Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.41 KB, 149 trang )

MỤC LỤC
Câu 1: Nguồn gốc của NN và PL
Câu 2: Bản chất của NN
Caâu 3 : Vị trí, Đặc Trưng của NN
Câu 4: Bản chất của NN XHCN
Câu 5: Bản chất + đặc tính cơ bản của NN CHXHCN VN
Câu 6: Chức năng của NN
Câu 7: Các chức năng cơ bản của NN XHCN
Câu 8 - Hình thức NN.
Câu 9: Các hình thức của NN XHCN
Câu hỏi 10: Bộ máy NN XHCN
Câu 11: Những nguyên tắc cơ bản của BM NN XHCN
Câu 12: KN và đặc điểm, đặc trưng của HTCT XHCN.
Câu 13 : Vai trò của NN XHCN trong HTCT
Câu 14 : Đảng trong HTCT, NN + ĐCS trong HTCT XHCN VN
Câu 15: Đảng và NN + các tổ chức XH trong HTCT XHCN
Câu 16 - Đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
Câu 17: NN pháp quyền XHCN và ở VN
Câu 18: Bản chất của PL.
Câu 20: Bản chất và đặc trưng của PL XHCN
Câu 21 . Vai trò của pháp luật XHCN
Câu 22 - Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc, phân loại Quy phạm PL XHCN
Câu 23: Khái niệm, đặc điểm và cấu thành QHPL
Câu 24. Sự kiện pháp lý
Câu 25 - Khái niệm, đặc điểm, chức năng của YTPL
Câu 26 – Mối quan hệ giữa YTPL và PL XHCN, Giáo dục YTPL.
Câu 27- Điều chỉnh pháp luật, Cơ chế điều chỉnh pháp
Câu 28: Khái niệm, đặc điểm và căn cứ phân chia HTPL XHCN
Phần I: NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHUYÊN ĐỀ 1: BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XHCN
CÂU 1: NGUỒN GỐC CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


NN và pháp luật là những hiện tượng xã hội phức tạp của đời sống con người, được
sinh ra khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định trên những tiền đề của nó.
Muốn hiểu được bản chất của NN, pháp luật và các quy luật phát triển của chúng nói
chung cần phải làm sáng tỏ nguyên nhân và quá trình phát sinh của NN, pháp luật.
- Một số quan điểm trước Mác
NN là một hiện tượng xã hội phức tạp, để giải thích cho sự hình thành NN, đã có
nhiều quan niệm khác nhau:
+ Thuyết thần học cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, NN là do
thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, do vậy NN là lực lượng siêu nhiên và
với quyền lực vĩnh cưủ và sự phục tùng quyền lực này là cần thiết và tất yếu.
+ Thuyết gia trưởng cho rằng: NN là kết quả sự phát triển tự nhiên của gia đình, là
hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy NN có trong mọi xã hội và
quyền lực NN về bản chất cũng giống như quyền gia trưởng của người đứng đầu gia
đình.
+ Thuyết khế ước xã hội cho rằng: Các học giả tư sản cho rằng sự ra đời của NN là
sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết là giữa những con người
sống trong trạng thái tự nhiên không có NN. Vì vậy, NN phản ảnh lợi ích của các
thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu NN phục vụ, bảo vệ
lợi ích của họ.
+ Thuyết bạo lực cho rằng: NN xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc
của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng nghĩ ra một hệ
thống cơ quan đăc biệt để nô dịch kẻ chiến bại.
+ Thuyết tâm lý cho rằng: NN xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên
thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sỹ…Vì vậy NN là tổ chức của những
siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội.
+ Thuyết “NN siêu trái đất”cho rằng: Sự xuất hiện xã hội loài người và NN là sự du
nhập và thử nghiệm những thành tựu của một nền văn minh ngoài trái đất.
+ Hạn chế:
* Do nhận thức còn hạn chế hoặc do lợi ích giai cấp chi phối nên cố tình giải thích
sai những nguyên nhân đích thực làm phát sinh NN.

* Đa số các học giả đều xem xét sự ra đời của NN tách rời những điều kiện vật chất
của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế. Theo họ NN không thuộc giai cấp
nào, NN là của tất cả mọi người và trong xã hội văn minh mãi mãi cần có NN.
- Nguồn gốc của NN theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin:
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của
Ph.Ăng-ghen và tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lê-nin, theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, thì:
+ Nhà nước xuất hiện là mang tính khách quan, như không phải là hiện tượng xã hội
vĩnh cữu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều
kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
+ Nhà nước chỉ xuất hiện khi XH loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định,
với các tiền đề kinh tế (tư hữu tư nhân), tiền đề về xã hội (xã hội phân chia thành các
tầng lớp, các giai cấp khác nhau về lợi ích, mâu thuẫn về lợi ích không thể điều hòa
được).
=> Theo Lênin: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẩn giai cấp
không thể điều hòa được. Bất cứ nơi đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách
quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì Nhà nước xuất hiện.
- Căn cứ khoa học cho các luận điểm này được hình thành trên cơ sở nghiên cứu và
phân tích toàn bộ hiện thực lịch sử của xã hội loài người
Xã hội loài người đã trải qua 5 phương thức sản xuất và ứng với mỗi phương thức
nhất định là một chế độ xã hội:
- Chế độ cộng sản nguyên thủy.
- Chế độ chiếm hữu nô lệ.
- Chế độ phong kiến.
- Chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Chế độ xã hội chủ nghĩa.
1. Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc:
- Chế độ cộng sản nguyên thủy (CSNT) là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong lịch
sử nhân loại. Đây là xã hội không có giai cấp, chưa có NN và pháp luật.
- Cơ sở kinh tế của chế độ CSNT là sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao

động.
- Cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là tổ chức thị tộc.
+ Thị tộc tổ chức theo huyết thống. Ơ giai đoạn đầu, các thị tộc tổ chức theo chế độ
mẫu hệ. Dần dần sự phát triển của xã hội đã tác động làm vai trò của người đàn ông
thay đổi và ngày càng nắm vai trò quan trọng trong đời sống thị tộc và chế độ mẫu hệ
chuyển thành chế độ phụ hệ.
+ Trong thị tộc mọi người đều tự do và bình đẳng. Không một ai có đặc quyền, đặc
lợi trong đối với người khác. Trong thi tộc có sự phân công lao động, nhưng đó chỉ là
sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ,
chưa mang tính xã hội
2. Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ CSNT:
b. Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ CSNT:
- Quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thủy mang tính chất là quyền lực xã hội.
Do xã hội tổ chức ra và phục vụ lợi ích của cả cộng đồng. Không mang tính chất giai
cấp và hệ thống quản lý rất đơn giản.
Để quản lý thị tộc, xuất hiện hội đồng thị tộc, thành viên là những người lớn tuổi
trong thị tộc. Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, quyết định các
vấn đề quan trọng của thị tộc. Các quyết định thể thiện ý chí chung của các thành viên
hội đồng trên cơ sở sự tín nhiệm của thị tộc.
Các thành viên hội đồng thị tộc không có đặc quyền, đặc lợi mà cùng chung sống,
cùng lao động và cùng hưởng thụ như các thành viên khác. Họ có thể bị bãi miễn nếu
không được tín nhiệm. Từ chế độ thị tộc, phát triển thành bào tộc (liên minh các thị
tộc) và bộ lạc (gồm nhiều bào tộc).
- Thị tộc liên minh với nhau tạo thành bào tộc và bộ lạc. Bào tộc bầu ra Hội đồng bào
tộc. Hội đồng bào tộc bao gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân sự (đã không phải là các
thành viên của bào tộc). Tổ chức quyền lực trong bào tộc và bộ lạc cũng dựa trên cơ
sở những nguyên tắc tương tự của tổ chức quyền lực trong thị tộc, nhưng đã thể hiện
mức độ tập trung quyền lực cao hơn. Tuy nhiên quyền lực vẫn mang tính xã hội.
- Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có pháp luật, không có các quy phạm do
cơ quan tổ chức nào đặt ra để buộc các cá nhân khác phải tuân theo mà là các quy

phạm xã hội.
- Quy phạm xã hội là những quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí chung của các thành
viên như các quy phạm mang tính chất tập quán, các tín điều tôn giáo đề điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong chế độ CSNT, thể hiện ý chí của cả cộng đồng.
+ Nhu cầu khách quan của xã hội cần phải có một trật tự, trong đó mọi người phải
tuân thủ theo những chuẩn mực thống nhất phù hợp với điều kiện của xã hội và lợi ích
của tập thể và từ đó Tập quán xuất hiện một cách tự phát, dần dần được xã hội chấp
nhận và trở thành quy tắc xử sự chung.
+ Do trình độ thấp kém của con người lúc bấy giờ, nhiều tín điều tôn giáo cũng được
mọi người chấp nhận và nhiều khi còn được coi là những chuẩn mực tuyệt đối, thiêng
liêng cho xử sự của con người.
3. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện NN.
Xã hội thị tộc - bộ lạc không có NN, nhưng chính trong lòng nó đã nảy sinh những
tiền đề vật chất cho sự ra đời của NN.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo tiền đề làm thay đổi phương thức sản xuất
cộng sản nguyên thủy và đòi hỏi phải thay thế sự phân công lao động tự nhiên bằng
phân công lao động xã hội.
Chế độ cộng sản nguyên thủy có 3 lần phân công lao động xã hội lớn.
- Lần 1: Ngành chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt.
Sau lần thứ nhất, của cải xã hội ngày càng nhiều, xuất hiện của cải dư thừa, xuất hiện
chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu làm thay đổi chế độ hôn nhân và gia đình, chế độ hôn
nhân một vợ một chồng xuất hiện thay cho chế độ quần hôn. Xã hội xuất hiện người
giàu, người nghèo; xuất hiện giai cấp và ngành thủ công nghiệp phát triển.
- Lần 2: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp.
Nô lệ xuất hiện trở thành một lực lượng xã hội có số lượng ngày càng tăng, mâu
thuẫn giai cấp năng, xuất hiện nền sản xuất hàng hoá và thương nghiệp phát triển dẫn
đến lần phân công lao động thứ ba.
- Lần 3: Thương mại phát triển, xuất hiện giai cấp không tham gia sản xuất nhưng
có quyền lãnh đạo sản xuất và bắt người sản xuất phải phụ thuộc (thương nhân). Đồng
tiền xuất hiện, sự tích tụ của cải vào người giàu làm mâu thuẫn xã hội càng cao.

- Hầu hết những người nghèo khổ trong thị tộc, những tù binh trong chiến tranh trở
thành nô lệ và hợp thành giai cấp bị bóc lột.
- Quyền lợi của hai giai cấp này đối lập nhau và mâu chuẩn giai cấp ngày càng quyết
liệt, các quy phạm xã hội và quyền lực xã hội không còn phù hợp dẫn đến sự tan rã
của chế độ thị tộc.
- Xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức mới để điều hành và quản lý xã hội mới, tổ
chức đó do toàn bộ những điều kiện tồn tại của nó, là công cụ quyền lực của giai cấp
nắm ưu thế về kinh tế và dĩ nhiên là tổ chức thực hiện sự thống trị của gia cấp để dập
tắt các xung đột công khai giữa các giai cấp hoặc là hướng sự xung đột đó theo một
hình thức hợp pháp. Tổ chức đó chính là NN.
Tóm lại: Sau 3 lần phân công lao động xã hội lớn trong chế độ CSNT, của cải xã hội
ngày càng nhiều hơn xuất hiện chế độ tư hữu, xuất hiện giai cấp và mâu thuẫn giai cấp
giữa người giàu và người nghèo ngày càng quyết liệt, các quy phạm xã hội và quyền
lực xã hội thể hiện ý chí chung của toàn xã hội không còn phù hợp dẫn đến sự tan rã
của chế độ thị tộc. Xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức có khả năng dập tắt các xung
đột công khai giữa các giai cấp hoặc là hướng sự xung đột đó theo một hình thức hợp
pháp. Tổ chức đó chính là NN.
Ăng - ghen khẳng định: “NN không phải là một thế lực gán ghép vào xã hội…. nó là
sản phẩm của xã hội phát triển tới một giai đoạn nhất định, nó là sự thừa nhận rằng
xã hội đó bị kìm hãm trong một sự mâu thuẫn với bản thân nó mà không sao giải
quyết được, rằng xã hội đã bị phân chia thành những cực đối lập không thể điều hoà
mà xã hội đó không đủ sức để giải thoát ra được…”( Các Mác - Ăngghen tuyển tập,
tập 2, NXB Sự thật năm 1962 trang 520, 521)
Như vậy: NN xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát
triển đến một giai đoạn nhất định. NN “không phải là quyền lực từ bên ngoài áp đặc
vào xã hội”, một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt
sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”. (Mác – Anghen,
tuyển tập, Tập 6, Nxb Sự thật, H. 1984, tr. 260)
NN là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có một bộ máy chuyên làm
nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm thực hiện

những mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối
kháng.
* NN khác với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp.
NN khác các tổ chức xã hội trong xã hội có giai cấp ở những nội dung cơ bản sau:
+ NN thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hoà nhập vào dân cư
nữa. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị .
+ NN phân chia dân cư thành lãnh thổ, thành các đơn vị hành chính không phụ thuộc
vào dân tộc, nghề nghiệp, huyết thống.
+ NN có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia có nội đung chính trị, pháp lý thể
hiện quyền độc lập, tự quyết về đối nội, đối ngoại.
+ NN ban hành pháp luật và thể hiện sự quản lí bắt buộc đối với mọi công dân.
+ NN quy định và thực hiện việc thu thuế với các loại thuế, dưới các hình thức bắt
buộc với số lượng và thời hạn nhất định.
* Sự xuất hiện NN đầu tiên trong lịch sử:
-A Ten: NN A ten ra đời trực tiếp từ những mâu thuẩn giai cấp đối kháng phát sinh
trong lòng xã hội thị tộc, không có bất kỳ một sự tác động nào bên ngoài
-Rô Ma: NN La Mã cổ đại xuất hiện được thúc đẩy bởi sự đấu tranh của những người
thường dân (Plebêi) chống lại giới quý tôc của thị tộc La mã (Pátrisép). Plebêi những
người tự do, là những người tự do sống ngoài thị tộc La Mã. Khi chiếm hữu ruộng đất
họ cũng phải nộp thuế, cũng phải đi lính nhưng không hề giữ được chức vụ gì, họ
không thể sử dụng đất đai La Mã. Cuộc đấu tranh của những người Plebêi là lực lượng
cách mạng chủ yếu chống lại mọi đặc quyền quý tộc. Chiến thắng của họ trong cuộc
chiến đã phá vở chế độ thị tộc thúc đẩy quá trình hình thành thể chế NN vốn dựa trên
sự phân chia lãnh thổ và sự khác biệt về tài sản
- Giéc Manh: NN Giéc Manh được thành lập sa khi người Giéc Manh xâm chiếm
vùng lãnh thổ rộng lớn của đế chế La Mã cổ đại. NN Giéc manh ra đời dưới sự ảnh
hưởng của nền văn minh La mã và do nhu cầu thiết lập quyền thống trị trên đất đại La
Mã chứ không phải do nhu cầu đấu tranh giai cấp trong lòng xã hội Giéc manh. Khi
NN được thiết lập, trong xã hội Giécmanh vẫn còn chế độ thị tộc, bắt đầu có sự phân
hoá giai cấp nhưng chưa rõ nét. NN Giéc manh xuất hiện là sự chuyển hoá cơ quan thị

tộc thành NN. Như Thủ lĩnh quân sự chuyển thành nhà quân chủ, tài sản của dân cư
biến thành tài sản của nhà vua, các cơ quan thị tộc nhanh chóng chuyển thành các cơ
quan NN. Cùng với quá trình củng cố và hoàn thiện bộ máy NN, xã hội Giéc manh
mới chuyển sang xã hội có giai cấp.
CÂU 2: BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC
a.Đặt vấn đề:
Vấn đề bản chất và ý nghóa của nhà nước luôn luôn là đối tượng của cuộc đấu
tranh tư tưởng gay gắt nhất. Đồng thời đây cũng là một trong những vấn đề khó
nhất đã "trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trò và mọi tranh luận chính trò".
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:
- Các quan điểm trước Mác:
+ Điển hình như các nhà tư tưởng cổ đại cho rằng: giàu nghèo, sang hèn và các đẳng
cấp trong xã hội đều do thượng đế tạo ra, đó là quy luật tự nhiên của mn đời và vì
vậy cần có một con người (vua) do thượng đế cử xuống, thay mặt trời bảo vệ trật tự
chung.
. Các nhà theo tư tưởng gia trưởng lại cho rằng: NN tồn tại vĩnh viễn như gia đình,
như quyền lực của người gia trưởng đứng đầu gia đình.
. Bên cạnh đó, thuyết bạo lực xác định: NN ra đời đơ thị tộc chiến thắng nghĩ ra.
. Hay thuyết tâm lý lại cho rằng: NN ra đời do nhu cầu tâm lý của con người muốn
sống phụ thuộc vào các thủ lĩnh.
+ Khác với họ, các nhà tư sản coi sự ra đời của NN là một khế ước được ký kết trước
hết là giữa những con người sống trong hiện trạng tư nhiên khơng có NN. Với tư
tưởng như vậy, các nhà tư sản muốn đạt được 2 mục đích: khi coi NN được hình thành
từ khế ước giữa con người với nhau thì con người có quyền u cầu NN phục vụ và
bảo vệ lợi ích của họ (tức là chống sự chun chế của NN phong kiến); đồng thời
nhằm chống lại tư tưởng tơn giáo phong kiến cho rằng NN do thượng đế tạo ra.
Các học thuyết phi Mác xít nói trên đều mang tính chủ quan, đều vơ tình hoc85 cố ý
lãng tránh bản chất giai cấp của Nhà nước.
- Quan điếm chủ nghĩa Mác- Lê
Với phương pháp luận khoa học, trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành tựu

của nhiều bộ môn khoa học, học thuyết Mác-lênin về nhà nước và pháp luật đã
giải thích được một cách đúng đắn vấn đề bản chất và ý nghóa của nhà nước nói
chung cũng như của nhà nước xã hội chủ nghóa nói riêng.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của
Ph.Ăng-ghen và tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lê-nin, theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, thì:
+ Nhà nước xuất hiện là mang tính khách quan, như khơng phải là hiện tượng xã hội
vĩnh cữu và bất biến. Nhà nước ln vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều
kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng khơng còn nữa.
+ Nhà nước chỉ xuất hiện khi XH lồi người phát triển đến một giai đoạn nhất định,
với các tiền đề kinh tế (tư hữu tư nhân), tiền đề về xã hội (xã hội phân chia thành các
tầng lớp, các giai cấp khác nhau về lợi ích, mâu thuẫn về lợi ích khơng thể điều hòa
được).
=> Theo Lênin: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẩn giai cấp
khơng thể điều hòa được. Bất cứ nơi đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách
quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hòa được thì Nhà nước xuất hiện.
b.



Bản chất của NN:
** Tính giai cấp của nhà nước:
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ
nghóa Mác-lênin đi đến kết luận "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được". Nghóa là, nhà nước chỉ sinh ra và tồn
tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Bản chất giai cấp đó thể hiện trước hết ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế
đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để thực
hiện sự thống trò giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
NN là bộ máy do giai cấp thống trị lập ra, có nhiệm vụ bảo vệ cho lợi ích của giai

cấp thống trị. Sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện dưới ba hình
thức: quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị và quyền lực tư tưởng.
+ Quyền lực kinh tế: giữ vai trò quyết định, là cơ sở bảo đảm sự thống trị giai cấp.
Quyền lực kinh tế thuộc về giai cấp nắm trong tay tư liệu sản xuất trong xã hội, với tư
liệu sản xuất trong tay, chủ sở hữu có thể bắt người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt
kinh tế. Tuy nhiên, quyền lực kinh tế khơng duy trì được quan hệ bóc lột nên giai cấp
thống trị cần phải có NN để củng cố quyền lực kinh tế với giai cấp bị bóc lột. Nhờ có
NN, giai cấp nắm trong tay tư liệu sản xuất trở thành giai cấp thống trị về kinh tế.
Chẳng hạn như đối với chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản nắm trong tay hầu
hết các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó chi phối tồn bộ hoạt động sản xuất của xã
hội, buộc các giai cấp khác đều phải phụ thuộc vào họ và giai cấp tư sản đương nhiên
trở thành giai cấp thống trị xã hội về mặt kinh tế, hay nói cách khác là họ nắm trong
tay quyền lực kinh tế.
Tại điều 17 Hiến Pháp năm 1992 của nước CHXHCNVN có quy đònh: “Đất đai,
rừng núi, sơng hồ, nguồn nước, tài ngun trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm
lục địa và vùng trời…. là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu tồn dân”. Đó là tiềm lực
kinh tế lớn của NN VN
+ Quyền lực chính trị: là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp
khác. NN là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn áp các giai
cấp đối kháng. Với ý ngĩa đó, NN là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị.
Giai cấp thống trị sử dụng NN là cơng cụ để thực hiện quyền lực chính trị. Ý chí của
giai cấp thống trị thơng qua NN trở thành ý chí của NN, ý chí của NN có sức mạnh
buộc các giai cấp khác phải tn theo một “trật tự” do giai cấp thống trị đặc ra, phải
phục vụ lợi ích của gia cấp thống trị. Làm như vậy, g/c thống trị đã thực hiện sự
chun chính của mình đối với g/c khác. Cơng cụ để thực hiện sự chun chính chính
là NN.
Cụ thể: lịch sử đã chỉ ra rằng:
. Trong các xã hội bóc lột, nền chuyên chính của các giai cấp bóc lột đều có đặc
điểm chung là duy trì sự thống trò về chính trò, kinh tế và tư tưởng của thiểu số
người bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động. Các nhà nước bóc lột đều có

chung bản chất là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột: Nhà
nước chủ nô là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô, nhà nước phong kiến là
công cụ chuyên chính của giai cấp đòa chủ phong kiến, nhà nước tư sản là công cụ
chuyên chính của giai cấp tư sản.
. Nghiên cứu về NN tư bản chủ nghĩa, nhận thấy tồn tại mâu thuẫn đối kháng giữa
hai giai cấp: giai cấp tư sản và giai cấp cơng nhân, bên cạnh đó còn có nhiều giai cấp
khác trong xã hội. NN tư bản chủ nghĩa là NN của giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản
lập ra, tổ chức một bộ máy bao gồm các cơ quan NN và ban hành hệ thống các quy
phạm PL quy định mọi hành vi của mọi cơng dân trong xã hội. Hệ thống quy phạm PL
này được hình thành là dựa vào ý chí của giai cấp tư sản, phục vụ cho giai cấp tư sản,
bảo vệ quuyền lợi và các lợi ích của họ. Các cơ quan NN (bao gồm Cơng an, Tồ án,
nhà tù…) có chức năng, thẩm quyền và sức mạnh trấn áp, bắt buộc mọi người dân
trong xã hội phải chấp hành hệ thống các quy phạm PL một cách triệt để.
. Khác với điều đó, nhà nước xã hội chủ nghóa với bản chất chuyên chính vô sản,
là bộ máy để củng cố đòa vò thống trò và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động chiếm đa số trong xã hội, để trấn áp những lực lượng thống trò
cũ đã bò lật đổ và những phần tử chống đối cách mạng.
Vd Đ2 “NN CHXHCN VN là NN PQXHCN của ndân do ndân, vì ndân, tất cả qlực
NN thuộc về ndân”, Đ4 “ĐCSVN,đội tiền phong của g/ccn VN là ll lđạo NN và XH”
+ Quyền lực về tư tưởng:
Để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không thể chỉ đơn thuần dựa vào bạo lực
và cưỡng chế mà còn cần đến sự tác động về tư tưởng nữa. Giai cấp thống trò đã
thông qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng
thống trò trong xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ thuộc mình về mặt tư tưởng.
Chẳng hạn, giai cấp thống trị thường nắm bộ máy thơng tin, các phương tiện thơng
tin đại chúng. Trấn áp các tư tưởng đối lập. Thực hiện sự kiểm duyệt ngặt nghèo. Ni
dưỡng đội ngũ lý luận lớn phục vụ cơng tác tư tưởng.
Ví dụ: Tư tưởng Nho giáo là tư tưởng thống trị trong xã hội phong kiến Việt Nam,
Đối với NN ta, tư tưởng thống trị XH là “Chủ nghĩa Mác-Lênnin và tư tưởng
HCM”D4 HP “NN và XH bảo tồn, phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đạm đà bản

sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của các nền văn hiến các dtộc VN, tư
tưởng, đạo đức phong cách HCM ”
NN VN bảo vệ quyền lực về chính trị và kinh tế của mình trên cơ sở ban hành các
quy phạm PL và xác định lấy chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng HCM là tư tưởng
thống trị trong xã hội.
Ngày nay, các thế lực thù địch, chống chủ nghĩa xã hội ra sức phê phán, đả kích,
cơng khai bài bác, xun tạc chủ nghĩa Mac – Lenin, thậm chí còn kết tội ln HCM
là người du nhập chủ nghĩa Mac – Lenin vào Việt Nam là một sai lầm, là ngun nhân
“đưa đất nước vào vòng tối tăm, trì trệ, đổ vỡ, nhục nhã, đau đớn.” Từ đó họ lớn
tiếng đòi Đảng ta “phải từ bỏ học thuyết Mac – Lenin trước khi còn chưa muộn”.
Chính vì vậy, phải ln ln kiên định chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng HCM là
vấn đề có tính ngun tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tồn
bộ cơng tác tư tưởng – lý luận của chúng ta.
Như vậy, NN là một bộ máy đặc biệt để đảm bảo sự thống trị kinh tế, để thực hiện
quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với quần chúng. Thế
nên khơng có một NN nào là NN của tồn dân. NN tồn dân hay NN phi giai cấp là
những quan điểm phi khoa học.
** Tính xã hội của NN:
Ngồi việc thực hiện các chức năng trên, NN còn phải giải quyết tất cả các vấn đề
khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực hiện các chức năng xã hội. Điều đó
nói lên rằng NN là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, nó vừa mang bản chất giai
cấp lại vừa mang bản chất xã hội.
NN là phương thức tổ chức đảm bảo lợi ích chung của xã hội, thể hiện ở việc NN
phải chăm lo, tính đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng, ý chí của các giai
tầng khác, của mọi người dân khơng kể giống nòi, tơn giáo, dân tộc… Tất cả các NN
không chỉ “khư khư” bảo vệ lợi ích của mình, không chỉ phục vụ cho bản thân mình,
mà còn phải chú trọng đến an sinh xã hội (làm đường, xây trường học…), quan tâm
đến những vấn đề chung tác động đến xã hội. NN nào coi nhẹ vấn đề này NN đó
không sớm thì muộn hiệu lực quản lý sẽ suy giảm và dẫn đến suy vong.
Đấy là câu trả lời cho NN Việt Nam rất quan tâm đến những đối tượng chính sách

trong xã hội, có sự ưu tiên cho những đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên và miền tây
Nam Bộ, có chính sách khuyến khích nhiều thành phần kinh tế phát triển, ưu đãi với
các nhà đầu tư nước ngoài…
Ví dụ: trong đối nội: NN giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống XH như: đói
nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai, địch
hoạ, về dân tộc, tôn giáo và các chính sách XH khác.v.v…Trong đối ngoại: NN bảo
vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, bảo về công dân nước mình đang sinh hoạt công tác ở
nước khác
Tóm lại, mặc dù mỗi kiểu NN có bản chất riêng nhưng các NN đều có một số đặc
điểm chung đó là: NN là bộ máy để thực hiện sự thống trị giai cấp. Lênin định nghĩa:
“+NN là một bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
NN XHCN cũng có một số đặc điểm chung như các kiểu NN khác, nhưng với bản chất
là chuyên chính vô sản nó không còn là NN theo đúng nghĩa nữa mà chỉ là "nửa NN"
+.NN là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là sản phẩm của một chế độ kinh tế nhất
định. Sự phát triển của NN là do cơ sở hạ tầng quyết định.
+NN là một bộ máy đặc biệt để trấn áp các giai cấp khác và thực hiện sự quản lý về
kinh tế-xã hội.
+Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của NN. Tuy nhiên, bên cạnh đó NN
còn thể hiện rõ nét tính xã hội. Dù trong xã hội nào, NN cũng một mặt bảo vệ lợi ích
của giai cấp ( lực lượng) cầm quyền, nhưng đồng thời cũng phải chú ý đến lợi ích
chung của toàn xã hội.
Từ những kết luận trên có thể đi đến khái niệm sau: NN là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện
các chức năng quản lý đặc biệt nhằm thực hiện những mục đích và bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đổi kháng.
c.Liên hệ với bản chất NN XHCN:
Chủ nghĩa Mác - Lê nin khẳng định, bản chất giai cấp là đặc trưng cơ bản của NN.
NN là một bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, tức là
công cụ để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp
thống trị. Do đó, khi xem xét bản chất giai cấp của một NN phải xem xét NN đó do

giai cấp nào lãnh đạo và theo đường lối chính trị của giai cấp nào.
NN XHCN ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao
động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. NN XHCN cũng mang bản chất
giai cấp, đó là bản chất của giai cấp công nhân do Đảng tiên phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo.
Tuy nhiên sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân có bản chất và mục đích
khác hẳn với sự thống trị về chính trị của giai cấp bóc lột. Sự thống trị của thiểu số đối
với tất cả các giai cấp bị áp bức, bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích riêng giai cấp bóc lột.
Trái lại, sự thống trị của giai cấp công nhân nhằm mục đích xoá bỏ áp bức, bóc lột,
bảo vệ lợi ích của tất cả nhân dân lao động bị áp bức, tổ chức xây dựng XH mới.
Về lý thuyết, NN XHCN là NN kiểu mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu
NN bóc lột. Bản chất đó do cơ sở ktế XHCN và đặc điểm của quyền lực chính trị
trongCN XH quy định.
+Trong CNXH, QHSXXHCN được thiết lập và củng cố dựa trên cơ sở của chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất - đó là kiểu QHSXthể hiện sự hợp tác, tương trợ không
có áp bức bóc lột.
+Giai cấp vô sản là người giữ địa vị thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị về
chính trị của giai cấp vô sản đã thể hiện bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống
trị về chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị
của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức, bóc lột, để bảo vệ lợi ích của chúng.
Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với giai
cấp bóc lột, chỉ là thiểu số trong dân cư, nhằm mục đích giải phóng giai cấp mình và
tất cả người lao động. Mặt cơ bản nhất trong sự thống trị về chính trị của giai cấp vô
sản là sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn XH trong thời kỳ quá độ từCN TB
lênCN XH vàCN cộng sản.
Đối với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một kiểu NHà nước, Nhà nước ta
cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc đó là bản chất nhân dân (Thể hiện trong Điều 2
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001): “Nhà nước CHXHCNVN là NN pháp quyền
XHCN của ND, do ND, vì ND. Tất cả quyền lực NN thuộc về ND mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

Câu 3 : Vị trí, Đặc Trưng của NN trong xã hội có giai cấp
NN ra đời là một quá trình phát triển của XH loài người đến một giai đoạn nhất
đònh. Cụ thể là: sau khi trải qua 3 lần phân công lao động trong xã hội (trồng trọt
tách khỏi chăn nuôi, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp và thương nghiệp,
đồng tiền ra đời). Trong Cộng xã nguyên thủy chua có Nhà nước là vì các quan hệ
xã hội được được quảnlý bằng các quy phạm xã hội của thò tộc, bộ tộc, bộ tộc…
Nhưng sau khi thương nghiệp ra đời, do di chuyển trao đổi hàng hóa từ nhiều vùng
miền (từ đông sang tây, ngược lại…) vì vậy đã nãy ra nhu cầu cần có một tổ chức
đứng ra quản lý thống nhất. Đó là NN.
Có thể khẳng đònh, NN ra đời là một tất yếu khách quan, một cách tự nhiên chứ
không phải gượng ép.
Ta có thể hiểu NN là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có một bộ máy
chun làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm
thực hiện những mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai
cấp đổi kháng.
Vị Trí của NN
* NN so v

ới Xã hội:
Để xác đònhvò trí của nhà nước trong xã hội có giai cấp trước hết cần tìm hiểu
mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội có giai cấp nói chung. Nhà nước và xã hội có
giai cấp là hai hiện tượng có quan hệ qua lại với nhau; giữa chúng vừa có sự thống
nhất lại vừa có sự khác biệt.
- Sự thống nhất thể hiện ở chỗ xã hội có giai cấp không thể tồn tại thiếu nhà
nước đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai
cấp.
- Mặt khác, nhà nước và xã hội không đồng nhất với nhau.
+ Khái niệm xã hội rộng hơn khái niệm nhà nước.
+ Về mặt cơ cấu, xã hội được hình thành từ các giai cấp và đẳng cấp khác nhau,
còn nhà nước được cấu thành từ những chế đònh pháp lý và thiết chế nhà nước.

- Trong mối quan hệ qua lại giữa chúng, xã hội giữ vai trò quyết đònh, là cơ sở
cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Những biến đổi trong sự vận động và
phát triển của xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi tương ứng của nhà
nước. Ngược lại nhà nước cũng có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển mọi mặt
của xã hội.
Vì vậy, khi nghiên cứu những vấn đề về nhà nước phải gắn chúng với những điều
kiện cụ thể của xã hội, đồng thời cũng phải chú ý đến những quy luật phát triển
riêng của nhà nước, chú ý đến vai trò của nó trong sự tác động trở lại đối với xã
hội.
Nhà nước là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc xã hội, nó là sản phẩm của
một chế độ kinh tế - xã hội nhất đònh. Sự phát triển của hạ tầng cơ sở quyết đònh
sự phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, những sự biến đổi của nhà nước không phải
chỉ phụ thuộc vào những biến đổi trong cơ sở kinh tế của xã hội. Các điều kiện và
yếu tố như đối sánh giai cấp mức độ gay gắt của những mâu thuẫn xã hội, các
đảng phái chính trò, các trào lưu chính trò pháp lý đều có ảnh hưởng đến sự phát
triển của nhà nước. Đồng thời, nhà nước luôn tác động mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế,
đến những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội cũng như đến các
hiện tượng xã hội khác.
** NN so v

ới các tổ chức chính trị xã hội khác:
Trong xã hội có giai cấp, để bảo vệ và thực hiện những lợi ích của mình, ngoài
nhà nước ra, giai cấp thống trò còn thiết lập nhiều tổ chức chính trò xã hội khác nữa
trong đó đáng chú ý nhất là các đảng phái chính trò.
So với các tổ chức chính trò xã hội đó, nhà nước có một vai trò đặc biệt, nó nằm ở
vò trí trung tâm giữa các tổ chức chính trò xã hội, bởi vì chỉ nhà nước mới có các cơ
quan đặc biệt cùng với các phương tiện vật chất kèm theo như quân đội, cảnh sát,
toà án, nhà tù cho nên nó có thể tác động một cách mạnh mẽ và toàn diện đến
đời sống xã hội. Sự tác động của nhà nước đến quá trình phát triển của xã hội
được thực hiện thông qua việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách nhằm thực

hiện các nhiệm vụ chính trò của giai cấp cầm quyền. Các chủ trương chính sách
của nhà nước bao giờ cũng thể hiện một cách trực tiếp lợi ích kinh tế, chính trò của
các giai cấp.
Chẳng hạn:
+ Chính sách của nhà nước tư sản luôn luôn xuất phát từ chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất tư bản chủ nghóa, phản ánh và bảo vệ các lợi ích chung của giai cấp tư
sản.
+ Chính sách của nhà nước xã hội chủ nghóa dựa trên chế độ sở hữu xã hội chủ
nghóa về tư liệu sản xuất luôn phản ánh và bảo vệ lợi ích chung của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Nhà nước giữ vai trò quyết đònh trong việc thực hiện những lợi ích cơ bản của giai
cấp cho nên sự tham gia của nhà nước vào việc xác đònh nhiệm vụ chính trò, kinh
tế, xã hội, xác đònh phương hướng, hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước
là yếu tố quan trọng trong chính sách của nhà nước.
Đặc trưng của NN:
Trong xã hội có giai cấp, để bảo vệ và thực hiện những lợi ích của giai cấp mình,
ngồi NN ra, giai cấp thống trị còn thiết lập nhiều tổ chức chính trị xã hội khác, trong
đó có các đảng phái chính trị. Trong các tổ chức chính trị xã hội này, NN nằm ở vị trí
trung tâm, vì: NN có các cơ cơ quan đặc biệt và các phương tiện vật chất khác kèm
theo mà các tổ chức chính trị xã hội khác khơng có được.
- So với các tổ chức khác trong XH có giai cấp, NN có một số

đặc

trưng

sau đây:
+ NN thiết lập một quyền lực cơng cộng đặc biệt khơng còn hồ nhập vào dân cư
nữa. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị. NN là một tổ chức đặc biệt có
nhiệm vụ quản lý xã hội.

Để thực hiện quyền lực NN và để quản lý xã hội, NN tạo ra một hệ thống các cơ
quan NN, là cơng cụ đặc biệt khơng còn hòa nhập với dân cư như: tòa án, nhà tù ,
cảnh sát … trong đó có một lớp người chun làm nhiệm vụ quản lý để duy trì địa vị
của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp
thống trị. Những con người đó là cơng chức, viên chức được bổ nhiệm hoặc do dân
bầu và được hưởng lương từ ngân sách NN. Điều này khác biệt so với thành viên của
các tổ chức khác trong xã hội như: MT, HLHPN, ĐTNCS… là những người tự
nguyện tham gia và được sự tín nhiệm bầu cử và khơng được hưởng lương từ ngân
sách NN.
- NN phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, khơng phụ thuộc
vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính… Việc phân chia này quyết
định phạm vi tác động của NN trên quy mơ rộng lớn nhất và dẫn đến việc hình thành
nên các cơ quan NN từ trung ương đến địa phương.
So với NN, các tổ chức khác trong xã hội (MT, HLH, dân tộc, tơn giáo…) là những
tổ chức bao gồm những thành viên có chung một đặc điểm nhất định nào đó về giới
tính (HLHPN), về độ tuổi (ĐTN) hay về sự tín ngưỡng (Phật giáo, Tiên chúa giáo) và
nguồn gốc xuất thân (Dao, Kinh, tày, Nùng…)… Đối với NN thì khơng, NN là một tổ
chức đặc biệt của mọi người dân, của mọi thành viên trong xã hội dù người đó thuộc
dân tộc, tơn giáo, tham gia tổ chức nào…
Ví dụ : Ở NN CHXHCN Việt Nam là NN bao gồm 54 dân tộc anh em cũng sinh
sống, tồn tại các giới tính nam nữ, cơng nhận nhiều tơn giáo: Phật giáo, Thiên chúa
giáo, Tin lành, Hồ hảo, Cao đài… có thể khác nhau về giới tính, có thể khác nhau
về chính trò nhưng vẫn là công dân của NN.
Để thuận lợi cho việc quản lý xã hội, NN bao giờ cũng phân chia dân cư trên lãnh
thổ theo đơn vị hành chính… tuỳ thuộc vào điều kiện, thể chế chính trị của mỗi quốc
gia. NN Việt Nam phân chia lãnh tổ của mình thành 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh và
thành phố trực thuộc trung ương (58 tỉnh và 5 thành phố).
- NN có chủ quyền quốc gia . Chủ quyền quốc gia có nội dung chính trị, pháp lý thể
hiện quyền độc lập tự quyết về những chính sách đối nội và đối ngoại khơng phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngồi. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính khơng thể chia cắt

của NN.
Nếu thiếu đặc trưng này thì khơng được gọi là NN.
Ví dụ: Trên thế giới có một số vùng lãnh thổ dân cư rất đơng đúc và có tiềm lực kinh
tế rất mạnh, điển hình là Đài Loan hiện nay hay Hồng Kơng, Macao trước kia, khơng
được gọi là NN. Để được xác định là một quốc gia hay một NN thì NN đó phải đảm
bảo 3 yếu tố: lãnh thổ - dân cư – chủ quyền. Trước năm 1945, trên bản đồ thế giới
khơng có nước Việt Nam mà chỉ là xứ An Nam vì còn đang nằm dưới ách đơ hộ của
thực dân Pháp. Pháp chia xứ An Nam thành 3 kỳ: bắc kỳ, Trung kỳ và nam kỳ. Mọi
vấn đề đối nội, đối ngoại do người Pháp quyết định.
- NN ban hành PL và thể hiện sự quản lý bắt buộc của mình đối với mọi cơng dân.
Với tư cách là người đại diện chính thức của tồn bộ xã hội, NN là chủ thể duy nhất
có quyền ban hành PL và quản lý xã hội trênc ơ sở hệ thống PL do mình ban hành. PL
do NN ban hành có tính bắt buộc chung, mọi cơng dân đều phải tơn trọng và thực hiện
theo PL.
Các tổ chức khác trong xã hội chỉ được quyền ban hành các thể lệ, điều lệ, quy chế,
… và những thể lệ đó chỉ có hiệu lực điều chỉnh trong nội bộ tổ chức đó.
Ví dụ: Điều lệ Đảng CSVN chỉ có hiệu lực điều chỉnh đối với trên 3 triệu đảng viên,
còn những người khác trong xã hội thì khơng điều chỉnh được. Thế nhưng, khi một
quy phạm xã hội ban hành (chẳng hạn như: “người nào giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái PL nghiêm trọng của nạn nhân đối với
người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì bị phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm”) thì bất kỳ ai, có xuất xứ như thế nào, thuộc dân tộc nào,… cũng phải tn
theo. Điều 12 - HP 1992 đã quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng PL, khơng
ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan NN, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cơng dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến Pháp,
PL, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và PL. Mọi
hành động xâm phạm lợi ích của NN, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của
cơng dân đều bị xử lý theo PL”.
NN nào thì có PL của NN ấy. Tất cả những người vi phạm phải chịu những chế tài
tương ứng theo quy định của PL. PL của NN CHXHCN Việt Nam tn thủ ngun tắc

chung của quốc tế nhưng vẫn độc lập trong việc ban hành các quy phạm PL của mình.
Chúng ta thấy ở trường hợp Lê Cơng Định, khi NN ta xem xét và kết tội chống phá
chính quyền thì dư luận thế giới đã cho rằng VN mất dân chủ, vi phạm nhân quyền.
Thật ra đây là luận điệu xun tác của các thế lực thù địch, chống phá. Nhìn lại sự
kiện 11/9/2001 ở Hoa Kỳ, từ đó, Chính phủ Hoa kỳ đã liên tiếp phát động nhiều cuộc
chiến tranh vơ lý với lý do là chống khủng bố, bảo vệ quốc gia mình. Thế thì tại sao
VN khơng có quyền xử lý những kẻ chống phá chính quyền để bảo vệ đất nước. Nếu
NN ta không có đặc trung này thì nước ta dễ bò xiêu lòng
- NN quy định và thực hiện viêc thu các loại thuế dưới các hình thức bắt buộc, với số
lượng và thời hạn bắt buộc trước.
NN là chủ thể quy nất được đặt ra các loại thuế và tiến hành thu thuế để phục vụ cho
nhu cầu về phương diện kinh tế. Bất kỳ một tổ chức nào khác trong xã hội đều khơng
có quyền này. Chúng ta nhận thấy, NN xây dựng một hệ thống các cơ quan NN thực
hiện việc quản lý xã hội, do đó chính NN phải ni sống bộ máy giúo việc đó của
mình. Hơn nữa NN còn phải chăm lo đến những cơng việc chung của tồn xã hội. Vì
vậy, NN huy động các nguồn vốn trong xã hội thơng qua việc đặt ra các loại thuế và
tiến hành thu thuế. Tồn bộ số tiền thu được nhập về ngân sách NN và được tính tốn
chi tiêu , trang trải cho tồn bộ các hoạt động trong xã hội.
Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất hoặc UBTVQH mới có
quyền ban hành các đạo luật thuế và pháp lệnh về thuế. Sau đó, giao nhiệm vụ cho cơ
quan thuế và các cơ quan có liên quan tiến hành thực hiện việc thu thuế và quản lý
việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mọi cơng dân.
Những đặc điểm trên nói lên sự khác nhau giữa NN với các tổ chức CT-XH
khác, đồng thời cũng phản ánh vai trò và vò trí của NN trong XH có g/c.
Câu 5: Bản chất và những đặc tính cơ bản của NN CHXHCN VN
1. Đặt vấn đề:
Ở Việt Nam, tháng Tám năm 1945, nắm vững thời cơ khi phát xít Nhật đầu hàng
đồng minh, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã phát động nhân dân ta vùng
dậy làm cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa -
NN công nông đầu tiên ở Đông Nam châu á.

Ngay từ khi mới ra đời, NN cộng hòa non trẻ đã phải tiến hành cuộc kháng chiến
chín năm chống thực dân Pháp, năm 1954 miền Bắc được giải phóng, miền Nam vẫn
tiếp tục cuộc kháng chiến chống xâm lược và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Trong điều kiện đó chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta đã làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
Tháng 4/1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, Việt Nam bước sang một giai đoạn
phát triển mới - giai đoạn cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trước
những thử thách lớn lao của thời đại, với đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng
đề ra và được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992, NN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã và đang từng bước đổi mới, vượt qua khủng hoảng, vững chắc đi lên
theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh.
2. Bản chất của NN.CHXHCNVN
NN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã được tìm
tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở của lý luận khoa học nói trên. Nhưng đồng thời, bên cạnh
những “cái chung”, bản chất NN Việt Nam còn thể hiện những nét riêng
Điều 2 Hiến pháp 1992 được sửa đổi theo nghị quyết 51/QH quy định về bản chất
của NN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam: “NN CHXH CNVN là NN pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Bản chất của NN ta là:
- NN CHXH CNVN là NN pháp quyền XHCN:
Từ khi ra đời đến nay, tính nhân dân và tính quyền lực nhân dân là cái cơ bản, xuyên
suôt thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cho đến trước khi đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, mặc
dù trong các bản Hiến pháp 1946,1959,1980 đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng pháp luật và tổ chức Bộ máy nhà nước. Bắt đầu từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ
khóa VII (1-1994) Đảng ta dùng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong nội dung phần 2 về những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới đã nêu nhiệm
vụ thứ 7: « xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân ». Tiếp
theo các Đại hội VIII, IX, Đảng đã khẳng định tinh thần quan điểm này. Văn kiện đại

hội X khẳng định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
NN pháp quyền là NN tuyên bố và thừa nhận trên thực tế NN nói chung và tất cả các
cơ quan, cũng như những người có chức vụ bị ràng buộc bởi pháp luật tức là hoạt
động trên cơ sở các đạo luật và để chấp hành pháp luật.
NN pháp quyền là NN mà trong đó các đạo luật điều chỉnh những quan hệ xã hội
quan trọng nhất, đồng thời bảo đảm được tính tối cao của Luật đối với các văn bản
quy phạm khác.
Như vậy Nhà nước pháp quyền là mục tiêu mà nhân dân ta đang xây dựng. Điều 2
Hiến pháp ghi nhận, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
pháp quyền khơng phải là một kiểu nhà nước riêng biệt, cao hơn nhà nước XHCN, mà
nó là thuộc tính cần có của bất cứ nhà nước nào muốn tồn tại một cách bền vững. Với
ý nghĩa đó, nó cũng là thuộc tính cần có của nhà nước CHXHCN Việt Nam. CNXH
khơng cản trở, khơng mâu thuẫn việc xây dựng nhà nước pháp quyền mà ngược lại nó
cần nhà nước pháp quyền, vì đó là điều kiện để thể hiện mình là một xã hội văn minh,
do nhân dân làm chủ.
Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng thể hiện ở các đặc trưng sau:
+ Đó là nhà nước của dân do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
. Khác với NNPQ Tư sản, trong NNPQ Việt Nam không có sự phân lập quyền
lực NN và đối trọng lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực. Quyền lực trong nhà
nước pháp quyền XHCN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. (Nguyên
tắc tập trung dân chủ được quán triệt trong việc quy đònh chức năng nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan nhà nước. Quốc hội nước Việt Nam là cơ quan đại biểu

cao nhất của dân và cũng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng
hoà XHCN Việt Nam)
. Các cơ quan Xét xử của nhà nức pháp quyền Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. (Đảng và nhà
nước ta luôn đổi mới hệ thống tư pháp, đào tạo cán bộ tư pháp nhất là chuyển
Thẩm phán từ chế độ bầu sang chế độ bổ nhiệm. Bộ luật tố tụng hình sự quy đònh
trong nguyên tắc tố tụng là trong hoạt động xét xử có Hội thẩm nhân dân tham
gia, khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân ngang quyền nhau …
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật, đảm bảo cho
Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Nhà nước tơn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và cơng dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường
kỷ cương, kỷ luật.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng cộng sản VN lãnh đạo
đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận
- Quyền lực NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp
cơng nhân, giai cấp nơng dân và trí thức làm nền tảng:
Bên cạnh ghi nhận Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp
ghi nhân NN ta là NN của dân, do dân và vì dân. Điều này thể hiện bản chất nhân dân
và tính quyền lực nhân dân sâu sắc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
+ Nhà nước của nhân dân là Nhà nước mà ở đó tất cả hoạt động của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội cũng như của các cơng dân đều do nhân dân quyết định (nhân
dân là người làm chủ đất nước). Thể hiện qua những phương diện cụ thể sau:
. Nhà nước là NN của đại đa số dân cư trong XH bao gồm giai cấp công nhân và
nhân dân dân lao động. Sứ mạng của NN là chuyên chính vô sản. NN thực sự dân chủ
với đại đa số nhân dân lao động và trấn áp đối với g/cấp bóc lột và là tàn dư trước đây.
NN không chỉ là bộ máy cưỡng chế mà nó còn là một t/chức thay mặt nhân dân quản

lý nền kinh tế XH.
. NN luôn giữ vai trò tích cực, sáng tạo, là công cụ để xây dựng 1 XH nhân đạo, công
bằng và bình đẳng.
Đảng ta đã chỉ rõ “…xây dựng CNXH ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu
nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một XH nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có
kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của ĐCSVN, một lần nữa khẳng
định: “Thực hiện dân chủ XHCN, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là
nghĩa vụ quan trọng hàng đầu và cũng là bản chất tốt đẹp của NN ta”.
+ Nhà nước do nhân dân tức là các cơ quan nhà nước đều do nhân dân thành lập ra
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước
thông qua lá phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp - là người đại diện cho
ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân lao động. Nhân dân thực hiện quyền
lực của mình thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
NN. Kiến nghị, khiếu nại những việc làm sai trái của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền
của NN làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. (Quốc hội do nhân
dân trực tiếp bầu ra; Chính phủ do nhân dân gián tiếp bầu ra…).
+Nhà nước vì nhân dân: Tức là một nhà nước mà hoạt động của các cơ quan nhà
nước đều hướng tới một mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Hay nói cách khác là
Nhà nước mà mục tiêu tối thượng trong hoạt động của NN là bảo vệ và phục vụ lợi ích
của nhân dân lao động. Điều này được thể hiện ở nhà nước ta ở chỗ mặc dù quyền lực
nhà nước là thuộc về toàn thể nhân dân, nhưng giai cấp lãnh đạo vẫn là giai cấp công
nhân, mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức.
NN CHXHCNVN là NN của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng là người
sáng lập ra NN, mọi hoạt động của NN đều nhằm phục vụ cho nhân dân. Chính vì vậy
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Điều này thể hiện: quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, bộ máy NN do
nhân dân thành lập nên và mọi hoạt động của NN đều nhằm phục vụ cho lợi ích của

toàn XH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định :
“ NN ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là NN pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. NN quản lý xã hội bằng pháp luật”.
Như vậy, tính nhân dân và quyền lực nhân dân là cái cơ bản, xuyên suất, thể hiện bản
chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài ra, bản chất NN ta còn được biểu hiện cụ thể ở những đặc trưng cơ bản sau
đây:
3. Đặc tính cơ bản của NN CHXHCN Việt Nam:
- NN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một NN dân chủ thực sự, có tính xã
hội rộng rãi:
Dân chủ: thường dùng trong chế độ chính trị, tức là quyền lực tối cao thuộc về nhân
dân, do nhân dân thực thi. (nhân dân là chủ thể của quyền lực )
Xuất phát từ mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, đảm bảo cơng bằng
xã hội, NN Việt Nam đã quan tâm một cách đặc biệt và tồn diện tới việc giải quyết
các vấn đề của tồn xã hội. Ví dụ: Xây dựng cơng trình phúc lợi, giải quyết vấn đề
bức xúc nhất của xã hội… và khơng ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Điều 3 Hiến pháp nước ta đã chỉ rõ ‘NN bảo đảm và khơng ngừng phát huy quyền
làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển tồn diện; nghiêm từ mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc và của nhân dân".
Trở lại lịch sử hình thành và phát triển của nước CHXHCN VN có thể nhận thấy:
Những thiết chế nhà nước đầu tiên ra đời đã dựa trên cơ sở của dân chủ: Các hình thức
Quốc dân đại hội để bầu ra chính phủ lâm thời; tổng tuyển cử để bầu Chủ tịch nước và
đại biểu Quốc hội những năm đầu tiên sau khi cách mạng tháng Tám thành cơng; sự
ghi nhận chính thức trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980, và 1992 về xác định quyền lực
tối cao thuộc về nhân dân đã khẳng đính rõ mục tiêu và những bước phát triển của

chế độ dân chủ của nước ta
Có thế nói dân chủ là một chế độ chính trị, vừa là qun tham gia quản lý nhà nước
và xã hội của nhân dân, là phương thức và ngun tắc tổ chức xã hội, trong đó có
quyền của mỗi cá nhân; coi trọng cả dân chủ về chính trị, dân chủ về kinh tế và dân
chủ trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa xã hội.
NN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một NN dân chủ. Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một kiểu NN xã hội chủ nghĩa nên cũng là NN dân chủ. Tuy nhiên,
bên cạnh cái chung đó, NN Việt Nam có những cái riêng khác. Bản chất dân chủ của
NN ta thể hiện một cách tồn diện, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hóa và xã hội
+Trong lĩnh vực kinh tế:
. NN thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế, tạo ra những điều kiện làm
cho nền kinh tế đất nước có tính năng động, xây dựng quna hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX
. NN chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu
và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh cho phép mọi đơn vị kinh tế đều có thể hoạt
động theo cơ chế tự chủ trong sản xuất, kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau và
đều bình đẳng trước pháp luật.
=> Để thực hiện chủ trương dân chủ hóa trong lónh vực kinh tế, nhà nước ta đã
chú trọng giải quyết vấn đề căn bản mang tính nguyên tắc là bảo đảm lợi ích kinh
tế của người lao động, coi đó là động lực, đồng thời là mục tiêu của dân chủ hóa.
Tuy nhiên lợi ích vật chất (kinh tế) luôn phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với
các lợi ích chính trò, tư tưởng, văn hóa, xã hội. Đồng thời, lợi ích cá nhân phải hài
hòa với lợi ích của tập thể và xã hội.
Đ15 HP92 “NN thực hiện nhất qn chính sách phát triển nền ktế thị trườg định
hướng XHCN. Cơ cấu ktế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
trong đó sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể là nền tảng”
+ Trong lĩnh vực chính trị:
. NN tạo cơ sở pháp lý vững chắc, trong đó quy định tất cả các quyền tự do, dân chủ

trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân được làm chủ về mặt chính trị. Ví
dụ: Hiến pháp quy định các quyền tự do, dân chủ cơ bản của cơng dân; Luật bầu cử…
. NN xác lập và thực hiện cơ chế dân chủ đại diện thơng qua chế độ bầu cử và bãi
miễn đại biểu nhân dân vào các cơ quan dân cử. Đ6 HP “Nhân dân sdụng qlực NN
thơng qua Quốc hội và HĐ ND là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm truớc nhân dân”.
. Bên cạnh đó, nhà nước chú trọng thiết lập và bảo đảm thực hiện đầy đủ chế độ dân
chủ trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia thực sự vào cơng việc quản lý NN,
quản lý xã hội; tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghò, thảo luận một cách dân chủ,
bình đẳng vào các vấn đề thuộc đường lối, chủ trương, chính sách, các dự thảo văn
bản pháp luật quan trọng làm cho nhân dân thực sự là chủ thể của những chủ
trương, chính sách, pháp luật đó chứ không phải chỉ là những người phục tùng một
chiều.
. Hiến pháp của Việt Nam ghi nhận tồn bộ các quyền chính trị, xã hội và quyền tự
do cá nhân, tự do ngơn luận, báo chí, hội họp, mít tinh, lao động, học hành, nghỉ ngơi,
tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở, tự do đi lại và bảo đảm
cho tất cả cơng dân được hưởng các quyền đó. Điều đó phù hợp với bản chất của nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, coi mục đích và động lực chính của sự phát triển dân
chủ là vì con người, do con người. Ví dụ: Đ69 “CD có q tự do ngơn luận, tự do báo
chí, có q được thơng tin; có quyền hội họp, lập hội Đ70 “ CD có q tự do tín ngưỡng
tơn giáo, theo họăc ko theo 1 tơn giáo nào Kơ ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng
tơn giáo hoặc lợi dụng tín ng tơn giáo để làm trái PL và CS của NN”
. Nhà nước Việt Nam là nhà nước gần dân và thân dân. Nhà nước ln coi trọng
việc lắng nghe ý kiến của nhân dân, chú trọng việc xem xét, giải quyết các đơn thư
khiếu nại, tố cáo của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia góp ý kiến xây dựng đất
nước.
. Nhà nước kiên quyết ngăn chặn và xử lý mọi biểu hiện dân chủ cực đoan, gây rối
làm mất ổn định tình hình chính trị, xâm hại đến lợi ích quốc gia và các quyền chính
trị của nhân dân.
Ví dụ: Một số tội danh được quy định trong BLHS năm 1999 như Lạm dụng chức

vụ quyền hạnh CĐTS, nhận hối lộ…
=> Để bảo đảm thực hiện quá trình dân chủ hóa và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, nhà nước luôn đặt ra cho mình nhiệm vụ phải tôn trọng sự kiểm tra,
giám sát của nhân dân, đẩy mạnh và không ngừng đấu tranh chống tệ quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, xử lý nghiêm minh, đúng pháp
luật và không có ngoại lệ đối với bất cứ ai có hành vi vi phạm.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và xã hội
. NN chủ trương tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần nhằm phát huy mọi khả
năng của con người. Ví dụ, Điều Đ31 HP “NN tạo đk để cd phát triển tồn diện, giáo
dục ý thức cơng dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pl”
. NN quy định các quyền tự do trong lĩnh vực văn hố tư tưởng và bảo đảm cho mọi
người thực hiện các quyền đó như tự do ngơn luận, tính ngưỡng, nghỉ ngơi, lao
động…Đ69 “CD có q tự do ngơn luận, tự do báo chí, có q được thơng tin; có quyền
hội họp, lập hội ”
. NN chủ trương tự do tư tưởng, tuy nhiên cũng nghiêm cấm hành vi lợi dụng tự do,
dân chủ để làm tổn hại lợi ích quốc gia, lợi ích dân dộc: Đ33 HP “ Nghiêm cấm
những họat động văn hóa thơng tinlàm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách
đạo đức và lối sống tốt đẹp của người VN”. CD có q tự do tín ngưỡng tơn giáo nhưng
ko dc lợi dụng tơn giáo để làm trái qd của pl. Đ70 “ CD có q tự do tín ngưỡng tơn
giáo, theo họăc ko theo 1 tơn giáo nào Kơ ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng tơn
giáo hoặc lợi dụng tín ng tơn giáo để làm trái PL và CS của NN”.
Hệ tư tưởng qn xuyến trong tồn bộ q trình này là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và hệ quan điểm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra.
Ngun tắc cơ bản để thực hiện dân chủ, phát huy quyền lực NN và quyền làm chủ
của nhân dân là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với NN và tồn bộ hệ thống chính
trị.
- NN thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam
NN Cộng hòa XHCN Việt Nam trong tất cả các thời kỳ phát triển của mình đều coi
"đại đồn kết dân tộc" là một ngun tắc cơ bản để thiết lập chế độ dân chủ, phát huy
quyền lực nhân dân, bảo đảm cơng bằng XH, đồng thời là cơ sở để tạo ra sức mạnh

của một NN thống nhất. Nhà nước ta là nhà nước thống nhất của 54 dân tộc anh em.
Chính sách đại đồn kết dân tộc thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản của Nhà nước
Việt Nam:
+ Một là, xây dựng một cơ sở pháp lý vững vàng cho việc thiết lập và củng cố khối
đại đồn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham gia một cách tích
cực nhất vào việc thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh và quyền lực nhà nước.
Điều này được thể hiện rõ trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và các văn
bản pháp luật quan trọng khác, như Đ5 “NN CH XHCN VN là NN thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước VN. NN thực hiện chính sách bình đẳng, đồn
kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc”
+ Hai là, NN tổ chức thực hiện trong các hoạt động cụ thể của mình và của tồn bộ
hệ thống chính trị để đảm bảo ngun tắc đồn kết dân tộc.Tất cả các tổ chức Đảng,
NN, Mặt trận tổ quốc, Cơng đồn, Đồn thanh niên. . . đều coi việc thực hiện chính
sách đồn kết dân tộc, xây dựng NN Việt Nam thống nhất là mục tiêu chung, là
ngun tắc hoạt động của tổ chức mình.
Ví dụ: Tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị đều coi viêc thực hiện chính sách
đồn kết dân tộc, xây dựng NN thống nhất là mục tiêu chung, là ngun tắc hoạt động
của tổ chức mình.
+ Ba là, trong khi tổ chức thực hiện, nhà nước ln chú trọng việc ưu tiên đối với
các dân tộc ít người, các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các dân tộc
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hòa hợp, đồn kết, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng văn minh. Đ5 “NN thực hiện CS
phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống VC và TT của đồng bào dân tộc
thiểu số”
+ Bốn là, chú ý tới điều kiện, hồn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, tơn
trọng các giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng bản sắc
riêng của dân tộc Việt Nam với đầy đủ tính phong phú mà vẫn bảo đảm sự nhất qn
và thống nhất.
Ví dụ: Các chính sách xây dựng miền núi, ưu tiên đầu tư, ưu tiên chính sách đi học.
- NN VN thể hiện tính xã hội rộng rãi:

Khác với các nhà nùc khác, nhà nước ta một mặt vẫn thể hiện rõ tính giai cấp
của mình (là NN mà nền tảng là liên minh g/cCN với nông dân và đội ngũ trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng) nhưng mặt khác, nó lại thể hiện tính chất XH rất rộng
rãi.
Vì mục tiêu dân giàu nước mạnh nên NN Việt Nam đã thực hiện các chính sách XH
vì lợi ích của tất cả các tầng lớp trong XH: như chính sách phúc lợi XH, đầu tư cho
phòng chống thiên tai, vấn đề chế độ y tế, giải quyết việc làm, chống thất nghiệp, giúp
đỡ người bà cơ đơn. trẻ em mồ cơi, chống tệ nạn XH…
Nhà nước không những chỉ đặt ra cơ sở pháp lý mà còn thực hiện việc đầu tư thỏa
đáng cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời coi việc giải quyết các vấn
đề này là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và của Nhà nước nói chung.
- NN thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị.
Bản chất của NN CHXHCN VN khơng chỉ thể hiện trong các chính sách đối nội mà
còn thể hiện cả trong chính sách đối ngoại:
. Phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" thể hiện
một đường lối ngoại giao mở của NN ta.
. Điều 14 Hiến pháp 1992 đã khẳng định:
"Nước Cộng hòa xã hội chủ nghóa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình hữu
nghò, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thê' giới, không phân
biệt chế độ chính trò và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập chí quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và các bên cùng có lợi , tăng cường đoàn kết hữu nghò và quan hệ hợp tác với
các nước xã hội chủ nghóa và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiên bộ xã hội".
Tóm lại của câu:
Những đặc điểm có tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghóa Việt Nam trong các điều kiện hiện tại đã được thể hiện cụ thể trong các
nhiệm vụ, chức năng của nhà nước và được pháp luật quy đính một cách chặt chẽ,
đồng thời được phản ánh trong tổ chức và hoạt động thực tiễn của Nhà nước ta.

Đương nhiên, để có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, đòi hỏi để bảo đảm giữ vững
và phát huy bản chất của "nhà nước của dân, do dân và vì dân", Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghóa Việt Nam còn cần phải tiếp tục đổi mới nhiều mặt, cải tổ sâu
sắc từ cơ cấu tổ chức đến hình thức và phương pháp hoạt động phù hợp với các quy
đònh của luật pháp để từng bước xây dựng và phát triển thành nhà nước pháp
quyền Vìệt Nam.
(cần thì lấy)
NN cộng hồ XHCN việt Nam là NN pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Tất cả quyền lực NN thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp cơng nhân với cấp nơng dân và tầng lớp trí thức.
Trong giai đoạn hiện nay để phát huy quyền làm chủ của nhân dân thể hiện được bản
chất nhân dân sâu sắc, Nhà nước “cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo
đảm ngun tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân cơng phối hợp giữa các cơ quan trong quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng và hồn thiện thể chế giám sát,
kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền” (Văn kiện Đại hội X)
*Ý nghĩa của quy định trên trong việc đảm bảo nền dân chủ XHCN:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ
chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân
dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và
công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân, đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát
của nhân dân.
-Đây là cơ sở pháp lý để nhân dân thực hiện quyền lực của mình

-Thể hiện bản chất tốt đẹp của nhà nước ta.
-Đề cao, tôn vinh vị trí của nhân dân, người chủ thực sự của đất nước
CHUN ĐỀ 2: CHỨC NĂNG CỦA NN XHCN
CÂU 6: CHỨC NĂNG NHÀ NƯỚC
Nhiệm vụ của NN là mục tiêu mà NN cần đạt tới, là những vấn đề cần đặt ra mà NN
phải giải quyết. Để đạt được nhiệm vụ của NN, NN cần chia ra những nhiệm vụ cụ thể
và để thực hiện được các nhiệm vụ cụ thể này NN xác định các hoạt động cơ bản cũng
như những phương hướng thực hiện nhiệm vu. Những mặt hoạt động của NN để đạt
được mục đích của NN gọi là chức năng.
1 - Chức năng của NN

:

Là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của NN
nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước NN.
Chức năng của NN được xác định xuất phát từ bản chất của NN, do cơ sở kinh tế
và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
+ Chức năng của NN được quy định một cách khách quan bởi cơ sở kinh tế và xã hội
(kết cấu giai cấp):
V

í dụ

: Các nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất và bóc lột nhân dân lao động cho nên chúng có những chức năng cơ
bản như bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng và phong
trào cách mạng của nhân dân lao động, tổ chức, tiến hành chiến tranh xâm lược để
mở rộng ảnh hưởng và nô ḍch các dân tộc khác. Nhà nước xã hội chủ nghóa có cơ
sở kinh tế là chế độ sở hữu xã hội chủ nghóa, là công cụ để bảo vệ lợi ích của đông
đảo quần chúng lao động, vì vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghóa khác

với chức năng của nhà nước bóc lột cả về nội dung và phương pháp tổ chức thực
hiện.
+ Chức năng của NN do các cơ quan NN–bộ phận hợp thành của BMNN thực hiện.
+ Các chức năng NN có quan hệ mật thiết với nhau và tạo thành một hệ thống thống
nhất
- Phân loại chức năng

:


Trong khoa học pháp lý, việc phân loại cac chức năng cụ thể của NN được thực hiện
theo nhiều cách khác nhau, với những căn cứ khác nhau. Như:
Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền lực NN, ta có: chức năng lập pháp, chức
năng hành pháp, chức năng tư pháp.
Căn cứ vào vị trí vai trò từng hoạt động của NN ta phân chia chức năng NN thành
hai loại: chức năng cơ bản và chức năng khơng cơ bản.
Căn cứ vào thời gian hoạt động có chức năng lâu dài và chức năng tạm thời (trước
mắt).
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của NN, ta có: chức năng kinh tế, chức năng XH…
Có thể phân loại chức năng NN thành nhiều loại nhưng thơng thường căn cứ vào đối
tượng tác động của chức năng là trong nội bộ của quốc gia (Đối nội) hay đối với các
quốc gia hay tổ chức nước ngồi (đối ngoại) mà chức năng chia thành hai loại: Đối
nội và đối ngoại
+ Chức năng đối nội: là những mặt hoạt động chủ yếu của NN trong nội bộ đất
nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp phần tử chống đối …
+ Chức năng đối ngoại: Thể hiện vai trò của NN trong quan hệ với các NN và dân
tộc khác. Vdụ: chống ngoại xâm bên ngồi; hợp tác quốc tế…
Chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết, hỗ trợ, tác động lẫn nhau.
Trong đó chức năng đối nội giữ vai trò chủ đạo, có tính chất quyết định đối với chức
năng đối ngoại. Việc xác định và thực hiện chức năng đối ngoại ln phải xuất phát từ

tình hình thực hiện chức năng đối nội. Thực hiện chức năng đối nội hiệu quả sẽ tạo
điều kiện thúc đẩy thực hiện tốt chức năng đối ngoại. Kết quả của việc thực hiện chức
năng đối ngoại tốt sẽ góp phần tích cực đến việc thực hiện đối nội.
- Hình th



c và ph

ươ

ng pháp thực hiện chức năng NN:
Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại, các NN khác nhau sử dụng những hình
thức và phương pháp khác nhau.
Nhìn chung có 3 hình thức cơ bản đó là: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật, bảo vệ pháp luật. Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động
này cũng có những đặc điểm khác nhau. Ngồi ra, còn có các hình thức khơng hoặc
ít mang tính pháp lý như: tổ chức trực tiếp, tác nghiệp vật chất-kỹ thuật…
Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực
hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng nhưng nh́n chung có hai phương
pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột, cưỡng chế
được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức năng của
nhà nước. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ nghóa, thuyết phục là phương
pháp cơ bản, còn cưỡng chế được sử dụng kết hợp và dựa trên cơ sở của thuyết
phục và giáo dục. Các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông
qua bộ máy nhà nước. (xem thêm trang 109-110, Đề cương bài giảng NN của ĐH
Luật TPHCM).
- Phân biệ

t ch




c n

ă

ng c



a b



máy NN và ch



c n

ă

ng c



a m




i c

ơ

quan NN c



th



.
BMNN là hệ thớng các cơ quan từ trung ương đến địa phương, bao gờm nhiều loại
cơ quan như cơ qaun lập pháp, hành pháp, tư pháp…. Toàn bợ hoạt đợng của bợ máy
nhằm thực hiện các chúa năng của NN phục vụ cho lợi ích của giai cấp thớng trị. Bợ
máy NN gờm nhiều cơ quan, mỡi cơ quan cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng,
phù hợp với phạm vi, qùn hạn được giao. Vì vẫy cần phân biệt chức năng của bộ
máy NN và chức năng của mỗi cơ quan NN cụ thể:
+ Chức năng NN là phương diện hoạt động chủ yếu của tồn thể BMNN, trong đó
mỗi cơ quan khác nhau của NN đều tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau.
+ Chức năng của mỗi cơ quan cụ thể chỉ là những mặt hoạt động chủ yếu của riêng
cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của NN
Ví dụ: Phân tích chức năng của Bộ cơng an để chứng minh
Tóm lại, Chức năng NN là những phương diện hoạt động chủ yếu của NN nhằm để
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước NN. Mỡi kiểu NN có bản chất riêng nên chức
năng của các cơ quan NN tḥc mỡi kiểu NN cũng khác nhau; việc tở chức bợ máy để
thực hiện các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy khi nghiên cứu các
chức năng của NN và BMNN phải x́t phát từ bản chất NN trong mỡi kiểu NN cụ

thể.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×