.
Lần đầu tiên vào năm 1993-1994, bằng con đường phi mậu dịch, Việt
Nam đã bán được vài trăm đôi giày Biti’s , trị giá khoảng 1000 USD vào thị
trường Hoa Kỳ. Đến năm 1995 xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị
trường Mỹ đạt giá trị 3,3 triệu USD, năm 1996 tăng vọt lên 39,4 triệu USD
(tăng hơn 10 lần), đứng thứ 19 trong sè 60 nước xuất khẩu giày dép sang thị
trường Mỹ, sau đó tiếp tục tăng lên gấp 2 lần so với lượng này trong năm
1997 đạt 70,2 triệu USD, năm 1998 đạt 99,3 triệu USD và năm 1999 đạt
102,6 triệu USD. Việt Nam được xếp giữa Philippine và Hongkong, nằm
trong nhóm 10 nước xuất khẩu giày dép hàng đầu vào Mỹ cho nhiều nhóm
hàng phụ. Các sản phẩm chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Mỹ là giày dép sử
dụng trong nhà, sinh hoạt hàng ngày và tắm biển.
II. Những tồn tại và nguyên nhân
1. Những tồn tại
Tuy trong thời gian qua kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam
tăng nhanh nhưng thị trường xuất khẩu chủ yếu của ngành giày dép Việt Nam
là các nước EU, chiếm tới 75% kim ngạch xuất khẩu. Mỹ là nước nhập khẩu
giày dép với số lượng lớn nhất thế giới, nhưng đến nay, giày dép Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường này mới chỉ đạt 11,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Chủng loại Giày dép Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ không đa dạng, hiện nay
chóng ta chủ yếu xuất các loại giày dép sử dụng trong nhà, sinh hoạt hàng
ngày và tắm biển, còn đối với các loại giày cao cấp, do chóng ta chưa có đủ

khả năng cạnh tranh về giá, chất lượng, mẫu mã đối với những đối thủ có
nhiều thế mạnh như Italia, Đài Loan, Trung Quốc,
2. Nguyên nhân
Kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Sở dĩ như
vậy là do những nguyên nhân sau:
a/ Do những tồn tại trong ngành sản xuất giày dép Việt Nam trong thời
gian qua:
3
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
- Cơ sở vật chất còn cũ và lạc hậu về công nghệ, chưa có nhiều dây
chuyền công nghệ hiện đại. Phần lớn máy móc thiết bị là nhập của Đài Loan,
Hàn Quốc tuy có phù hợp với điều kiện tài chính và trình độ quản lý của Việt
Nam, song đều đã được đầu tư từ cách đây 4-5 năm, thậm chí là 10 năm. Mặc
dù sản xuất được một số loại giày dép đủ điều kiện xuất khẩu nhưng thiết kế
theo kiểu băng tải dài tốc độ chậm, tốn nguyên vật liệu, Ýt hiệu quả. Chính vì
vậy ngay cả khi khách hàng nhiệt tình đặt hàng cao cấp, lợi nhuận cao cũng
không đủ khả năng thực hiện.
- Do chưa chế tạo được khuôn mẫu, phụ tùng và chưa tự thiết kế được
kiểu dáng đáp ứng thị trường trực tiếp nên hiệu quả không cao, phần lớn sản
phẩm xuất khẩu chủ yếu của ngành Giày dép Việt Nam là gia công với mẫu
có sẵn kèm theo đơn đặt hàng nước ngoài và phụ thuộc và nguyên liệu nhập
khẩu. Vì vậy, có giá trị gia tăng thấp và kim ngạch thực của công nghiệp da
giày trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu chỉ vào khoảng 30%. Bên cạnh đó,
một lượng hàng hoá xuất khẩu sang châu Âu phải qua các đối tác trung gian
như Đài Loan, Hàn Quốc, làm cho lợi nhuận đã Ýt lại còn bị chia sẻ.
- Sức cạnh tranh của sản phẩm giày dép thấp trong khi các nước láng
giềng như Thái Lan, Indonexia, Trung Quốc, xuất khẩu giày dép lâu năm,
nhiều kinh nghiệm, có bạn hàng, thị trường ổn định đang trở nên có lợi thế
hơn. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vừa qua không những

làm giảm lượng cầu về sản phẩm giày dép mà còn làm chững lại dòng đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung. Đối với ngành Giày hầu như
không có dự án liên doanh và 100% vốn nước ngoài vào đầu tư thêm; mặt
khác các dự án được cấp giấy phép triển khai rất chậm, thậm chí một số dự án
đã phải thu hồi giấy phép. Đồng thời Việt Nam còn phải chịu sức Ðp giảm giá
sản phẩm (khoảng từ 5%- 10% so với trước) do sự mất giá tiền tệ của các
nước trong khu vực. Hơn nữa, do các nươc này có dịch vụ vận tải và tài chính
tốt hơn, làm khả năng cạnh tranh của hàng giày dép Việt Nam càng giảm.
- Do hiện nay nền kinh tế Mỹ, EU, Nhật đều giảm sút nên sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức mua hàng hoá trong đó có giày dép. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay nền kinh tế Mỹ đang bị khủng hoảng nghiêm trọng do sự kiện
khủng bố hôm 11 tháng 9, càng làm cho sức mua của dân chúng Mỹ giảm
4
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
mạnh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nói
chung và mặt hàng giày dép nói riêng của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.
- Trong những năm qua, đầu tư của các doanh nghiệp vào ngành Giày
còn mang tính tự phát nên quy mô và sự phân bố sản xuất chưa theo quy
hoạch chung, chưa đi vào những vấn đề then chốt của Ngành, việc đầu tư về
kỹ thuật vẫn mang tính chắp vá, tản mạn và manh mún. Một số công trình đầu
tư hoàn thành tồn đọng từ những năm qua của một số đơn vị chưa thực sự
được quan tâm và xử lý. Trong khi đó các doanh nghiệp lại yếu kém, thiếu
vốn và thị trường xuất khẩu, tụt hậu về công nghệ sản xuất và quản lý nên
không có sức cạnh tranh đối với đối tác nước ngoài.
- Mặt hàng giày thể thao chiếm tỷ trọng lớn vẫn không thực hiện hết đơn
hàng, đồng thời do khó khăn về tài chính, một số đối tác của doanh nghiệp
chuyển đổi sang phương thức gia công.
- Trong khâu sản xuất, thu mua do chất lượng nguyên liệu trong nước
không đảm bảo xuất khẩu, hàng năm phải nhập khẩu 6 triệu feet vuông da.
Các nhà máy thuộc da chưa đáp ứng nổi 10% nhu cầu và hiện chỉ hoạt động

được 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Tốc độ phát triển sản xuất nguyên
liệu da mấy năm qua chậm hơn tốc độ sản xuất thành phẩm giày da xuất khẩu.
Trong khi sản xuất giày đạt 61,4 triệu đôi (1993), năm 1998 đạt 212 triệu đôi,
tăng gần gấp 4 lần, thì sản xuất nguyên liệu da năm 1993 đạt 6100 feet vuông
và năm 1998 đạt 10 ngàn feet vuông, tăng chưa đến 2 lần cho nên việc nhập
khẩu nguyên liệu cho sản xuất là điều khó tránh.
- Hiện nay các doanh nghiệp đang khó khăn trong việc khai thác các mẫu
hàng mới, sử dụng nguyên, phụ liệu và nhiều chi tiết phức tạp khác vì không
có kỹ sư công nghệ da - giày giỏi.
Đến nay trong cả nước chưa có trường líp nào đào tạo kỹ sư da - giày
cung cấp cho ngành. Các kỹ sư hiện nay đang làm việc phần lớn trước đây
được lùa chọn trong số các công nhân có tay nghề cao, gửi đi đào tạo để trở
thành cán bộ kỹ thuật. Đội ngò công nhân và công nhân kỹ thuật đang làm
việc tại các doanh nghiệp trong ngành chủ yếu không được qua đào tạo chính
quy mà chỉ do các doanh nghiệp phối hợp với đối tác tự tuyển sinh mở líp đào
tạo, kèm cặp từ 2-3 tháng để đáp ứng yêu cầu sản xuất của đơn vị mình. Với
5
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
cách đào tạo này, doanh nghiệp chỉ phải đầu tư cho việc đào tạo Ýt nhưng vẫn
mang lại hiệu quả. Nhưng vô tình kiểu này đã biến công nhân chỉ biết học
kinh nghiêm nghề nghiệp của người đi trước mà tự họ không đủ khả năng để
sáng tạo.
- Ngành Da- Giày vẫn chưa xây dựng được một chiến lược của Ngành.
Chưa có sự hoạch định về đầu tư vào mặt hàng nào trong hàng trăm nguyên
phụ liệu, ai đầu tư, vốn ở đâu.
Tổng công ty da giày Việt Nam vẫn chưa chứng tỏ được là xương sống
của Ngành. Hiệp hội da- giày vẫn chưa gắn kết được các doanh nghiệp, các
thành phần lại với nhau, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
nước ngoài và ngay cả một số doanh nghiệp quốc doanh chưa thấy được sự
cần thiết, hấp dẫn tham gia hoạt động cùng Hiệp hội.

b/ Hiện nay hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chưa được
hưởng Quy chế NTR, mức thuế suất tính cho giày dép cao (35%). Vì vậy,
hàng giày dép Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ chủ yếu là của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài. Muốn được hưởng ưu đãi về thuế suất của Mỹ thì tỷ lệ
nguyên phụ liệu nội địa tối thiểu phải đạt 35%. Hiện nay giày dép có giá trị
cao của Việt Nam như giày thể thao, giày da, giày cho phụ nữ chưa đạt được
yêu cầu này.
Mặt khác tuy Mỹ là thị trường tiêu thụ giày dép rất lớn nhưng rất khó
tính, nhất là yêu cầu về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Trong khi
đó về cơ bản Việt Nam vẫn chưa tự thiết kế được kiểu dáng đáp ứng thị
trường xuất khẩu trực tiếp mà chủ yếu vẫn làm theo đơn đặt hàng, mẫu có sẵn
của khách hàng, cho nên tính chủ động của các doanh nghiệp không cao. Bên
cạnh đó lại chịu sức Ðp cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn như
Trung Quốc, Italia, Brazin, Indonexia và Thái Lan (năm 1997 tỷ trọng của các
nước này trong nhập khẩu của Mỹ lần lượt là 69%, 6,2%, 6%, 3,5% và 1,7%).
6
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
PHẦN II : TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG GIÀY DÉP CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ.
I. Nhu cầu của thị trường Mỹ đối với hàng giày dép
Là một cường quốc kinh tế với dân số gần 280 triệu người, Hoa Kỳ là
một thị trường rất lớn và đa dạng. Chính sách thương mại của Hoa Kỳ rất
rộng mở, trừ một số Ýt mặt hàng có hạn ngạch còn lại thì mọi công ty của
Hoa Kỳ đều có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng.
Thị trường xuất nhập khẩu của Mỹ có dung lượng lớn, phong phú và đa
dạng. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Mỹ gồm máy móc, thiết bị (32%); các mặt
hàng công nghệ (25%); thiết bị vận tải các loại (16%); hoá chất (19%); nông
sản (9%); hàng hoá khác (7%). Cơ cấu hàng nhập khẩu, các mặt hàng tiêu
dùng có vị trí quan trọng, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Với sức mua lớn và đa dạng về chủng loại hàng hoá, Mỹ là một thị

trường lý tưởng cho tất cả các nước trên thế giới: từ các nước phát triển đến
các nước đang phát triển như Ên độ, Trung Quốc và các nước nghèo như
Campuchia, Bangladesh đều có thể xuất khẩu được hàng vào Mỹ.
Về chất lượng hàng hoá xuất khẩu vào Mỹ cũng rất linh hoạt. Ở Mỹ có
hệ thống cửa hàng cho những người nghèo (trong đó phần lớn hàng hoá của
Trung Quốc và các nước châu Á, châu Mỹ Latinh). Tuy nhiên, hàng hoá chất
lượng cao của các nước này cũng có thể bày bán ở các cửa hàng đắt tiền và
trung bình. Đây cũng là một thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam sau
khi hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực và được hưởng quy
chế NTR của Mỹ.
7
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
Mỹ là thị trường tiêu thụ giày dép lớn thứ hai trên thế giới, sau Trung
Quốc (bình quân 6 đôi/người/năm), là một thị trường có nhiều triển vọng và
hấp dẫn với các nhà xuất khẩu giày dép trên thế giới.
Loại sản phẩm giày dép tiêu thụ ở thị trường Mỹ rất đa dạng và phong
phú. Đặc biệt, nhu cầu về tiêu dùng giày dép nữ khá cao, chiếm 50,9% nhu
cầu về tiêu dùng giày dép trên toàn nước Mỹ năm 1997.
Mỹ là nước nhập khẩu giày dép lớn nhất thế giới cả về số lượng và giá
trị. Hàng năm nhập khẩu khoảng 1,4 tỷ đôi giày dép các loại, giá trị khoảng
14-15 tỷ USD. Năm 1998, số lượng giày dép nhập khẩu của Mỹ chiếm
khoảng 85% số lượng giày được tiêu thụ ở Mỹ. Xu thế này sẽ tiếp tục tăng lên
trong các năm tới bởi các nhà sản xuất giày của Mỹ đang tiếp tục chuyển sản
xuất của họ ra nước ngoài trong nỗ lực hạ giá thành sản phẩm và tận dụng lợi
thế so sánh của các nước này nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm
giày dép trên thị trường nội địa.
Theo nghiên cứu của Tạp chí Dịch vụ Thông tin Thương mại thế giới
năm 1996 thì có gần 600 công ty thường xuyên nhập khẩu giày dép vào thị
trường Mỹ, trong đó có khoảng 30-35 các công ty lớn mua giày theo phương
thức thường xuyên đưa ra các đơn đặt hàng cho các nhà sản xuất với các yêu

cầu cụ thể về mẫu mã, chủng loại và chất lượng sản phẩm. Phương thức mua
bán này chiếm tới 42% tổng số lượng giày dép nhập khẩu hàng năm vào thị
trường Mỹ với trị giá khoảng 5,35 tỷ USD.
Năm nước có thị phần lớn trên thị trường giày dép Mỹ là Trung Quốc,
Italia, Brazin, Indonexia và Thái Lan, năm 1997 tỷ trọng của các nước này
trong nhập khẩu của Mỹ lần lượt là 69%, 6,2%, 6%, 3,5% và 1,7%.
Đối với việc nhập khẩu giày dép, Mỹ cũng áp dụng chính sách như các
mặt hàng khác. Nếu được hưởng Quy chế NTR thì mức thuế suất là 6% và áp
dụng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập đối với các nước đang phát triển. Nếu
các nước không ở trong diện nêu trên, mặt hàng giày dép sẽ bị mức thuế suất
từ 27-33% tuỳ theo từng loại. Hiện nay hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ vẫn chưa được hưởng Quy chế NTR, nên mức thuế suất tính cho
giày dép cao (35%).
I. Triển vọng xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam sang thị trường Mỹ
8
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
Hoa kỳ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn đồng thời cũng là một nguồn
cung cấp những công nghệ thiết bị hiện đại và hàng tiêu dùng cao cấp trên thế
giới, trong khi đó Việt Nam lại có khá nhiều mặt hàng hấp dẫn đối với thị
trường này và cũng có nhu cầu khá lớn về các sản phẩm của Mỹ.
Việt Nam đang cần ở Mỹ một thị trường tiềm năng về vốn, công nghệ,
tri thức kinh doanh và quản lý. Ngược lại, Mỹ cũng tìm thấy ở Việt Nam một
thị trường tiêu dùng và từ đó Mỹ có thể khuyếch trương ảnh hưởng của mình
ra khu vực Châu á- Thái Bình Dương. Khi hiệp định Thương mại Việt Nam-
Hoa Kỳ có hiệu lực, Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có ưu
thế lớn như dệt may, giày dép, hải sản, cafe, gia vị, Trong đó tiềm năng
xuất khẩu giày dép Việt Nam vào Mỹ là rất lớn. Để thấy rõ triển vọng xuất
khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, chúng ta sẽ phân tích theo khả năng
xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam hiện tại vào các thị trường Châu âu, Nhật,
Mỹ và khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong thời gian qua của ngành

hàng này, để từ đó có thể dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép Việt
Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian 2000-2010.
1. Phân tích theo khả năng xuất khẩu của hàng giày dép Việt Nam
hiện nay với các thị trường Châu âu, Nhật, Mỹ
Mặt hàng giày dép đã có một mức tăng trưởng đột biến khi thâm nhập
thị trường Hoa Kỳ, từ mức gần 1 triệu USD năm 1995 lên 97 triệu USD năm
1997 và 99 triệu năm 1998. Đó là do sự khác biệt không lớn giữa mức thuế
mặt hàng này giữa các nước được hưởng NTR và không được hưởng. Đối với
phần lớn giày dép mức thuế nhập khẩu là 35%, trong khi đó mức thuế ưu đãi
NTR chỉ ở mức 20%. Mức chênh lệch nhỏ bé này đã giúp Việt Nam có thể
cạnh tranh ngang ngửa với các quốc gia được hưởng NTR. Việt Nam được
xếp giữa Philipines và Hongkong, nằm trong nhóm 10 nước xuất khẩu hàng
đầu vào Mỹ cho nhiều nhóm hàng phụ. Bên cạnh những khác biệt không lớn
lắm về mức thuế suất, nguyên nhân nữa cho sự thành công của Việt Nam là
chi phí nhân công thấp, chính điều này đã tạo nên lợi thế cạnh tranh cho Việt
Nam vì mặt hàng giày dép đòi hỏi một số lượng lớn nhân công. Bảng dưới
đây cho thấy số liệu so sánh mức xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ, Đức, Anh,
Nhật.
9
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
Bảng 1: Nhập khẩu từ Việt Nam năm 1997, 1998 đối với mặt hàng giày dép.
Đơn vị: 1000 USD
Mặt hàng Mỹ Đức và Anh Nhật
Hàng giày da 1997 1998 1997 1998 1997 1998
97.644 99.313 448.969 253.423 78.903 27.377
Biểu trên cho thấy tiềm năng to lớn của ngành da giày Việt Nam trong
việc trở thành một bạn hàng lớn của Mỹ. Năm 1997, nhập khẩu da giày từ
Việt Nam vào Đức và Anh đạt mức 450 triệu USD, gấp 4 lần mức xuất khẩu
sang thị trường Mỹ và còn cao hơn tổng giá trị các mặt hàng Việt Nam xuất
khẩu sang Mỹ là 62 triệu USD cùng năm. Năm 1998, giá trị xuất khẩu hàng

da giày vào các thị trường trên là 10 triệu USD ở Đức, 113 triệu USD ở Anh,
gấp 2,6 lần mức xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong cùng kỳ. Dù có hoặc
không được hưởng Quy chế NTR, tiềm năng xuất khẩu da giày Việt Nam vào
Mỹ là rất lớn. Nike và Reebok đã và đang thành công trong việc sản xuất giày
thể thao tại Việt Nam và nơi đây sẽ còn tiếp tục cuốn hót các nhà sản xuất
giày da hàng đầu khác trên thế giới.
Những số liệu xuất khẩu hàng hoá trong thời gian qua từ Việt Nam sang
Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản là những nhân tố quan trọng chứng tỏ một sức bật
mạnh mẽ trong quan hệ thương mại song phương Việt - Mỹ sau khi Việt Nam
được hưởng Quy chế NTR. Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là bao lâu nữa xuất
khẩu từ Việt Nam sang Mỹ mới đạt được mức như mức giao dịch hiện nay
giữa Việt Nam với Châu Âu và Nhật.
2. Phân tích và dự báo khả năng xuất khẩu hàng giày dép Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ.
a/Phân tích khả năng xuất khẩu:
Năm 1995, xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt giá
trị 3,3 triệu USD, năm 1996 tăng vọt lên 39,4 triệu USD( tăng hơn 10 lần),
đứng thứ 19 trong sè 60 nước xuất khẩu giày dép sang thị trường Mỹ, sau đó
10
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
tiếp tục tăng lên gấp 2 lần so với lượng này trong năm 1997 (đạt 70,2 triệu
USD), năm 1998 đạt 99,3 triệu USD và 102,6 triệu USD năm 1999.
Mặc dù chưa được hưởng những ưu đãi về mậu dịch, hơn nữa thị trường
Mỹ tuy sức mua lớn nhưng rất khó tính, một số doanh nghiệp Việt Nam vẫn
cố gắng để có thể tìm được chỗ đứng trong thị trường này. Lần đầu tiên vào
năm 1994, bằng con đường phi mậu dịch, Việt Nam đã bán được và trăm đôi
giày Biti’s, trị giá khoảng 1000 USD. Bước sang năm 1996, Biti’s đã xuất
được sang thị trường này 46.200 đôi, trị giá 103.000 USD. Cho đến nay mặc
dù chưa được hưởng Quy chế NTR nhưng Việt Nam đã chiếm vị trí thứ 12
trong số các nước xuất khẩu giày dép nhiều nhất sang thị trường Hoa Kỳ.

Giá bình quân cho toàn bộ giày dép nhập khẩu vào Mỹ năm 1995 và năm
1996 lần lượt là 8,23 USD/ đôi và 8,71 USD/ đôi, trong đó loại không có cao
su khoảng (9,22- 9,24) USD/ đôi; loại có cao su khoảng (4,96 - 4,98)USD/
đôi. Nhận thấy chưa đủ khả năng cạnh tranh đối với các đối thủ có nhiều thế
mạnh trong sản xuất các loại giày cao cấp, Biti’s đã chủ động tìm kiếm những
phân đoạn thị trường còn chưa được đáp ứng của khách tiêu thụ Mỹ. Vì vậy
các sản phẩm chủ yếu mà Biti’s xuất sang Mỹ là giày dép sử dụng trong nhà
sinh hoạt hàng ngày và tắm biển.
Buôn bán mặt hàng này với Mỹ, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý
một số điểm trong chính sách thương mại của Mỹ cùng với những quy định
về chế độ thuế quan, hạn ngạch để tránh những đối xử bất bình đằng trong
quan hệ với nước này, đồng thời tận dụng những lợi thế mà Việt Nam có để
định ra chiến lược và những bước đi cụ thể nhằm tăng cường xuất khẩu vào
thị trường này trong những năm tới, đó là:
- Hiện nay hàng giày dép Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chưa được
hưởng Quy chế NTR, mức thuế suất nhập khẩu cho giày dép cao (35%). Vì
vậy, hàng giày dép Việt Nam nhập vào Mỹ chủ yếu là của khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài.
- Sự chênh lệch về mức thuế nhập khẩu giày dép được hưởng NTR và
không được hưởng NTR không khác biệt nhau nhiều. Vì vậy, giày dép Việt
Nam có khả năng phát triển trên thị trường Mỹ. Thuế nhập khẩu cho hầu hết
11
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
sản phẩm giày dép vào Mỹ là trên dưới 30 %, trong khi mức thuế được hưởng
NTR là 19,4%.
- Việt Nam có ưu thế về giá sản phẩm rẻ hơn so với các nước khác trong
khu vực như Thái Lan, Indonexia, Malaysia
- Các quốc gia có điều kiện kinh tế tương tự Việt Nam cũng đã có kinh
nghiệm thành công trong việc thiết lập những cơ sở xuất khẩu ở Mỹ. Vì vậy,
Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của người đi sau, học hỏi và tiếp thu kinh

nghiệm của các nước đi trước khác.
Một đặc điểm quan trọng của ngành này là tính tập trung hoá vào một số
đại công ty cao hơn so với ngành dệt may, nhất là đối với thị trường cao cấp
như EU, Nhật, Hoa Kỳ. Việt Nam hiện nay chủ yếu là gia công cho một số
nhãn hiệu nổi tiếng của Hoa Kỳ như Nike, Reebok và một số nước khác.
b/Triển vọng ngắn hạn và dài hạn
Trên cơ sở hàng hoá Việt Nam sẽ được hưởng Quy chế NTR sau khi
hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực và quan hệ giữa hai nước sẽ
được tăng cường hơn sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được đối
xử ngang bằng với các nước trong WTO. Theo dự báo của Thương vụ Việt
Nam tại Hoa Kỳ, trong thập kỷ tới (2000-2010). Giày dép là mặt hàng có giá
trị xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh nhất. Được thể hiện qua các
số liệu ở bảng(2) dưới đây.
Biểu số liệu cho thấy tiềm năng xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ là rất lớn. Dự báo đến năm 2005 Việt Nam sẽ xuất
khẩu 1000 triệu USD. Tăng xuất khẩu năm 2005 so với năm 2000 là 435% và
năm 2001 so với năm 2010 là 150%. Thị phần Việt Nam tại Hoa Kỳ vào năm
2010 sẽ là 8,33%.
Mặt hàng giày dép muốn được hưởng ưu đãi về thuế suất của Mỹ thì tỷ
lệ nguyên, phụ liệu nội địa tối thiểu phải đạt 35%. Hiện nay giày dép có giá trị
cao của Việt Nam như giày thể thao, giày da, giày cho phụ nữ chưa đạt yêu
cầu này.
Để tăng cường xuất khẩu, ngành giày dép Việt Nam phải lưu ý một số
điểm sau:
12
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
- Việc các công ty Việt Nam có thể bán FOB cho các công ty nước ngoài
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khả năng sản xuất các loại nguyên phụ liệu
cho ngành, khả năng thiết kế mẫu mã, khả năng tiếp thị phân phối tại nước
ngoài.

- Ngành giày dép phải tích cực tìm thị trường bán hàng thành phẩm FOB
và đặc biệt lưu ý loại hàng có chất lượng bình dân, giá rẻ thì có nhiều khả
năng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ
Bảng 2: Sè liệu dự báo xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường Mỹ
Đơn vị: Triệu
USD
Mặt
hàng
Nhập khẩu Việt Nam vào
Mỹ
Nhập khẩu của
Mỹ từ các nước
Tăng xuất
khẩu vào Mỹ
Thị
phần
Việt
Nam tại
Mỹ(%)
Tăng
nhập
khẩu Mỹ
từ các
nước (%)
Giày
dép
1998 2000 2005 2010 1998 2010
2005/
2000
2010/

2005
2010
20/10/
1998
115 230 1000 1500 13.879 18.000 435 150 8.33 130
PHẦN III. MÉT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
GIÀY DÉP VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ.
I. Nhóm biện pháp đối với Chính phủ và Bộ, Ngành liên quan
1. Đàm phán để nhanh chóng dành được Quy chế NTR của Hoa Kỳ
a/ Nhanh chóng đưa Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ vào thực thi
Hiện nay, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ vẫn chưa có hiệu lực, vì vậy
Việt Nam chưa được hưởng Quy chế NTR của Mỹ, dẫn đến hàng hoá Việt
Nam phải chịu thuế suất cao hơn hàng hoá của các nước khác, làm giảm khả
nămg cạnh tranh trên thị trường này. Điều này có thể làm chậm lại tiến trình
phát triển kinh tế trong nước và có khả năng gây tổn thất lên tới 3 tỷ USD do
mất cơ hội phát triển.
Với hiệp định này, Việt Nam sẽ có điều kiện để khai thác một thị trường
tiềm năng về sức mua, vốn, công nghệ, tri thức kinh doanh và quản lý. Mỹ sẽ
tìm thấy nhiều lợi Ých to lớn của mình ở Việt Nam về thị trường tiêu dùng,
13
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
thị trường dịch chuyển cơ cấu kinh tế và trên hết đó là thị trường để từ đó, Mỹ
có thể mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Á và châu Á- Thái Bình
Dương.
Hiệp định này được ký kết còn là cơ sở để Việt Nam có đầy đủ điều kiện
tham gia vào WTO và được hưởng MFN của các nước khác trong tổ chức
thương mại quốc tế này. Để giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có điều
kiện tăng cường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ thì
Chính phủ Việt Nam cần phải nhanh chóng đưa Hiệp định thương mại và thực
thi.

b/ Đẩy mạnh lé trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO
Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì đương nhiên sẽ được
hưởng chế độ MFN của các nước thành viên WTO và kim ngạch buôn bán
Việt Nam với Mỹ nói riêng cũng như quốc tế nói chung sẽ tăng lên nhanh
chóng. Nhờ đó, Việt Nam tăng cường được vai trò kinh tế và chính trị của
mình trên thế giới.
Nếu tham gia được vào hệ thống thương mại quốc tế rộng lớn, chúng ta
có cơ hội tăng trưởng nhanh bằng việc phát huy “nội lực” về lao động, tài
nguyên thiên nhiên, cũng như lợi dụng được thành tựu khoa học công nghệ,
vốn của các nước phát triển để nâng cao hiệu quả kinh tế, rút ngắn khoảng
cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, cùng với cơ hội thì việc gia nhập WTO cũng tạo ra nhiều
thách thức với doanh nghiệp Việt Nam. Đó là do khi gia nhập tổ chức nay, ta
phải chấp nhận một “sân chơi” bình đẳng, không được sử dụng bất cứ một
hàng rào thuế quan cũng như hàng rào phi thuế quan nào để bảo hộ sản xuất
trong nước. Vậy để đứng vững trong “sân chơi” này, các doanh nghiệp Việt
Nam phải áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm ngang tầm với quy định của các nước tiên tiến, hạ giá thành sản
phẩm
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng: là một quốc gia sáng lập và có ảnh
hưởng quan trọng tới tổ chức, Mỹ có thể phủ quyết bất kỳ một quốc gia nào
có ý định gia nhập nếu như họ không thích. Chính vì vậy, việc ký kết Hiệp
14
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
định thương mại song phương với Hoa Kỳ có ý nghĩa vô cùng quan trọng với
Việt Nam trong tiến trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
2. Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu
a/ Nguyên tắc sản xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số
một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho hàng xuất khẩu
Đây là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng bởi tuy xuất khẩu đã được

đưa lên vị trí ưu tiên và được coi là động lực chính thúc đẩy sự phát triển
toàn bộ nền kinh tế nhưng trên thực tế việc đầu tư chủ yếu vẫn đang tập trung
vào sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Để xuất khẩu có được nguồn đầu tư
cần thiết trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ có hạn, cầm nhanh chóng khắc phục
tình trạng này theo các hướng sau:
- Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi giành cho sản xuất
hàng xuất khẩu đã được đề cập đến trong Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước sửa đổi (năm 1998).
- Xoá bá ngay các thủ tục xét duyệt phiền hà đối với đầu tư đặc biệt là
việc phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị;
- Rà soát lại danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư, những ngành
sản xuất thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất đã tương đối đủ đáp ứng
nhu cầu trong nước cần được xem xét để đưa ra khái danh mục này, tránh
khuyến khích tăng thêm đầu tư mới, kể cả đầu tư nước ngoài.
- Công bố kế hoạch 5 năm nhằm giảm thiểu hàng rào phi thuế quan và lé
trình giảm thuế theo Hiệp định CEPT/AFTA với các bước đi rõ ràng và cụ thể
cho từng năm càng sớm càng tốt.
b/ Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dùa trên định
hướng xây dựng ngành hàng chủ lực và chuyển đổi cơ cấu hàng xuất theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng đã qua chế biến
Đối với Ngành Da- Giày Chính phủ cần coi trọng đầu tư ngành hàng
hướng về xuất khẩu, phát triển nguyên phụ liệu, phụ tùng, giảm nhập khẩu
nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, và quan trọng hơn là để
đạt được tỷ lệ nguyên phụ liệu nội địa tối thiểu là 35% trong các sản phẩm da
giày thì mới được hưởng ưu đãi về thuế suất của Mỹ. Cần ưu tiên đầu tư vào
15
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
các loại giày, đồ da có khả năng chế biến sâu, có hàm lượng kỹ thuật cao sử
dụng nguyên liệu nội địa để tận dụng tối đa lợi thế về nguồn lực lao động, tài
nguyên của đất nước.

3. Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất
nhập khẩu:
Việc đa dạng hoá chủ thể hoạt động xuất nhập khẩu đã được giải quyết
khá triệt để tại Nghị định số 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính phủ. Tuy
nhiên, để phát huy toàn diện tác dụng của Nghị định này trong thực tiễn thì
việc đảm bảo môi trường bình đẳng cho tất cả các chủ thể tham gia kinh
doanh xuất nhập khẩu là điều cần thiết.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể đóng góp được nhiều
hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu nếu sự tham gia của họ vào hoạt động kinh
tế được bình đẳng với thành phần kinh tế quốc doanh. Trước hết là bình đẳng
hoàn toàn trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào (vốn tín dụng, đất đai, lao
động) sau đó là sự bình đẳng trong việc nhận hỗ trợ kinh doanh từ phía Nhà
nước. Ví dụ: để vay được vốn tín dụng, doanh nghiệp tư nhân thường phải
chịu lãi suất cao hơn đối với vốn vay tín dụng thương mại. Các doanh nghiệp
tư nhân cũng còn gặp nhiều khó khăn trong việc dùng đất và tài sản cố định
làm thế chấp vay vốn ngân hàng.
Thực tiễn cho thấy nếu không kịp thời thay đổi cách đối xử đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh thì hiệu lực của Nghị định 57/CP sẽ bị giảm
một cách đáng kể.
Nhà nước cần có một kế hoạch chi tiết trong lĩnh vực này theo các
hướng sau:
- Thừa nhân vai trò tích cực của kinh tế ngoài quốc doanh trong lĩnh vực
xuất khẩu. Kinh tế Nhà nước có thể rút dần khỏi những ngành công nghiệp sử
dụng nhiều lao động (như dệt may, giày dép) theo hướng đẩy mạnh cổ phần
hoá đi đôi với tăng nhanh tỷ trọng của cổ phần ngoài quốc doanh trong các xí
nghiệp đã được cổ phần hoá.
- Đơn giản hoá đến mức tối đa thủ tục thành lập doanh nghiệp để
khuyến khích các cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.
16
Đề án môn học : Thương mại quốc tế

- Rà soát các quy định về đất đai, thuế khoá, tín dụng, hỗ trợ để đảm
bảo sự bình đẳng tối đa có thể được giữa các thành phần kinh tế.
- Tăng cường nhân lực cho hệ thống ngân hàng trong việc nhận định rủi
ro để giảm dần hình thức cho vay bảo đảm bằng thế chấp sang cho vay trên cơ
sở thẩm định tính khả thi của dự án.
4. Tiếp tục thu hót vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để đa dạng hoá
nguồn vốn cũng như tăng cường nguồn vốn đầu tư cho khu vực sản xuất
hàng xuất khẩu:
Môi trường đầu tư chưa thực sự thông thoáng, hấp dẫn đã gây trở ngại
cho nhiều công ty nước ngoài nói chung và các công ty Mỹ nói riêng đầu tư
vào Việt Nam. Đặc biệt, các công ty Mỹ có rất nhiều khả năng đến làm ăn tại
Việt Nam mà các đối tác ở nước khác không có.
Mặc dù trong những năm qua, đặc biệt là trong năm 1999, Chính phủ
Việt Nam đã đề ra nhiều giải pháp cụ thể nhằm cải thiện môi trường đầu tư
như xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, nâng cao hiệu lực của quản
lý Nhà nước nhưng môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn chưa
thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó nổi lên là hệ
thống luật pháp chính sách vẫn thiếu tính đồng bộ và ổn định, chưa đảm bảo
tính rõ ràng: các thủ tục đầu tư kinh doanh quá rườm rà, phiền hà, phức tạp;
công tác quản lý đầu tư nước ngoài còn yếu, vừa buông lỏng lại vừa can thiệp
sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp
Việc đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam là không đáng kể so với số
vốn mà Mỹ đã đầu tư ra nước ngoài sẽ làm:
- Hạn chế số lượng các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này vì các
nhà đầu tư Mỹ là những người hiểu biết thị trường của nước họ rất kỹ và nắm
bắt được những nhu cầu tiêu dùng. Trên cơ sở đó sẽ chọn được mặt hàng sản
xuất phù hợp để xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư Hoa Kỳ còn hiểu biết
những thị trường mà họ đã và đang tham gia ở những quốc gia khác, vì vậy
họ có thể tham gia cạnh tranh trong những thị trường này và sẽ làm tăng
lượng hàng hoá trao đổi của Việt Nam với quốc tế.

17
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
- Làm giảm việc tiếp cận những dây truyền công nghệ hiện đại cũng như
mua nguyên vật liệu cần thiết từ bên ngoài vì vậy nó cũng sẽ làm giảm lượng
nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam.
- Làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế do không được vận
dụng những công nghệ sản xuất hiện đại, trình độ quản lý của Mỹ sẽ làm
giảm tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị ttrường quốc tế tức là
gián tiếp hạn chế xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam cần có chiến lược thu hót vốn nước
ngoài toàn diện hơn như vay từ các ngân hàng thương mại, phát hành chứng
khoán ra quốc tế hoặc các hình thức cung cấp tài chính khác
Ngoài ra, cần tích cực gọi vốn đầu tư từ các nguồn vốn như vốn tự có
của các doanh nghiệp, vốn tự vay và tự trả tín dụng đầu tư Nhà nước, vốn đầu
tư từ dân cư thông qua cổ phần hoá và mua cổ phiếu. Mặt khác cũng cần xác
định quy mô và mức độ đầu tư sao cho vừa sức với từng doanh nghiệp. Cần
phải ưu tiên cho các sản phẩm trên các thị trường truyền thống và tiềm năng
ở Tây âu, Bắc Mỹ và Đông Á.
5.Tăng cường hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích
các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các Quỹ phòng ngõa rủi ro
Vừa qua, Chính phủ có cho phép hình thành một quỹ tại Bộ Tài chính có
tên gọi là Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu nhưng phương thức hoạt động của Quỹ này
lại thiên về trợ cấp, hoàn toàn không phù hợp với Điều 10 của Luật Khuyến
khích Đầu tư trong nước sửa đổi.
Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu được lập ra phải có nhiệm vụ trợ giúp các doanh
nghiệp có tiềm năng phát triển xuất khẩu nhưng không có điều kiện tiếp cận
nguồn vốn của ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu
sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay, cung cấp các khoản tín dụng để doanh
nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu phải
hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng

khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng.
18
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
Ngoài Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu Nhà nước nên khuyến khích các Hiệp hội
ngành hàng tự thành lập các Quỹ Phòng ngõa rủi ro riêng cho ngành mình,
nhất là trong những ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn.
6. Các vấn đề công nghệ
a/ Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi đầu tư thấp, thu hồi vốn
nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp
Hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế- xã
hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lùa chọn, việc đòi hỏi phải nhập khâu thiết bị
tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả và khả năng
quản lý, vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị thực chất là một sự lãng phí
không kém gì nhập khẩu thiết bị lạc hậu.
Đối với Ngành giày da cần ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực phát triển công
nghệ, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý kỹ thuật, quản lý mẫu mốt, đào
tạo tay nghề, nghiệp vụ quản lý ngành nghề từ đó nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm da giày Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
b/ Nhà nước đầu tư thành lập Ngân hàng dữ liệu Công nghệ để cung
cấp thông tin cho các doanh nghiệp.
Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành
lập Ngân hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập
nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã được làm
nhưng quy mô còn nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất Ýt doanh nghiệp biết về
sự tồn tại của một trung tâm như vậy. Tới đây Nhà nước nên tiến hành một
cách bài bản hơn trong lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến các
doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết
định đầu tư.
c/ Tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ
được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá

đặc biệt:
Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các nghiên
cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn được
khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trường công
19
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
nghệ nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở
nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập Quỹ Hỗ trợ đầu tư phát triển công
nghệ quốc gia. Quỹ này sẽ cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có
nhu cầu đặt hàng với các Viện Nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được
nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà
khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn Ýt ỏi của
ngân sách Nhà nước.
d/ Thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ:
Tình trạng ăn cắp chất xám, bản quyền, kiểu dáng công nghệ phổ biến
hiện nay đã làm cho nhiều doanh nghiệp trong, ngoài nước và các nhà khoa
học nản chí trong đầu tư cho khâu nghiên cứu và ứng dụng. Nhà nước cần
nghiêm khắc hơn nữa với các vi phạm pháp luật kiểu này để các doanh nghiệp
và các nhà khoa học yên tâm nghiên cứu.
7. Các vấn đề về thông tin, xúc tiến thương mại
a/ Về thông tin
Bộ thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ phải có nhiệm vụ
thu thập và phổ biến thông tin về thị trường, đồng thời làm tốt công tác dự
báo để định hướng cho sản xuất và xuất khẩu, phát triển các mặt hàng mới.
Đồng thời, việc hoạch định chiến lược tổng thể về thị trường Hoa Kỳ là
việc có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian trước mắt. Để xây dựng
chiến lược này, Bộ Thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Mỹ phải nắm rõ
được đặc điểm, tính chất, nhu cầu về các loại hàng hoá cũng như thể chế của
thị trường Mỹ để trợ giúp các doanh nghiệp trong nước vào việc : sản xuất

mặt hàng gì ?; sè lượng sản xuất và khả năng xuất khẩu là bao nhiêu ?; vận
chuyển như thế nào ?; đối thủ cạnh tranh nào ?; phương thức cạnh tranh như
thế nào và vướng mắc gì cần giải quyết trong quan hệ song phương?.
b/ Nhanh chóng thành lập Cục xúc tiến thương mại để hỗ trợ các
doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị:
Chức năng của Cục Xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức
xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị
20
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
trường đã được hoạch định, Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lé trình hành
động cụ thể để đưa được hàng hoá Việt Nam ra thị trường ngoài. Cục sẽ quản
lý cơ sở dữ liệu của Bộ Thương mại và lo các vấn đề có liên quan đến khía
cạnh kỹ thuật như tạo dựng cơ sở dữ liệu để truy cập, tạo dựng trang Web.
8. Đẩy mạnh cải cách hành chính
a/ Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
- Hoàn thiện hệ thống thuế xuất nhập khẩu:
Hiện nay, điển hình của sự bất ổn trong chính sách là thuế suất thuế nhập
khẩu. Khung thuế rộng, quyền hạn thay đổi thuế suất của ngành hành pháp lại
lớn nên thuế suất thay đổi luôn, nhiều khi 3 tháng một lần. Sự thay đổi nhiều
đến nỗi cho đến nay không ai có một biểu thuế hoàn chỉnh và chính xác, trừ
các chuyên viên làm việc tại các cơ quan ban hành chế độ thuế và chịu trách
nhiệm thu thuế. Việc làm đó vừa gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong
tính toán hiệu quả kinh doanh, vừa làm triệt tiêu khả năng định hướng của
công cụ thuế. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp phải các lệnh cấm có hiệu
lực ngay lập tức, các lệnh ngừng tạm thời và vô thời hạn, các thay đổi chính
sách có hiệu lực hồi tố gây rất nhiều thắc mắc
- Tiếp tục cải cách hoàn thiện hệ thống thuế để phát hiện và khắc phục
kịp thời những vướng mắc trong thời gian đầu thực hiện thuế giá trị gia tăng,
cần đơn giản hệ thống thuế suất, mỗi mặt hàng chỉ có một thuế suất, để tránh
việc áp mã tính thuế tuỳ tiện.

- Phương thức gia công sẽ vẫn còn tiếp tục tồn tại trong nhiều năm nữa.
Vì vậy, việc quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng dụng cụ và nguyên
vật liệu phục vụ cho sản xuất cũng như việc giải quyết các trường hợp khi
thanh lý hợp đồng, việc xuất khẩu sản phẩm cần có cơ chế linh hoạt phù hợp
(ví dụ như việc nhập thiết bị do khách hàng đưa vào).
- Thực tế khảo sát cho thấy nhiều doanh nghiệp hiện nay đang kiến nghị
về vấn đề quy định tỷ lệ phế phẩm 3% chưa sát với thực tế của ngành là 5-
10%, cần được định mức và quy định lại để doanh nghiệp không phải chịu chi
phí nguyên phụ liệu, chi phí vận hành và nép thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu
cho phần phế thải vượt trội như hiện nay.
21
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
b/ Hoàn thiện môi trường pháp lý
Đây là việc hết sức cần thiết để tạo tâm lý tin tưởng cho doanh nghiệp
chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Ngoài ra, với hàng chục nghìn doanh nghiệp
tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, nếu không ổn định môi trường pháp lý
thì sẽ không có cách nào phổ biến thông tin kịp thời tới các doanh nghiệp.
Vừa qua, Luật doanh nghiệp ra đời cùng với việc bãi bỏ 84 loại giấy
phép không cần thiết đã là một bước cải tiến lớn trong việc giảm thiểu những
thủ tục rườm rà cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay hệ thống các
văn bản về quản lý kinh tế ở nước ta khá phức tạp. Trước hết là các văn bản
Luật do Quốc hội thông qua, sau đó là các Nghị định của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật đã ban hành. Song phần lớn các Nghị định này chỉ mang
tính nguyên tắc vì sau đó còn có khá nhiều Thông tư hướng dẫn của các Bộ,
các ngành có liên quan. Điều đó gây nên rất nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp, vì:
- Một là, các Thông tư hướng dẫn được ban hành không kịp thời và
không cùng thời điểm.
- Hai là, khá nhiều vấn đề trong Thông tư lại cần đến sự hướng dẫn tiếp
của các bộ, các ngành và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh và thành phố. Thông

thường những văn bản này được ban hành dưới hình thức công văn hướng
dẫn, quyết định của cấp có thẩm quyền.
- Ba là, các Thông tư hướng dẫn và những văn bản sau Thông tư
thường không được công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
Nghiêm trọng hơn nữa, không Ýt văn bản lại chỉ được “lưu hành nội bộ”
trong ngành hoặc địa phương nhưng nội dung điều chỉnh của nó lại liên quan
đến doanh nghiệp.
Để khắc phục tình trạng trên, cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
- Nghiêm khắc xử lý đối với các trường hợp ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành luật chậm hơn so với quy định của pháp luật.
- Cần quy định thời gian bắt buộc phải ban hành các Thông tư hướng dẫn
của các Bộ, ngành và gần nhau trong một thời điểm nhất định. Điều đó nhằm
tạo ra sự đồng bộ trong các văn bản hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho các doanh nghiệp.
22
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
- Hạn chế đến mức tối đa các văn bản “ lưu hành nội bộ” sau Thông tư.
- Cần có quy trình kiểm tra chặt chẽ về nội dung, văn phạm của các
Thông tư hướng dẫn trước khi ban hành nhằm tránh những hướng dẫn lấp
lửng để cán bộ thực thi tuỳ ý vận dụng, gây khó dễ cho doanh nghiệp.
II. Nhóm biện pháp đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự cố gắng của Nhà nước thì doanh nghiệp Việt Nam phải
nhanh chóng khắc phục tư tưởng ỷ lại và ngay từ lúc này phải tìm mọi biện
pháp nâng cao chất lượng để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam trên trường quốc tế và thậm chí ngay trên thị trường Việt Nam.
Hiện nay, các doanh nghiệp giày dép đã giành sự quan tâm khá thích
đáng để chuẩn bị cho thời kỳ sau khi Hiệp định thương mại có hiệu lực. Tuy
nhiên trong thời gian Hiệp định chưa có hiệu lực, nếu có thể lợi dụng được
một nước thứ ba để xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ thì các doanh nghiệp nên
tận dụng triệt để nhằm mục đích làm cho người tiêu dùng Hoa Kỳ làm quen

với sản phẩm của mình.
Trên thực tiễn đây là vấn đề rất khó đòi hỏi nhiều ngành, nhiều cấp và
các doanh nghiệp phải tập trung cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc về thuế
quan, phi thuế quan và đặc biệt là rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật của thị
trường Mỹ sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực. Sau đây là một
số biện pháp giúp Ých một phần nào cho các doanh nghiệp trong thời kỳ tiền
tiếp cận thị trường Hoa Kỳ.
1. Thúc đẩy sự phát triển thương mại thông qua Internet
Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang được phát triển rất
nhanh chóng và có tiềm năng rất lớn. Năm 1997, tổng doanh thu của thương
mại điện tử thế giới đạt 18 tỷ USD, sang năm 1998 đã tăng lên trên 70 tỷ
USD. Theo một dự báo của APEC, năm 2002 doanh thu của thương mại điện
tử thế giới sẽ lên đến 1000 tỷ USD, trong đó riêng các nước APEC sẽ chiếm
khoảng 600 tỷ USD.
Thương mại điện tử không chỉ làm cho xí nghiệp giảm được giá thành,
mở rộng thị trường mà còn có thể làm cho cơ chế và cơ cấu xí nghiệp thay đổi
23
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
có tính chất căn bản. Thông qua mạng Internet, giao lưu giữa Chính phủ và
các doanh nghiệp càng thuận tiện và nhanh chóng hơn. Chính phủ có thể căn
cứ vào số liệu mới nhất của xí nghiệp để kịp thời triển khai các chính sách
quản lý vĩ mô, xí nghiệp cũng có thể kịp thời tìm hiểu các chính sách của
Chính phủ. Ngoài ra, việc tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ thông qua
các phương tiện điện tử sẽ giúp cho các nước đều sẽ có lợi do tránh được các
rào cản thương mại hiện hành.
Xét về góc độ doanh nghiệp, thương mại điện tử biểu hiện tác dụng cụ
thể to lớn ở các khía cạnh sau:
- Là một công cụ mới cho chiến lược quản lý do nó nối trực tiệp người
mua với người bán, không bị hạn chế về không gian và thời gian, phù hợp với
mọi yêu cầu của khách hàng và có khả năng cập nhật theo thời gian thực.

- Thương mại điện tử tác động lên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh
thương mại: tiếp thị, bán và khuyến mại; trước bán; hợp động và cung cấp; tài
chính và bảo hiểm; các giao dịch thương mại như đặt hàng, giao hàng và
thanh toán; dịch vụ bảo hành, bảo trì; hợp tác và phát triển sản phẩm; kế toán;
giải quyết tranh chấp
- Thương mại điện tử có nhiều tiềm năng giúp cho các doanh nghiệp
nâng cao được hiệu quả của quá trình kinh doanh; giảm được chi phí quảng
cáo, giảm được chi phí vận chuyển đặc biệt đối với hàng hoá Ên phẩm điện
tử, giảm được giá thành thiết kế và chế tạo, cải thiện được quá trình nghiên
cứu thị trường, để xâm nhập thị trường mới
Nhận thức rõ tiềm năng to lớn của ngành “ thương mại không giấy tờ”
này, với tư cách là một đòn bẩy quan trọng nhất đối với nền kinh tế quốc dân,
chính phủ Mỹ đang cố gắng thiết lập một môi trường kinh doanh sao cho
thương mại điện tử có thể tăng trưởng nhanh nhất trên phạm vi toàn cầu.
Bằng việc tận dụng các công nghệ mới để làm tăng khả năng kinh doanh, hiện
nay Mỹ đang tích cực khai thác Internet và tham gia vào thị trường điện tử
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá cũng như dịch vụ ra thế giới. Vì vậy,
muốn hợp tác với Mỹ một cách nhanh chóng và có hiệu quả, các doanh
nghiệp Việt Nam không còn con đường nào khác là phải tiếp cận từng bước
24
Đề án môn học : Thương mại quốc tế
một cách hợp lý, tạo ra môi trường kinh doanh thực sự, hình thành thương
mại điện tử ở Việt Nam để hội nhập với thương mại điện tử thế giới.
Tuy nhiên, để tham gia một cách có hiệu quả vào hệ thống này đòi hỏi
các quốc gia phải có sự thích ứng và cơ sở vật chất nhất định. Môi trường
kinh doanh và công nghệ trong thương mại điện tử luôn luôn thay đổi đòi hỏi
các nhà lập chính sách phải rất linh hoạt để đưa ra những chính sách điều tiết
hợp lý và kịp thời. Việc xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo an toàn và bí mật đối với các giao dịch trên
mạng, đáp ứng những yêu cầu về cơ sở hạ tầng viễn thông và công nghệ

thông tin là những vấn đề cần phải giải quyết đối với mỗi quốc gia khi tham
gia thương mại điện tử.
Tham gia thương mại điện tử trước hết là tham gia vào mạng Internet,do
vậy để có thể hoạt động tốt trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần
xác định bước đi thích hợp trong sử dụng Internet, các bước đó là:
- Chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu. Nếu không
làm chủ được tiếng Anh thì hiệu quả thu được không đáng là bao vì tiếng Việt
trên Internet rất hạn chế.
- Nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet trong hoạt động
kinh doanh của mình. Trước hết là sử dụng thư điện tử : E-mail. Thông qua E-
mail doanh nghiệp có thể truyền tải văn bản, hình ảnh và tương lai cả Video
và âm thanh.
- Tham gia trao đổi tin tức trên mạng Internet. Doanh nghiệp có thể tham
gia trao đổi theo một nhóm chuyên ngành hẹp theo chủ đề doanh nghiệp quan
tâm. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu thị trường,
nghiên cứu sản phẩm, tiếp xúc với khách hàng.
2. Nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp để tạo ra các sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ, bằng cách:
a/ Đào tạo nguồn nhân lực
* Đào tạo đội ngò cán bộ ngoại thương lành nghề:
Muốn nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp thì yếu tố con
người là vấn đê không thể bỏ qua vì con người là nhân tố quyết định sự thành
25

×