Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

MỘT số PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG nói

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 62 trang )

MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhật Bản và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay đã được 36
năm. Trong suốt thời gian qua, quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước không
ngừng phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt những năm gần đây
Nhật Bản đã trở thành một trong những nước đầu tư vào Việt Nam nhiều nhất với
nguồn vốn ODA khổng lồ. Các doanh nghiệp Nhật Bản liên tiếp tìm kiếm cơ hội
đầu tư tại Việt Nam. Chính vì vậy nhu cầu học tiếng Nhật để phục vụ cho công việc
của người Việt Nam đang là một vấn đề cấp bách.
Trong những năm qua, số người học tiếng Nhật ở Việt Nam tăng lên vượt
bậc, số người đật chứng chỉ năng lực tiếng Nhật cấp 1, cấp 2 cũng tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, với đặc điểm loại hình khác với tiếng Việt, tiếng Nhật là một ngoại ngữ
rất khó, và để nói tiếng Nhật thành thạo trong công việc là một điều không hề đơn
giản chút nào.
Một thực tế là sinh viên chỉ bắt đầu làm quen với tiếng Nhật khi bắt đầu
bước chân vào trường đại học. Chính vì thế việc yêu cầu sinh viên sau khi ra trường
có thể sử dụng thành thạo ngay như một số ngoại ngữ khác như tiếng Anh, tiếng
Pháp là rất khó. Để sinh viên sau khi ra trường có thể dùng tốt tiếng Nhật trong
công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công phu hơn nữa. Đặc biệt, với những sinh
viên năm thứ nhất thì việc nói chuyện bằng tiếng Nhật là một điều khá xa xỉ, chỉ có
ở trên lớp. Nguyên nhân là do mới được làm quen với tiếng Nhật, vốn từ vựng còn
hạn chế, kiến thức về ngữ pháp, hiểu biết về văn hóa Nhật Bản chưa nhiều.
Với kinh nghiệm giảng dạy suốt 4 năm qua, tôi nhận thấy khả năng nói của
sinh viên chuyên ngành tiếng Nhật thường kém hơn so với những khả năng còn lại,
sinh viên còn rụt rè khi nói tiếng Nhật. Xét về trật tự các thành phần trong câu, trật
tự từ trong câu tiếng Nhật thường ngược so với tiếng Việt, thêm vào đó do ảnh
hưởng của tiếng mẹ để nên nhiều sinh viên hay nhầm lẫn khi sử dụng các từ gốc
Hán. Mặt khác, do sự khác nhau về văn hóa nên một số cách diễn đạt trong tiếng
Nhật không giống cách diễn đạt đó trong tiếng Việt…Những nguyên nhân này đã
khiến sinh viên không tự tin khi nói tiếng Nhật, dẫn đến khả năng nói tiếng Nhật
chưa tốt.


Với những kết quả và kinh nghiệm đã thu được trong quá trình giảng dạy,
cộng với sự trao đổi kinh nghiệm rất nhiệt tình trong đội ngũ giáo viên bộ môn
tiếng Nhật, tác giả hy vọng sẽ nêu được một số phương pháp luyện tập hiệu quả
trong việc nâng cao khả năng nói của sinh viên chuyên ngành tiếng Nhật, đặc biệt là
sinh viên năm thứ nhất. Hy vọng rằng, khi đã có được khả năng nói tốt từ năm thứ
nhất, sinh viên sẽ tiếp tục phát huy những phương pháp luyện tập này trong suốt
1
những năm học tiếp theo để khi ra trường có được kết quả tốt nhất, tự tin dùng tiếng
Nhật trong công việc một cách hiệu quả.
ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài này tập trung nghiên cứu khả năng “nói” của sinh viên năm thứ nhất, chuyên
ngành tiếng Nhật, khoa Ngôn ngữ và Văn hóa phương Đông, ĐH Ngoại Ngữ, ĐH
Quốc Gia Hà Nội.
Để giúp nâng cao khả năng nói tiếng Nhật của sinh viên năm thứ nhất, chuyên
ngành tiếng Nhật, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận liên quan đến khả năng nói, quá trình giao
tiếp. Tìm hiểu những năng lực cần thiết để thực hiện hành vi giao tiếp, vai
trò của kỹ năng nói trong việc học ngoại ngữ nói chung.
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học môn “Nói” của sinh viên năm thứ nhất,
chuyên ngành tiếng Nhật, trường ĐHNN- ĐHQGHN.
- Đề xuất một số phương pháp luyện tập được cho là có hiệu quả trong việc
nâng cao khả năng nói tiếng Nhật của sinh viên năm thứ nhất.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Khảo sát kết quả học môn “Nói” của sinh viên năm thứ nhất.
- Điều tra và tình hình dạy và học môn “Nói” của năm thứ nhất.
- Phân tích những nguyên nhân khiến sinh viên chưa tự tin và nói tiếng Nhật
chưa tốt.
- Trên cơ sở phân tích những đặc trưng của quá trình giao tiếp, những năng
lực cần thiết để thực hiện hành vi nói, đề xuất một số phương pháp được cho
là có hiệu quả trong việc nâng cao khả năng nói của sinh viên năm thứ nhất.

ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Khả năng nói (trình bày vấn đề) là rất quan trọng không chỉ trong công tác
dạy và học ngoại ngữ mà còn rất quan trọng đối với bất cứ ai, ở bất cứ công
việc gì. Ở Việt Nam hầu như chưa có nhiều tài liệu đề cập đến vấn đề nâng
cao khả năng nói tiếng Nhật. Đề tài này hy vọng có thể góp phần nâng cao
khả năng nói tiếng Nhật không chỉ của sinh viên năm thứ nhất mà của các
năm khác, nhằm phục vụ tốt cho công việc sau khi ra trường.
- Giúp sinh viên tự nhìn nhận lại những vấn đề cản trở khi nói tiếng Nhật mà
chính các em đang mắc phải. Từ đó chọn cho mình một phương pháp luyện
tập phù hợp nhất để có thể phát huy tốt hơn khả năng của mình.
- Giúp các giáo viên có thể tham khảo tìm ra một số hình thức luyện tập phù
hợp để rèn luyện không chỉ kỹ năng nói mà cả những kỹ năng khác.
CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Đề tài gồm có 3 phần như sau:
PHẦN MỞ ĐẦU
2
Gồm những thông tin khái quát về đề tài như Lý do và mục đích nghiên cứu, đối
tượng và nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của đề tài, cấu
trúc đề tài.
PHẦN CHÍNH VĂN
Gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề về lý luận
Chương 2: Tìm hiểu tình hình dạy và học môn “Nói” của sinh viên năm thứ nhất,
chuyên ngành tiếng Nhật, ĐHNN- ĐHQGHN.
Chương 3: Đề xuất một số phương pháp nâng cao khả năng nói của sinh viên năm
thứ nhất.
PHẦN KẾT LUẬN
3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN
1.Định nghĩa quá trình “Nói” trong hành vi ngôn ngữ

Trong quá trình dạy và học ngoại ngữ cũng như trong quá trình giao tiếp
bằng ngôn ngữ, chúng ta vẫn nhắc đến 4 kỹ năng cơ bản đó là “Nghe”, “Nói”,
“Đọc”, “Viết”. Trong nghiên cứu này tôi muốn đề xuất một số phương pháp giúp
nâng cao khả năng “Nói” tiếng Nhật của sinh viên năm thứ nhất, chuyên ngành
tiếng Nhật, đại học ngoại ngữ, đại học quốc gia Hà Nội. Vậy thì khả năng “Nói”
được đề cập trong việc dạy và học ngoại ngữ nghĩa là gì?
Trong cuộc sống hàng ngày, với những giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, cũng
như khi giao tiếp bằng ngoại ngữ, các bạn thử nhớ lại xem quá trình từ lúc ta muốn
nói một điều gì đó cho đến khi nói ra được điều đó bằng lời trải qua những giai
đoạn gì?
Theo như cuốn “Hanasu koto wo oshieru”, nằm trong bộ sách “Phương
pháp giáo dục tiếng Nhật” của Quỹ giao lưu Quốc tế Nhật Bản thì để thực hiện
được hành vi “nói” thì phải trải qua những quá trình sau:

Suy nghĩ về nội dung mình muốn nói

Suy nghĩ xem sẽ nói nội dung đó như thế nào

Thực hiện hành vi nói
『話すことを教える』
P.2
より
4
Để thực hiện được quá trình



thì tùy theo mỗi ngôn ngữ lại có những quy
tắc đặc trưng mà người sử dụng ngôn ngữ đó bắt buộc phải nắm được. Tuy nhiên,
trên thực tế thì khi mới học một ngoại ngữ ở trình độ sơ cấp thì sẽ có một khoảng

cách tương đối giữa nội dung mình muốn nói và nội dung mình có thể nói được
bằng ngôn ngữ đó, tức là sẽ có khoảng cách giữa quá trình

với quá trình



.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đề xuất ra một số phương pháp nâng cao
khả năng hội thoại cho sinh viên năm thứ nhất, hay nói cách khác là sẽ tìm ra một
số phương pháp giúp giảm thiểu khoảng cách giữa quá trình

với quá trình



trong khi thực hiện hành vi “Nói” của sinh viên.
2. Đặc điểm quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe.
Thông thường khi thực hiện hành vi “Nói” sẽ phải có hai bên tham gia vào
quá trình giao tiếp, đó là người nói và người nghe. Hay nói cách khác, hành vi
“Nói” có vai trò thực hiện việc giao tiếp giữa người nói và người nghe. Vậy quá
trình giao tiếp giữa người nói và người nghe mang những đặc điểm gì?
Trước khi bắt đầu tiến hành hội thoại với một ai đó, tức là trước khi thực hiện hành
vi “Nói” chúng ta phải suy nghĩ xem mình cần nói nội dung gì với người nghe, và
nói để làm gì. Như vậy, để thực hiện quá trình giao tiếp, trước hết cần có mục đích
giao tiếp. Đây chính là động cơ giúp chúng ta có thể bắt đầu một hành vi “Nói” hay
một cuộc giao tiếp.
Ngoài ra, trong quá trình giao tiếp, nhất thiết sẽ xảy ra các câu hỏi và câu
trả lời về một vấn đề nào đó. Cụ thể, người nói sẽ hỏi người nghe những thông tin
mà người đó chưa biết và người nghe sẽ trả lời. Như vậy hành động giao tiếp sẽ

được thực hiện khi giữa người nói và người nghe tồn tại một khoảng cách thông
tin (information gap) nào đó. Khoảng cách giao tiếp ở đây có thể hiểu là người nói
chưa biết về một thông tin nhưng người nghe đã biết, hoặc là người nói truyền tải
cho người nghe một thông tin mà mình đã biết
Không phải hội thoại nào cũng có nội dung như nhau. Ngoài ra, rất có thể cùng một
nội dung truyền tải nhưng tùy vào thành phần tham gia hội thoại (người nói và
người nghe) khác nhau thì cách thể hiện nội dung đó cũng khác nhau. Hay nói cách
khác người tham gia hội thoại có những quyền như sau:
Thứ nhất, đó là quyền được quyết định nội dung mình sẽ nói trong hội
thoại.
Thứ hai, với nội dung đã quyết định thì người tham gia hội thoại có quyền
chọn cho mình cách biểu đạt, từ ngữ thể hiện mà mình thích. Nói tóm lại, những
người tham gia hội thoại có quyền được lựa chọn nội dung và lựa chọn cách truyền
tải nội dung muốn nói.
5
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì sinh viên gần như không có quyền
lựa chọn khi thực hiện hội thoại vì các giáo viên thường đã cho sẵn mẫu câu và từ
vựng yêu cầu sinh viên luyện nói để quen với mẫu câu đó (kuchinarashi).
Cuối cùng, sẽ không gọi là hội thoại nếu như chỉ có một phía chuyên nói và một
phía chuyên nghe. Nói cách khác, người tham gia hội thoại sẽ luân phiên vai trò của
người nói và người nghe trong suốt quá trình hội thoại. Tức là người nói phải luôn
chú ý phản ứng của phía người nghe để tiếp tục hội thoại và điều chỉnh hành vi
ngôn ngữ sao cho phù hợp. Ngược lại, người nghe cũng phải chú ý đến nội dung
đang được nói để có cách đối đáp lại sao cho thích hợp. Tóm lại các bên tham gia
hội thoại phải thể hiện phản ứng của mình trước các hành vi ngôn ngữ được thực
hiện trong suốt quá trình hội thoại.
3. Những năng lực cần thiết trong quá trình giao tiếp
Trước những năm 1960, việc học ngôn ngữ thường chú ý đến năng lực ngữ pháp.
Tuy nhiên từ sau thập niên 1970 trở đi thì khả năng vận dụng ngôn ngữ được chú ý
hơn trước rất nhiều. Nhà ngôn ngữ học Hymes (1972) đã định nghĩa “Những năng

lực liên quan đến năng lực sử dụng ngôn ngữ, ví dụ như nói với ai, nói như thế nào,
nói vào lúc nào…gọi là “năng lực giao tiếp”. Sau đó, tác giả Canal (1983) đã phân
chia năng lực thành 4 kỹ năng cụ thể gồm có “năng lực ngữ pháp”, “ năng lực ngôn
ngữ xã hội”, “năng lực đàm thoại”, “ năng lực chiến lược”.
3.1 Năng lực ngữ pháp
Năng lực ngữ pháp là những kiến thức liên quan đến kiến thức ngữ pháp như các
quy tắc ngữ pháp, từ vựng, phát âm, cách viết…Năng lực ngữ pháp vốn rất được
chú trọng trong việc giáo dục ngoại ngữ từ trước đến nay.
3.2 Năng lực ngôn ngữ xã hội
Khi sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là khi sử dụng ngoại ngữ, chỉ có kiến thức về ngữ
pháp thôi thì chưa đủ. Một điều rất quan trọng trong khi sử dụng ngôn ngữ đó là khi
muốn “nói gì, với ai, trong trường hợp như thế nào, dùng những cách diễn đạt ra
sao…” cần phỉ chú ý đến những quy tắc vốn có về mặt xã hội và văn hóa của đất
nước đang nói thứ ngôn ngữ đó. Việc đảm bảo các quy tắc đó trong khi sử dụng
ngôn ngữ được gọi là “năng lực ngôn ngữ xã hội”. Năng lực ngôn ngữ xã hội là một
trong những yếu tố đảm bảo cho quá trình giao tiếp diễn ra suôn sẻ.
Hãy xem ví dụ sau đây:
場面:大教の教究室で
(Tại phòng nghiên cứu của giáo sư tại trường đại học)
教生:「先生、先生の論文、見ましたよ。すばらしいですね。すごいです
ね」
Sinh viên: “Thầy giáo ơi, em đã xem Luận văn của thầy. thật là hay, tuyệt thật
6
đấy”.
先生:「...」
Thầy giáo: “……………………”
Trong đoan hội thoại trên, sinh viên khen Luận văn của thầy giáo
「すごい
ですね」
. Người Nhật không bao giờ thể hiện sự đánh giá của mình đối với những

gì liên quan đến cấp trên, thấy giáo… Ngoài ra khi nói chuyện với thầy cô giáo
hoặc cấp trên của mình thì cần phải dùng kính ngữ. Đoạn hội thoại trong ví dụ trên
đã không thỏa mãn hai điều kiện đó. Nói một cách khác, người sinh viên trong đoạn
hội thoại này không có năng lực về ngôn ngữ xã hội, không biết một số quy tắc
hành xử.
3.3 Năng lực đàm thoại
Hội thoại là tập hợp rất nhiều câu có ý nghĩa và theo một trình tự nào đó. Tập hợp
những câu như vậy tạo thành một cuộc đàm thoại hoàn chỉnh. Năng lực đàm thoại
là năng lực biết cấu trúc một đoạn hội thoại hoàn chỉnh nhằm đạt mục đích giao
tiếp. Thông thường hội thoại tiếng Nhật thường gồm 3 phần là “Phần mở đầu”,
“phần nội dung chính”, và “phần kết thúc”.
Hãy thử so sánh hai đoạn hội thoại sau đây:
Ví dụ 1:
A:
あのう、午後は用事あありますので、早く教らせていただきたいんですが。
À, chiều nay tôi có việc, cho phép tôi về sớm nhé.
B:
あ、そうですか。いいですよ。
Thế à, ừ, được thôi.
Ví dụ 2:
A:
あのう、すみません。
Xin lỗi……….
B:
どうしたんですか。
Có chuyện gì thế?
A:
教は、午後、用事がありますので、今日は早く教らせていただけません
か。
À, thật ra là chiều nay tôi có việc, cho phép tôi về sớm có được không?.

7
B:
あ、そうですか。いいですよ。
Thế à, ừ, được thôi.
A:
忙しいところ、すみません。
Xin lỗi đã làm phiền trong lúc anh đang bận rộn thế này.
B:
いいえ。
Không có gì.
Có thể thấy rằng cả hai đoạn hội thoại trên đều có cùng một mục đích là A muốn B
cho phép về sớm. Tuy nhiên đoạn hội thoại ở ví dụ 2 tự nhiên hơn. Nguyên nhân là
vì đoạn hội thoại trong ví dụ B có đầy đủ 3 phần của một hội thoại hoàn chỉnh, đó
là “phần mở đầu”, “phần chính”, và “phần kết luận”. Cụ thể như sau:
A:
あのう、すみません。
B:
どうしたんですか。

Phần mở đầu
A:
教は、午後、用事がありますので、今日は早く教らせていただけません
か。
B:
あ、そうですか。いいですよ。

Phần nội dung chính
A:
忙しいところ、すみません。
B:

いいえ。

Phần kết luận
3.4 Năng lực chiến lược
Trong khi thực hiện quá trình giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp bằng ngoại ngữ sẽ có
trường hợp bạn gặp khó khăn, chẳng hạn như tự nhiên bạn quên không nhớ ra từ
vựng mình định diễn đạt, không hiểu đối tác đang nói gì, đối tác không hiểu được
những điều bạn muốn truyền đạt… Trong những trường hợp như thế này, để cuộc
giao tiếp tiếp tục diễn ra suôn sẻ thì cần phải có “năng lực chiến lược” trong giao
tiếp.
Năng lực chiến lược là năng lực xử lý tình huống trong khi giao tiếp, là cách dùng
nhiều phương pháp thể hiện khác nhau nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Ngay cả
trong trường hợp bạn chưa có đủ năng lực ngôn ngữ xã hội, năng lực ngữ
pháp nếu có năng lực chiến lược tốt bạn vẫn có cách để đạt được mục đích giao
8
tiếp. Chính vì vậy năng lực chiến lược càng đặc biệt quan trọng trong giai đoạn sơ
cấp (khi mà vốn kiến thức từ vựng và ngữ pháp…còn chưa nhiều).
Như vậy để nâng cao khả năng nói của sinh viên năm thứ nhất, giáo viên cần chú ý
có những biện pháp luyện tập toàn diện nhằm giúp sinh viên phát huy cân bằng tất
cả các năng lực nói trên.
4 Tính cần thiết của hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ
Chúng ta đều biết “Nghe”, “Nói”, “Đọc”, “Viết” là 4 kỹ năng cơ bản và rất
quan trọng trong giao tiếp ngôn ngữ cũng như trong quá trình dạy và học ngôn ngữ.
Trong đó mỗi kỹ năng có những đặc trưng riêng, nhưng cả 4 kỹ năng là không thể
tách rời trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ.
Có thể thấy khả năng “nói” là rất quan trọng và được coi là thước đo độ
thành thục trong khả năng ngoại ngữ cũng như ngôn ngữ của một người. Chính vì
vậy, trong quá trình dạy và học ngoại ngữ, người ta rất coi trọng việc đào tạo cho
người học có khả năng nói sao cho có thể vừa tai được mọi đối tượng người nghe từ
trẻ đến già. Việc dạy và học tiếng Nhật đương nhiên không phải là ngoại lệ.

Mặt khác, hành vi “nói” sẽ gây ấn tượng rất sâu đậm đối với người nghe.
Nếu nói một cách trôi chảy, thích hợp với hoàn cảnh sẽ tạo ấn tượng rất tốt đối với
người nghe, thậm chí có giúp ích rất nhiều trong quá trình giao tiếp, cộng tác sau
này. Còn ngược lại nếu có những lời nói không thích hợp với hoàn cảnh (kể cả
không cố tình), hoặc nói không trôi chảy sẽ gây ấn tượng xấu, ảnh hưởng xấu đến
quá trình giao tiếp, thậm chí là ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người với người.
Tùy vào mục đích nói và kỹ năng yêu cầu khi thực hiện mục đích nói mà hành vi
“nói” được chia thành hai loại như sau:
* Đối thoại (Dialogue)
Đây là hành vi nói mà trong quá trình giao tiếp, người tham gia giao tiếp
hoán đổi liên tục giữa vai trò của người nói và người nghe. Để thực hiện loại hành
vi giao tiếp này thì ngoài kỹ năng “nói” cần thiết phải có kỹ năng “nghe” những
điều đối phương đang nói để có sự đối đáp cho phù hợp. Hình thức giao tiếp này có
thể đưa đến những hội thoại đầy tính sáng tạo và có nội dung triển khai phong phú
tùy vào sự ứng đáp của những người tham gia. Có thể chia thành hai loại chủ yếu
như sau:
+ Nghị luận, thảo luận: Hai bên cùng đưa ra căn cứ, ý kiến để tranh luận về
một vấn đề nào đó.
+Hội thoại theo kỹ năng: Nhằm đạt được ý đồ giao tiếp của người nói. Hội
thoại được xây dựng dựa trên cơ sở những mục đích định trước như nhờ vả, cảm
ơn, xin lỗi, xin phép…Trong phạm vi của trình độ sơ cấp thì chủ yếu tập trung hội
thoại theo kỹ năng này. Cụ thể, cần cho sinh viên luyện tập hội thoại theo từng nội
dung cho sẵn như nhờ vả, cảm ơn, xin lỗi, xin phép…hoặc luyện tập những hội
9
thoại nhỏ để có thể dùng thành thục những mẫu câu đã học.
* Độc thoại (Monologue)
Đây là hành vi giao tiếp được thực hiện dưới hình thức một người nói còn
những người khác nghe. Như vậy người nói sẽ thực hiện được hành vi nói từ đầu
đến cuối quá trình giao tiếp, có thể kiểm soát hoàn toàn nội dung mình sẽ nói, và
không có sự hoán đổi vai trò giữa người nói và người nghe. Chính vì vậy người nói

sẽ phải cố gắng sao cho nội dung mình muốn nói được truyền đạt tới người nghe
một cách dễ hiểu và thuyết phục nhất. Có thể chia thành hai loại chủ yếu như sau:
+Hùng biện, diễn thuyết: người nói sẽ nêu ra chủ trương hoặc ý kiến của
mình về một vấn đề nào đó. Kiểu độc thoại này đòi hỏi người nói phải có khả năng
lý luận và khả năng thuyết phục người khác. Trong phạm vi của trình độ sơ cấp thì
tập trung vào việc luyện tập cho sinh viên phát biểu, hùng biện về những chủ đề
đơn giản, thân thuộc, rèn luyện kỹ năng phát biểu một cách dễ hiểu và có sức thuyết
phục với người nghe. Thời gian cho mỗi bài hùng biện có thể kéo dài từ một đến
năm phút.
+ Giải thích, phát biểu: người nói sẽ giải thích về một vấn đề hoặc đưa ra
kết luận về một vấn đề đang được tranh cãi nào đó. Kiểu độc thoại này đòi hỏi
người nói phải biết quan sát phản ứng và dành được sự đồng tình của người nghe
trong khi đang nói. Trong tiếng Nhật kiểu độc thoại này hay xuất hiện trong những
cuộc họp.
5. Mục tiêu của hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ
Trong phần 4, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của hành vi “nói”
trong giao tiếp ngôn ngữ. Còn trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu mục tiêu của
hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn ngữ.
Như đã nêu trong phần định nghĩa, hành vi “nói” bao gồm 3 quá trình, từ
khi nghĩ ra nội dung mình muốn nói, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ thích hợp,
cho đến khi thể hiện được nội dung đó bằng lời nói. Như vậy có thể thấy mục tiêu
của hành vi “Nói” chính là làm thế nào để thể hiện một cách hiệu quả nhất những
điều mà mình muốn truyền tải đến người nghe.
Ngoài ra, khi “nói” có nghĩa là chúng ta đang tham gia quá trình giao tiếp.
Như vậy, nếu chỉ truyền tải được những điều mình muốn nói tới người nghe không
thôi thì chưa đủ. Để quá trình giao tiếp diễn ra một cách có hiệu quả, còn cần phải
có kỹ năng nghe hiểu để có thể nắm bắt được tâm lý và diễn biến tình cảm của
người nghe. Nói tóm lại, mục tiêu của hành vi “Nói” trong quá trình giao tiếp ngôn
ngữ là biết cách tìm các phương tiện ngôn ngữ thích hợp để truyền đạt một cách
hiệu quả nhất những điều mình muốn nói, và đồng thời nắm bắt chính xác nội dung

đối phương muốn truyền tải tới mình.
6. Vai trò của kỹ năng “nói” trong việc dạy và học ngoại ngữ.
10
Bốn kỹ năng quan trọng trong giảng dạy và học tập bộ môn ngoại ngữ là
“nghe”, “nói”, “đọc”, “viết”. Trong đó kỹ năng “nói” có vai trò hết sức quan trọng.
Chúng ta đều biết việc học ngoại ngữ là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự
luyện tập thường xuyên và liên tục. Trong đó kỹ năng “nói” giúp người học có thể
thực hành được những kiến thức về từ vựng, về mẫu câu được học từ các kỹ năng
khác, để vận dụng từng bước, khiến người học có thể tiến hành giao tiếp bằng ngoại
ngữ mà mình được học với những người khác cùng biết ngoại ngữ đó, hoặc với
người bản xứ, giúp chúng ta đạt được các hiệu quả giao tiếp như mong muốn trong
cuộc sống hàng ngày cũng như trong công việc. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa
như hiện nay, giao tiếp bằng ngoại ngữ là một kỹ năng không thể thiếu của con
người hiện đại.
Với sinh viên ở trình độ sơ cấp, những kiến thức học được còn hạn chế về
nhiều mặt, thì kỹ năng “nói” yêu cầu người học phải vận dụng được những kiến
thức đã học để giao tiếp ở mức độ sơ cấp. Thực tế là có rất nhiều sinh viên ngoại
ngữ, mặc dù rất giỏi các kiến thức về ngữ pháp, đọc, viết nhưng lại rất kém và thiếu
tự tin khi giao tiếp chỉ vì không áp dụng được các kiến thức ngoại ngữ đã được học
trong khi giao tiếp. Việc nói được những mẫu câu đã học là một điều tưởng chừng
như đơn giản song trên thực tế lại không đơn giản chút nào.

11
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP
MÔN “NÓI” CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
CHUYÊN NGÀNH TIẾNG NHẬT ĐHNN-ĐHQGHN
1. Thực trạng việc giảng dạy hội thoại cho sinh viên năm thứ nhất chuyên
ngành tiếng Nhật.
Hiện nay, sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành tiếng Nhật được chia thành
5 lớp, học chương trình được chỉ định như nhau. Tiến hành phỏng vấn các giáo viên

đang phụ trách môn tiếng Nhật tổng hợp năm thứ nhất thì được biết, giờ học nói
được thực hiện sau khi sinh viên đã học mẫu câu và từ vựng của từng bài với thời
lượng 2 tiết 1 tuần. Môn “Nói” của mỗi lớp do giáo viên chủ nhiệm của lớp đó phụ
trách, ngoài ra sẽ có thêm 1 tiết bổ trợ do chuyên gia người Nhật phụ trách. Tuy
nhiên đến năm học này thì 2 tiết của môn “Nói” sẽ do chuyên gia Nhật Bản phụ
trách ngay từ đầu. Đây là một biện pháp rất hữu hiệu giúp sinh viên có thêm hứng
thú trong khi thực hành nói thứ tiếng mà mình đang được học và sẽ có điều kiện
được sửa phát âm cho giống với người bản ngữ.
Môn Tiếng Nhật tổng hợp của cùng một lớp được phân công đan xen cho
nhiều giáo viên. Môn chữ Hán do thời lượng tương đối ít nên do một giáo viên phụ
trách. Môn Nói và bổ trợ nói do chuyên gia người Nhật đảm nhiệm. Môn nghe do
giáo viên người Việt đảm nhiệm.
1.1 Giáo trình sử dụng trong
môn hội thoại
Hiện nay, giáo trình được sử dụng cho
môn Hội thoại nằm trong bộ sách “Tiếng
Nhật sơ cấp” do trường Đại Học Ngoại
Ngữ Tokyo biên soạn. Đây là một giáo
trình hay, kiến thức chuyên sâu nhưng rất
12
khó, đòi hỏi giáo viên phải có nhiều thời gian nghiên cứu và dành tâm huyết, giáo
trình này được áp dụng đến nay đã là năm thứ 3, nên đã có khá nhiều đổi mới và cải
tiến, rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy. Hơn nữa giáo trình này đã có phiên
bản trên internet nên sinh viên có thể tự học và luyện tập tại nhà.
Được biết ngoài giáo trình chính kể trên thì các giáo viên dạy môn “Nói”
của sinh viên năm thứ nhất còn thường xuyên tham khảo thêm của các giáo trình
tiếng Nhật sơ cấp khác cũng đang được sử dụng khá rộng rãi như “genki na
Nihongo”, “Minna no Nihongo”, “shin Nihongo bunka”…
1.2 Cơ cấu bài học trong giáo trình
Sinh viên năm thứ nhất dùng Bộ giáo trình “tiếng Nhật sơ cấp” do trường

đại học Ngoại ngữ Tokyo biên soạn. Thời lượng các giờ học tiếng Nhật trong 1 tuần
như trong bảng dưới đây.
Môn học Số tiết
Tiếng Nhật tổng hợp 11
Nói 2
Bổ trợ nói 1
Nghe 2
Chữ Hán 1
Trong đó, giờ học Hội thoại sẽ được tiến hành sau khi sinh viên đã học xong nội
dung của cả bài (ngữ pháp, luyện tập…). Thêm vào đó giờ Bổ trợ nói sẽ do giáo
viên bản ngữ đảm nhiệm nhằm giúp sinh viên có cơ hội nghe và nói tiếng Nhật với
người bản ngữ, và có cơ hội luyện phát âm tốt hơn. Tuy nhiên trong giờ học Hội
thoại thì tập trung chủ yếu vào việc học và luyện tập đoạn hội thoại mẫu trong sách
Kaiwa. Những hội thoại mẫu trong mỗi bài sẽ chứa các mẫu câu học trong bài đó
nên đôi khi bối cảnh còn chưa tự nhiên, chưa thật gần gũi và chưa gây được hứng
thú cho sinh viên.
2. Điều tra khả năng Nói tiếng Nhật của sinh viên năm thứ nhất
Tiến hành điều tra sinh viên năm thứ nhất của trường có thể rút ra một số nhận xét
như sau:
- Sau khi tham khảo bảng điểm các môn tiếng Nhật tổng hợp có thể thấy điểm kỹ
năng Nói luôn thấp hơn so với các kỹ năng khác. Đây cũng là một điều dễ hiểu vì
trong quá trình học ngoại ngữ thì khả năng Nói và Viết vào nhóm kiến thức đầu ra
(output), và sự tiến triển của kỹ năng này luôn đi sau các kỹ năng đầu vào như Đọc
và Nghe.
- Tự tin trong kỹ năng Hội thoại: Đặc thù của sinh viên các trường Ngoại ngữ nói
chung là thích giao tiếp, đặc biệt là giao tiếp với người bản xứ của thứ ngôn ngữ mà
mình đag theo đuổi. Tuy nhiên sinh viên tiếng Nhật thì hơi khác các sinh viên các
13
khoa khác. Nếu như sinh viên chuyên ngành tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung
Quốc, tiếng Pháp… thì trước khi vào đại học đã được học ngoại ngữ một số năm,

đã có kiến thức nền nhất định, khả năng giao tiếp nhất định, thì sinh viên tiếng Nhật
mới chỉ được làm quen với tiếng Nhật từ khi mới vào đại học. Kiến thức chuyên
môn tiếng Nhật chỉ bắt đầu từ con số “Không”. Hơn nữa, trong quá trình học ngoại
ngữ, sự tiến bộ trong kỹ năng Nói và Viết sẽ chậm hơn hai kỹ năng Đọc và Nghe.
Chính vì vậy, sinh viên tiếng Nhật cảm thấy không tự tin khi nói tiếng Nhật, đặc
biệt các sinh viên năm thứ nhất lại càng không tự tin khi phải nói tiếng Nhật.
- Cảm thấy bị gò bó trong câu trả lời: Trong giờ luyện tập trên lớp sinh viên được
luyện tập lại các mẫu câu đã học trong bài. Tuy nhiên việc luyện tập này chỉ mang
tính chất luyện tập để nhỡ mẫu câu chứ chưa giúp sinh viên kết nối, vận dụng các
mẫu câu đó trong khi tiến hành hội thoại.
- Thiếu bối cảnh gây hứng thú cho sinh viên:
Về phần bối cảnh, mặc dù đã cho sinh viên được tữ nghĩ ra bối cảnh khi luyện tập
với nhau nhưng vẫn theo những mẫu câu đã học sẵn nên mục tiêu vẫn hướng vào là
nhớ và dùng chính xác mẫu câu, tất nhiên ở trình độ sơ cấp thì tính chính xác vẫn
được đề cao, tuy nhiên vẫn phải quán triệt tinh thần của môn Hội thoại là phải trôi
chảy, ứng đối nhanh.
- Thiếu cơ hội luyện tập: Do đặc thù của kỹ năng Nói là không thể luyện tập được 1
mình nên hầu hết sinh viên chỉ luyện tập trong thời gian ít ỏi trên lớp rồi về nhà hầu
như không có thời gian luyện tập. Chính vì vậy hội thoại bằng tiếng Nhật vẫn là
một việc khá xa xỉ, sinh viên có nói tiếng Nhật nhưng chưa thật hết mình, chưa thật
tự giác.
- Khả năng hùng biện: Các em còn quá ít cơ hội để được phát biểu bằng tiếng Nhật
trước đông người (speech). Trong chương trình hiện tại chưa có môn học dành cho
kỹ năng hùng biện trước đám đông. Hầu hết các bài speech đều viết theo cảm hứng
tự nhiên, phần feedback của giáo viên còn chưa được nhiều. Các em còn chưa nắm
được làm thế nào để có thể phát biểu tốt trước đám đông, chưa được luyện tập kỹ
năng hùng biện bằng tiếng Nhật. Thậm chí những khi có cơ hội giao lưu với người
Nhật (không phải là giáo viên của mình) thì còn nhút nhát chưa tự tin bắt chuyện,
làm quen. Hàng năm có cuộc thi hùng biện tiếng Nhật do cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản JICA tổ chức, sinh viên trường ta cũng tham gia song còn mang tính cảm

hứng, chưa chuyên nghiệp, nên khả năng đạt giải cao chưa nhiều.
+ Khả năng hội thoại: Mặc dù đã được học một số mẫu câu thực dụng trong sinh
hoạt hàng ngày như cảm ơn, nhờ vả, xin phép, xin lỗi, từ chối… nhưng sinh viên
mới chỉ dừng ở mức nghe hiểu mà chưa biết vận dụng vào hội thoại, chưa vận dụng
một cách nhuần nhuyễn trong khi nói chuyện với người Nhật. Những mẫu câu vừa
học xong cớ thể dùng được ngay trong bài đó nhưng khi học sang một nội dung
14
khác thì lại quên những mẫu đã học hoặc dùng không chính xác. Sau mỗi mẫu câu,
sinh viên có thời gian để luyện tập mẫu câu đó song việc luyện tập đó xem ra chỉ đủ
thời gian cho các em hiểu, nhớ mẫu câu là chính chứ chưa giúp sinh viên thực sự
thấm nhuần để vận dụng vào các tình huống trong thực tế. Đặc biệt, sinh viên chưa
hình dung được cấu trúc của một đoạn hội thoại có hàm chứa các nội dung như cảm
ơn, nhờ vả, xin phép, xin lỗi, từ chối. Chính vì vậy, khi có việc cần trao đổi với
người Nhật hoặc giáo viên người Nhật trong thực tế thì hầu hết sinh viên rất lúng
túng không biết bắt đầu từ đâu hay nói cách khác là không biết đặt vấn đề khi tiến
hành hội thoại. Lại càng không biết cách làm thế nào để thể hiện một cách thuyết
phục nội dung mình muốn nói, nhằm đạt mục đích giao tiếp.
Việc thiếu cơ hội luyện tập và thiếu các hình thức luyện tập hiệu quả có thể coi là
nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình trạng sinh viên thiếu tự tin trong khi nói tiếng
Nhật và khả năng nói tiếng Nhật chưa cao. Để khắc phục tình trạng này, cải thiện
khả năng nói tiếng Nhật của sinh viên năm thứ nhất nói riêng và sinh viên chuyên
ngành tiếng Nhật nói chung ngày càng tốt hơn, trong chương 3 tiếp sau đây, tác giả
đưa ra một số phương pháp luyện tập được cho là có hiệu quả trong việc nâng cao
khả năng nói tiếng Nhật.
15
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
TẬP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG NÓI CỦA SINH VIÊN
NĂM THỨ NHẤT CHUYÊN NGÀNH TIẾNG NHẬT.
Trong chương này, tác giả xin đề cập đến một số phương pháp luyện tập
được cho là có hiệu quả trong việc nâng cao khả năng nói của sinh viên năm thứ

nhất, chuyên ngành tiếng Nhật.
Chúng ta đều biết học ngoại ngữ không tại nước bản ngữ có một số khó
khăn nhất định, đó là ít có cơ hội được luyện tập ngôn ngữ đó, không sống trong
môi trường bản ngữ… Chính vì vậy trong giờ học “Nói” (Hội thoại), giáo viên cần
cố gắng tạo ra môi trường giao tiếp càng tự nhiên, giống với môi trường bản ngữ
càng tốt.
Trong chương I, tác giả đã đề cập đến đặc trưng của hành vi “Nói” trong
quá trình giao tiếp, cụ thể sự giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ được thực
hiện một cách tự nhiên, hiệu quả khi hội tụ đủ các yếu tố là “Mục đích giao tiếp”, “
khoảng cách thông tin”, “quyền lựa chọn”, “phản ứng”. Mặt khác, trong chương
2, sau khi phân tích một số nguyên nhân khiến sinh viên chưa thật sự thấy hứng thú,
tự tin khi nói tiếng Nhật thì thấy rằng, hầu hết thời gian luyện tập thì chỉ chú ý
luyện tập mẫu câu cho sẵn, câu trả lời cho sắn, hoặc hội thoại mẫu (luyện tập thay
thế từ)….Những dạng luyện tập này giống như là một bài tập bắt buộc, khiến sinh
viên không có như cầu (mục đích) giao tiếp (vì được chỉ định), không có khoảng
cách thông tin (vì người nói và người nghe đều biết lương thông tin như nhau),
thiếu quyền lựa chọn (vì đã được chỉ định sẵn).
Có rất nhiều phương pháp giúp nâng cao khả năng nói ngoại ngữ nhưng ở đây tác
giả chỉ xin đưa ra 4 phương pháp đó là hoạt động phỏng vấn, hùng biện, thảo luận
và luyện tập phân vai. Bốn hoạt động này được cho là rất phù hợp và hiệu quả trong
việc nâng cao khả năng “Nói’ tiếng Nhật vì đó đều là những hoạt động rất gần với
hành vi “Nói” trong thực tế cuộc sống hàng ngày, và trong khi thực hiện các hoạt
động này chúng ta có thể dễ dàng đưa thêm các yếu tố cần thiết để thực hiện hiệu
quả hành vi giao tiếp đó là “Mục đích giao tiếp”, “ khoảng cách thông tin”,
“quyền lựa chọn”, phản ứng đồng thời mang những đặc trưng sau đây:
- Có thể thực hiện được một cách dễ dàng ở nước ngoài (không nhất thiết phải
ở trong môi trường bản ngữ).
16
- Không cần phải chuẩn bị quá cầu kỳ
- Có thể thực hiện trong khoảng thời gian ngắn cho phép (trong phạm vi giờ

học trên lớp)
- Có thể điều chỉnh dễ dàng nội dung đề phù hợp với mọi trình độ của người
học, từ trình độ sơ cấp đến trình độ trung cấp và cao cấp.
Khi lập giáo án, kế hoạch cho các hoạt động luyện tập này, giáo viên cần lưu ý đến
những vấn đề mấu chốt như sau:
*Trình độ của người học (sơ cấp, trung cấp, cao cấp)
*Những chủ đề hợp với nhu cầu, sở thích, sự quan tâm của người học
*Quá trình thực hiện hành vi “Nói” (đã nêu ở chương 1)
- Suy nghĩ nội dung muốn nói là gì
- Suy nghĩ xem sẽ thể hiện nội dung đó như thế nào
- Thực hiện hành vi “Nói”
*Những yếu tố cần thiết để thực hiện giao tiếp một cách tự nhiên, hiệu quả
- Mục đích giao tiếp
- Khoảng cách thông tin
- Quyền lựa chọn
- Phản ứng
*Năng lực cần thiết trong quá trình giao tiếp
- Năng lực ngữ pháp
- Năng lực ngôn ngữ xã hội
-Năng lực nói chuyện
Năng lực chiến lược (xử lý tình huống)
Đối với sinh viên năm thứ nhất, vốn từ vựng và ngữ pháp còn hạn chế, giáo
viên cần lựa chọn xem hình thức luyện tập nào phù hợp với loại mẫu câu nào, loại
mẫu câu nào dùng trong hội thoại như thế nào để xây dựng hoạt động luyện tập một
cách phù hợp và hiệu quả nhất.
1. Phỏng vấn (Interview)
1.1 Đặc điểm của hoạt động phỏng vấn
Phỏng vấn là hình thức người muốn có thông tin hỏi một người khác mà mình cho
rằng người đó có thể cung cấp cho mình thông tin mình muốn biết. Ví dụ như
phỏng vấn một người nào đó để viết bài báo về người đó, hay hỏi người khác những

câu hỏi trong bản điều tra nhằm phục vụ cho hoạt động nghiên cứu của mình. Vậy
17
tại sao hoạt động phỏng vấn lại có hiệu quả trong việc nâng cao khả năng “Nói”
trong quá trình học ngoại ngữ nói chung, tiếng Nhật nói riêng? Đó là vì những lý do
sau:
- Mục đích giao tiếp: Có. Người chủ động phỏng vấn muốn biết một số thông
tin phục vụ cho công việc của mình nên chủ động xin phỏng vấn một người
nào đó.
- Khoảng cách thông tin: Có. Vì người phỏng vấn chưa biết người được
phỏng vấn sẽ trả lời ra sao.
- Quyền lựa chọn: Có.Người phỏng vấn có quyền lựa chọn câu hỏi, người
được phỏng vấn được quyền lựa chọn câu trả lời của mình.
- Phản ứng: Có. Tùy vào phản ứng của người được phỏng vấn mà người
phỏng vấn có thể thay đổi câu hỏi, phỏng vấn tiếp hoặc không phỏng vấn
nữa.
Như vậy, có thể thấy hoạt động phỏng vấn là một hoạt động thỏa mãn đầy đủ
các điều kiện giúp thúc đấy quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe. Tuy
nhiên đó là đặc trưng của hoạt động phỏng vấn trong thực tế. Còn hoạt động phỏng
vấn được thực hiện trong giờ luyện tập nói trình độ sơ cấp thì không phải lúc nào
cũng mang đầy đủ những đặc trưng như trên. Có những trường hợp nó chỉ thỏa mãn
“khoảng cách thông tin” và ‘phản ứng” mà không thõa mãn các điều kiện khác.
Nhưng nói gì thì nói đây vẫn là một hoạt động có hiệu quả trong việc luyện tập mẫu
câu và nâng cao khả năng “nói”.
Tuy nhiên, hoạt động phỏng vấn được thực hiện trong giờ hoc tiếng Nhật sơ
cấp chủ yếu vẫn chú trọng đến việc luyện cho quen với mẫu câu, vốn từ của sinh
viên còn nhiều hạn chế, giáo viên nên chỉ định chủ đề, nội dung, người được phỏng
vấn. Miễn là chủ đề đưa ra được sinh viên quan tâm, khi đó sinh viên sẽ tự giác
thực hiện phỏng vấn và dần lý giải được mục đích của việc phỏng vấn.
Trước khi đưa hoạt động phỏng vấn vào trong giờ học, giáo viên cân suy
nghĩ xem sinh viên quan tâm và có hứng thú với những chủ đề như thế nào. Ở trình

độ sơ cấp (sinh viên năm thứ nhất), kinh nghiệm cho thấy sinh viên thường có hứng
thú với những chủ đề gần gũi với cuộc sống thường ngày như thời gian/ phương
thức đi làm/ đi học hàng ngày, cách đổ rác/ phân loại rác, một ngày của bạn, ngày
cuối tuần, thành phố nơi bạn ở…
Chọn được một chủ đề phỏng vấn phù hợp với quan tâm và sở thích của tất
cả sinh viên là điều rất lý tưởng nhưng trong thực tế không phải lúc nào cũng thực
hiện được điều này. Trong những trường hợp như vậy thì giáo viên cần phải làm thế
nào cho sinh viên cảm thấy có hứng thú và quan tâm đến chủ đề mình sắp đưa ra.
Hoạt động đó gọi là “khơi gợi cảm hứng” cho sinh viên. Hoạt động này không chỉ
giúp sinh viên có hứng thú hơn với hoạt động phỏng vấn ngay sau đó mà con giúp
18
sinh viên nhớ lại, vận dụng những kiến thức nền mà mình đã biết liên quan đến chủ
đề/ lĩnh vực đó.
Mặt khác hoạt động phỏng vấn còn giúp rèn luyện một số kỹ năng cần thiết
trong qua trình giao tiếp như kỹ năng nói chuyện, kỹ năng chiến lược (xử lý tình
huống).
- Năng lực đàm thoại: Để thực hiện được hoạt động phỏng vấn, sinh viên phải có
kỹ năng nói chuyện tối thiểu như biết cách mở đầu, kết thúc phỏng vấn, chuyển
sang câu hỏi khác, nói từ đệm… Có thể nêu ra ví dụ cụ thể như sau:
Một số cách diễn đạt trong khi phỏng vấn
あのう、すみません、~について聞きたいんですが →
開始部
Xin lỗi, tôi muốn hỏi về vấn đề…………

Phần mở đầu
ありがとうございました →
終了部
Xin cám ơn rất nhiều

Phần kết thúc

では/じゃ →
次の質問へ移る時
Vậy thì/ Thế thì

Chuyển sang câu hỏi khác
そうですか/ええ/はい →
あいづち
Thế à/ vâng

Từ đệm
- Năng lực chiến lược: là kỹ năng cần thiết trong quá trình giao tiếp giúp đạt được
mục đích giao tiếp một cách hiệu quả nhất, kỹ năng này sẽ khác nhau tùy vào trình
độ của người học. Cụ thể, ở giai đoạn sơ cấp đó là kỹ năng khiến người được phỏng
vấn trả lời sao cho mình có thể hiểu được, kỹ năng khiến cho người được phỏng
vấn nói với mình một cách chậm rãi, rõ ràng. Ví dụ những từ nào chưa hiểu có thể
nhắc lại bằng giọng chậm rãi, lên giọng để kia nhận ra là mình chưa hiểu từ đó, và
nhờ người đó nhắc lại một lần nữa. Nếu vẫn chưa hiểu thì có thể dùng nhiều cách
như dùng tiếng nước ngoài mà người đó biết, dùng ngôn ngữ cử chỉ để xác nhận ý
nghĩa của từ đó.
1.2 Trình tự các bước trong hoạt động phỏng vấn
- Khơi gợi cảm hứng, giúp sinh viên nhớ lại các kiến thức mình đã biết liên quan
đến chủ đề phỏng vấn mà giáo viên sắp đưa ra.
- Giáo viên giới thiệu một số mẫu câu, từ vựng, cách diễn đạt cần thiết có liên quan
đến chủ đề phỏng vấn mà mình sắp đưa ra.
- Luyện tập trước những cách diễn đạt cần thiết trong phỏng vấn như mở đầu/ kết
thúc phỏng vấn, cách đặt câu hỏi, chuyển sang câu hỏi khác, nói từ đệm trong khi
phỏng vấn…
- Cho sinh viên tiến hành phỏng vấn
19
- Tổng kết, yêu cầu sinh viên phát biểu kết quả phỏng vấn

- Phản hồi từ phía giáo viên
1.3 Đánh giá hoạt động phỏng vấn
1.3.1 Đánh giá vào thời điểm nào?
Việc đánh giá hoạt động phỏng vấn sẽ được tiến hành khi các phía tham gia hội
thoại kết thúc hoạt động phỏng vấn. Có thể đánh giá kết quả phỏng vấn theo hai
cách: Một là đánh giá nội dung, cách diễn đạt phỏng vấn. hai là đánh giá kết quả đạt
được thông qua phỏng vấn. Cách đánh giá nội dung, diễn đạt trong phỏng vấn cũng
tương tự như cách đánh giá cách hùng biện.
1.3.2 Đánh giá những nội dung gì?
Điều quan trọng nhất cần đánh giá là có đạt được mục đích giao tiếp (mục đích đặt
ra trước khi phỏng vấn) hay không. Cụ thể có thể đánh giá những mục sau:
- Nội dung phỏng vấn: Thông thường, ở trình độ sơ cấp thì nội dung phỏng vấn
thường do giáo viên chỉ định. Tuy nhiên trong những trường hợp cho sinh viên tự
quyết định nội dung phỏng vấn thì giáo viên có thể đánh giá xem nội dung phỏng
vấn đó có thú vị hay không, có giúp người phỏng vấn có thêm nhiều thông tin mới
hay không.
- Cấu trúc: Cách đặt vấn đề, đặt câu hỏi, chuyển sang câu hỏi tiếp theo, kết thúc
phỏng vấn…
- Năng lực diễn đạt: Có lỗi sai về mặt từ vựng hay ngữ pháp… hay không.
- Có sự phản ứng qua lại giữa người nói và người nghe hay không: có chú ý đến
phản ứng của người nghe hay không, có thay đổi cách diễn đạt của mình đề phù
hợp với phản ứng của người nghe hay không.
1.3.3 Đánh giá như thế nào?
Giáo viên có thể phát những tờ đánh giá cho học sinh để đánh giá cho hoạt động
phỏng vấn của các nhóm khác. Bản thân giáo viên cũng không thể theo dõi hết. Nên
trong trường hợp cần thiết hoặc có điều kiện thì có thể dùng phương pháp ghi âm,
ghi hình rồi đánh giá cho thật chính xác.

2. Hùng biện (speech)
2.1 Những đặc trưng cơ bản của hoạt động hùng biện.

Hùng biện là nói một bài hoàn chỉnh về suy nghĩ, cảm tưởng, nhận xét… của mình
về một vấn đề, chủ đề nào đó trước đông người. Để có một bài hùng biện ấn tượng
cần chú ý đến những chủ đề mà người nghe quan tâm, hứng thú. Hùng biện tốt sẽ
giúp bạn có khả năng trình bày vấn đề một cách thuyết phục. Trong giờ học hội
thoại trên lớp, nếu có điều kiện được hùng biện trước lớp, sinh viên có thể nâng cao
khả năng nói của mình.
Để nói được nội dung hoàn chỉnh về một vấn đề nào đó đòi hỏi phải có sự nhất
20
quán trong nội dung phát biểu, đồng thời cần có sự liên kết giữa các câu, các đoạn
trong bài hùng biện của mình. Trình độ càng cao thì sự nhất quán và sự liên kết
trong bài càng được thể hiện phong phú và tinh vi. Còn ở trình độ sơ cấp, yêu cầu
đầu tiên được đặt ra là phải có nội dung logic, có sự liên kết về mặt ý nghĩa và hình
thức giữa các câu, các đoạn bằng những từ nối, cách lập luận đơn giản.
Chủ đề dành cho hình thức hùng biện của sinh viên năm thứ nhất (trình độ sơ cấp)
là những chủ đề khá gần gũi với đời sống hàng ngày, với những từ vựng và cách
diễn đạt đơn giản, học ở giáo trình tiếng Nhật sơ cấp. Có thể nêu ra một số chủ đề
quen thuộc như :
- Tự giới thiệu bản thân
- Thành phố của em/ đất nước của em
- Công việc của em
- Việc học tập tiếng Nhật
- Kỳ nghỉ hè
- Bạn bè
- Du lịch
- Sở thích của em
- Môi trường
- Lễ hội
Tùy theo nội dung ngữ pháp và từ vựng của từng bài, giáo viên có thể yêu cầu sinh
viên viết bài hùng biện về một chủ đề thích hợp nhất. Bài này được coi như bài tập
về nhà để sinh viên có thời gian chuẩn bị ở nhà, và sẽ phát biểu trên lớp ở giờ học

tiếp theo.
Vậy, thông qua hình thức tập hùng biện có thể luyện tập cho sinh viên những kỹ
năng nào cần thiết trong việc nâng cao khả năng “Nói”?
* Năng lực đàm thoại
Thông qua việc luyện tập hùng biện, sinh viên được luyện tập khả năng nói tiếng
Nhật trước đông người, đồng thời được làm quen với cách triển khai một bài biết
dài, mang nội dung nhất quán, gồm những phần như sau:
- Bắt đầu bài hùng biện
- Nói về các sự kiện, các vấn đề một cách tuần tự, nêu lên vấn đề
- Cách giải quyết các vấn đề
- Cảm nghĩ của bản thân đối với các sự kiện/ vấn đề đó
- Kết thúc bài hùng biện
* Năng lực chiến lược (năng lực xử lý tình huống)
Một bài hùng biện thường kéo dài một vài phút, với tốc độ nói trung bình khoảng
250 chữ trên 1 phút. Chính vì vậy trong suốt quá trình hùng biện sẽ có thể xảy ra
21
trường hợp người nghe mất tập trung với bài hùng biện của mình, hoặc mình không
tìm được từ ngữ thích hợp để diễn tả tình huống. Để giải quyết những vấn đề này
đòi hỏi sinh viên cần có năng lực xử lý tình huống.
Cụ thể khi bắt đầu bài hùng biện bạn cần lôi kéo sự chú ý của người nghe, hay nói
cách khác là ban cần có tín hiệu thông báo với người nghe rằng sau đây tôi xin bắt
đầu hùng biện, trong trường hợp này, thường dùng những từ như
え教と、えっ、
あのう

Còn trong quá trình hùng biện, nếu không tìm ra ngay cách diễn đạt thích hợp,
muốn người nghe thông cảm, cho mình thêm thời gian để suy nghĩ thì bạn có thể
dùng một số từ đệm như
あのう、えっ、その、まあ
…Những từ đệm như thế này

được gọi là filla, nó giúp chúng ta nói một cách tự nhiên hơn, giúp các bạn kiểm
soát hành vi nói của mình và thúc đẩy quá trình giao tiếp hiệu quả hơn. Và năng lực
xử lý này có thể được bồi dưỡng thông qua hoạt động hùng biện.
Khi nói tiếng mẹ đẻ có thể bạn không ý thức được sự tồn tại của loại từ này, nhưng
việc luyện tập và dùng đúng filla trong khi nói tiếng nước ngoài lại vô cùng quan
trọng trong quá trình giao tiếp.
2.2. Thế nào là một bài hùng biện hay?
Một bài hùng biện hay là bài hùng biện mà khi mình nói ra sẽ lôi kéo được sự chú ý
của người nghe và khiến người nghe cảm thấy hứng thú. Muốn được như vậy, cần
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nội dung và chủ đề: Là những chủ đề mà cả người nói và người nghe đều
quan tâm, có hứng
thú. Chọn được chủ
đề hay sẽ giúp bạn
để lại ấn tượng khó
phai trong lòng
người nghe và
quyết định đến 50%
cho thành công của
bài hùng biện.
- Cấu trúc bài hùng biện: Cấu trúc rõ
ràng, mạch lạc, dễ hiểu.
- Cách dùng từ, cách diễn đạt: Nên
dùng những từ mà cả người nói và
người nghe đều hiểu, như vậy sẽ giúp
cho người nghe hiểu rõ những gì mình
22
muốn truyền đạt. Tuyệt đối không dùng từ mà mình không biết chắc chắn ý nghĩa
và cách dùng.
- Cách nói chuyện: Nói to, rõ ràng, chậm rãi, phát âm chính xác, ngắt nghỉ và nhấn

mạnh những chỗ cần thiết, giúp người nghe dễ theo dõi và không bị mất tập trung.
Thông thường người hùng biện sẽ hay nói nhanh hơn bình thường do bị căng thẳng
hoặc mất bình tĩnh trước đám đông. Điều này là không nên vì khi nói quá nhanh sẽ
khiến cho bài hùng biện không được diễn cảm. Đấy là chưa kế đến việc chúng ta
đang nói tiếng nước ngoài nên việc nói quá nhanh dễ gây ra việc phát âm không
chính xác.
Nhấn mạnh những chỗ quan trọng: Thử
tưởng tượng nếu một bài hùng biện mà từ
đầu đến cuối người nói hùng biện bằng một
giọng điệu đều nhau thì chắc chắn người
nghe sẽ có cảm giác buồn chán, không thú
vị, dễ trở nên mất tập trung. Để lôi cuốn sự
chú ý của người nghe thì người nói cần đánh
dấu những chỗ cần quan trọng, để thực hiện
lên giọng, xuống giọng, kéo dài… nhằm tạo ấn tượng, diễn cảm…Những chỗ cần
nhấn mạnh trong một bài hùng biện thường là trợ từ đi sau chủ đề, chủ ngữ (trợ từ
wa), sau các trợ từ trong câu, sau các từ trọng điểm (keyword)…
- Cách thể hiện bài hùng biện: Phải nói
bằng tất cả tình cảm của mình chứ
không phải là đọc.
- Có tính hài hước: Đây là yếu tố rất
quan trọng làm nên một bài hùng biện
hay, dành được cảm tình của người
nghe.
- Điệu bộ, cử chỉ: Khi nói phải hướng ánh nhìn của mình xuống phía người nghe và
luôn giữ một khuôn mặt tươi cười, thân thiện
- Có thể dùng một số phương tiện hỗ trợ khác để cho bài hùng biện thêm sinh động
và gây ấn tượng như sơ đồ, hình vẽ minh họa, trình chiếu slides, ảnh, băng video…
2.3. Các bước chuẩn bị cho một
bài hùng biện:

- Phác thảo cho nội dung sẽ hùng
23
biện: Trong phần phác thảo này cần xác định rõ nội dung định hùng biện, cấu trúc
bài hùng biện. Đây là thao tác chuẩn bị đầu tiên cho một bài hùng biện tốt. Phần
này giúp chúng ta tự kiểm tra lại từ vựng, ngữ pháp cần thiết hoặc nhờ người khác
kiểm tra hộ lại cho chắc chắn. Đặc biệt trong những trường hợp đòi hỏi trang trọng
thì cần đặc biệt chú ý trong cách diễn đạt và cách dùng từ nên việc viết trước nội
dung là công việc không thể thiếu. Hơn nữa, ở trình độ sơ cấp thì đây là khâu quan
trọng giúp sinh viên vận dụng được những từ vựng và mẫu câu đã được học.
- Luyện tập hùng biện một mình bằng cách phát âm thành tiếng lớn.
- Luyện tập vừa nhìn phác thảo
(outline) vừa hùng biện (có thể
đứng trước gương để luyện tập).
2.4 Tổ chức hoạt động hùng biện
trong giờ học
Muốn tổ chức được hoạt động
speech trong giờ học cần thiết lập
“chủ đề hùng biện”, “sắp xếp thời
gian trên lớp cho hoạt động hùng
biện”, “chuẩn bị và luyện tập”.
* Chủ đề hùng biện
Như đã nói trong phần trên, nên chọn chủ đề hùng biện là những chủ đề mà
hầu hết sinh viên có quan tâm và cảm thấy hứng thú. Tuy nhiên, ở những trình độ
khác nhau thì chủ đề hùng biện sẽ khác nhau, việc chọn chủ đề hùng biện phù hợp
với sinh viên là rất quan trọng. Cụ thể, ở trình độ sơ cấp thì nên chọn những chủ đề
đơn giản, cụ thể, gần gũi với đời sống hàng ngày như “thành phố của em”, “cách
phân loại rác”, “những việc em muốn làm trong kỳ nghỉ hè”. Khi trình độ lên cao,
chủ đề hùng biện sẽ chuyển từ những chủ đề cụ thể sang những vấn đề trừu tượng,
những vấn đề chung của xã hội, đồng thời cách diễn đạt, từ vựng, ngữ pháp cũng sẽ
phức tạp và tinh vi hơn.

* Sắp xếp thời gian trên lớp cho hoạt động hùng biện
Hiện tại một lớp tiếng Nhật có khoảng 20-25 sinh viên. Không ít giáo viên
đã rất trăn trở khi không thể sắp xếp đủ thời gian để tổ chức hoạt động hùng biện
cho sinh viên trên lớp, vì thời gian của tiết học không cho phép. Hơn nữa cũng
không có giờ học nào riêng cho kỹ năng hùng biện.
Thật ra, tùy theo thời gian trên lớp và số lượng sinh viên có thể tiến hành hoạt động
hùng biện trên lớp theo hai cách
Cách 1: Tất cả sinh viên cùng hùng biện trong một buổi (mỗi người từ 1-2 phút).
24
Cách này có thể áp dụng cho những lớp học không quá động sinh viên, và với
những bài hùng biện không quá dài.
Cách 2: Mỗi buổi học gọi một vài sinh viên (mỗi người từ 4-5 phút). Cách này có
thể áp dụng trong trường hợp lớp học đông sinh viên hoặc nội dung của bài hùng
biện khá dài.
* Chuẩn bị và luyện tập hùng biện
Vì thời gian trên lớp bị hạn chế nên thao tác viết phác thảo nội dung hùng
biện sẽ do từng cá nhân chuẩn bị trước ở nhà. Nhưng công việc “Gợi nguồn cảm
hứng” cho sinh viên và những câu hỏi mang tính chất gợi ý để sinh viên có thể đưa
ra ý kiến, cảm nghĩ của mình thì sẽ cùng nhau tiến hành trên lớp.
Thao tác chuẩn bị phát biểu sẽ khác nhau tùy theo từng trình độ. Cụ thể, ở
trình độ sơ cấp khi mà vốn từ và ngữ pháp còn chưa nhiều thì sinh viên sẽ viết toàn
bộ nội dung phác thảo và kiểm tra lại thật kỹ trước khi hùng biện. Đến trình độ
trung cấp thì chỉ cần viết những ý chính (outlines) ra trước khi hùng biện. Còn đến
trình độ cao cấp thì có khi chỉ cần nghĩ ra ý tưởng trong đầu cũng có thể hùng biện
được.
Với thao tác viết toàn bộ nội dung phác thảo hay được áp dụng ở trình độ sơ cấp thì
có ưu điểm và nhược điểm như sau:
Ưu điểm: Có đầy đủ thời gian để suy nghĩ về cách diễn đạt, cấu trúc bài,
nội dung nên sẽ hạn chế tối đa lỗi sai, trở thành bài hùng biện dễ hiểu, có tính
thuyết phục.

Nhược điểm: Do đã chuẩn bị quá kỹ nên dễ có khuynh hướng học thuộc
lòng, “đọc” chứ không phải là “nói”, không để ý đến phản ứng của người nghe.
Trước khi hùng biện sinh viên nên luyện tập trước ở nhà. Sau khi đã chuẩn bị kỹ
nội dung phác thảo, cần viết ý chính (outlines), đứng trước gương, chỉ nhìn outlines
và nói bằng giọng to, rõ ràng.
Trong phần tiếp theo, tác giả xin giới thiệu một số bài hùng biện với các
chủ đề quen thuộc, đi kèm với phần nội dung gợi ý cần đảm bảo cho mỗi chủ đề,
cấu trúc của từng bài hùng biện đó.
2.5 Phương pháp đánh giá
Có thể đánh giá phần hùng biện của sinh viên dựa trên những tiêu chí sau:
Chủ đề và nội dung Có thú vị không, có thông tin gì mới, thú vị không
Cấu trúc Cách triển khai, tính liên kết, tính logic, cách bắt đầu,
cách kết thúc bài hùng biện
Năng lực ngôn ngữ Phát âm, ngữ pháp, cách dùng từ
Cách nói Nói to, rõ ràng, tốc độ, phát âm, trơn tru, cách dùng filla
Có sự giao tiếp với Trong bài hùng biện có những câu hỏi để lôi kéo sự chú ý
25

×