Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.81 KB, 20 trang )

Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham
gia của ngành dệt may Việt Nam

Lương Thị Linh

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế; Mã số: 60 31 07
Người hướng dẫn: PGS. TS. Hà Văn Hội
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tham gia chuỗi giá trị dệt
may toàn cầu. Đánh giá việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Việt Nam
hiện nay. Xây dựng một số giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào chuỗi
giá trị dệt may toàn cầu.
Keywords: Quan hệ kinh tế quốc tế; Ngành dệt may; Việt Nam; WTO

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngành dệt may Việt Nam - một trong những ngành đóng vai trò quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và là chìa khoá để giải quyết việc làm cho người dân
Việt Nam, nhưng việc còn đơn thuần chỉ gia công cho nước ngoài, trong khi hầu hết
nguyên phụ liệu của ngành dệt may đều phải nhập khẩu khiến cho ngành dệt may Việt
Nam khó có thể phát triển bền vững. Bên cạnh đó , ngành công nghiệp hỗ trợ dê
̣
t may
trong nước còn non yếu dẫn đến sự phụ thuộc vào nguồn cung ứng bên ngoài , giá trị gia
tăng trong mỗi sản phẩm dê
̣
t may thấp và dẫn đến hiệu quả xuất khẩu thấp . Nguyên nhân
là do ngành dệt may Việt Nam vẫn còn tồn tại những điểm yếu như: công nghiệp phụ trợ
kém phát triển, tỷ lệ gia công còn cao, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, chưa có khả


năng cung cấp trọn gói, khả năng thiết kế thời trang còn hạn chế Từ đó dẫn đến nghịch
lý là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dẫn đầu, nhưng nhập khẩu nguyên, phụ liệu cũng
tăng cao; thu dụng nhiều lao động nhưng giá trị gia tăng thấp; sản phẩm công nghiệp chủ
lực nhưng lại chủ yếu gia công Rõ ràng, ngành dệt may Việt Nam đang ẩn chứa nhiều
nghịch lý giữa con số thực hiện và hiệu quả thực tế.
Vậy làm thế nào để cải thiện thực trạng trên? Nói cách khác là liệu Việt Nam có khả
năng tham gia một cách có hiệu quả vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu trong bối cảnh
toàn cầu hóa, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO hay không? Và
cần làm như thế nào để thúc đẩy sự tham gia của ngành dệt may Việt Nam tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu? Đó chính là những vấn đề đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam và
đang cần lời giải đáp.
Việc thực hiện đề tài: “Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của
ngành dệt may Việt Nam” chính là nhằm giải đáp các vấn đề đã nêu ở trên.
2. Tình hình nghiên cứu.
Thuật ngữ chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu mới được biết đến ở Việt Nam
trong vài năm trở lại đây. Do đó, các công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị toàn cầu ở
Việt Nam chưa nhiều. Về các công trình liên quan đến chuỗi giá trị toàn cầu gắn với chủ
đề tác giả nghiên cứu, có thể kể đến:
1) Nghiên cứu của PGS. TS. Trần Văn Tùng, “Thay đổi công nghệ để tham gia mạng
lưới sản xuất toàn cầu” Nhà xuất bản Thế giới (2007).
2) Cuốn sách của G.S. Trần Văn Thọ: “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công
nghiệp hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2005).
3) Báo cáo điều tra Dự án: Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá trị cho sản
xuất nông nghiệp của các tác giả - Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm và Hoàng Đình Tú -
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
4) Bài báo: Tiếp cận chuỗi giá trị cho việc nâng cấp ngành dệt may Việt Nam của các
tác giả: Trương Hồng Trình, Nguyễn Thị Bích Thu, Nguyễn Thanh Liêm, Trường Đại học
Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
5) Hiệp hội Dệt May Việt Nam: Chiến lược Xuất khẩu ngành dệt may giai đoạn 2006 -
2010.

6) Luận văn Thạc sỹ kinh tế: Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện đã là
thành viên chính thức của WTO.
7) Các nghiên cứu về chuỗi giá trị và chuỗi giá trị dệt may:
- Michael E. Porter: Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior
Performance.
- Gary Gereffi - Khoa Xã hội học - Đại học Duke Durham, Hoa Kỳ và Olga Memedovic
UNIDO Viện Nghiên cứu chiến lược và Chính sách Kinh tế Vienna, Áo.
Một số công trình nghiên cứu về chuỗi giá trị trong ngành dệt may như đã liệt kê ở
trên, là nguồn tư liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong việc xây dựng đề cương
nghiên cứu, cũng như trong quá trình triển khai viết luận văn. Tuy nhiên, các bài viết,
công trình nghiên cứu chưa phân tích một cách toàn diện, đầy đủ các khía cạnh về chuỗi
giá trị dệt may toàn cầu. Đồng thời, chưa có sự phân tích, làm rõ chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ sự cần thiết tham gia chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu của Việt Nam và thông qua kinh nghiệm của các quốc gia xuất khẩu hàng dệt
may để hình thành một số giải pháp để ngành dệt may Việt Nam tham gia có hiệu quả
hơn so với hiện nay vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu là yêu cầu cần thiết và quan trọng.
Do vậy, tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Việt Nam, tìm ra những hạn chế và
nguyên nhân để có những giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc tham gia chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu của Việt Nam. Với mục tiêu nêu trên, các câu hỏi nghiên cứu được đặt
ra như sau:
1) Tại sao ngành dệt may Việt Nam cần phải tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu?
2) Hiện nay dệt may Việt Nam đang ở đâu trong chuỗi giá trị toàn cầu
3. Cần phải làm gì để thúc đẩy khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của dệt
may Việt Nam?
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn

cầu.
- Đánh giá việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Việt Nam hiện nay.
- Xây dựng một số giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị dệt
may toàn cầu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham
gia của ngành dệt may Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chuỗi giá trị được giới hạn nghiên cứu trong lĩnh vực dệt may của Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trước hết luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để phân tích sự hình
thành các khâu trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, gắn với sự vận động và phát triển
của nó. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp phân tích hệ thống và coi ngành dệt
may như một hệ thống con của Hệ thống các ngành trong nền kinh tế quốc dân và có mối
quan hệ mật thiết lẫn nhau. Việc phân tích thực trạng chuỗi giá trị dệt may cho thấy
những đặc trưng riêng của ngành dệt may để có những giải pháp thích hợp nhằm giúp
ngành dệt may Việt Nam tham gia có hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Luận giải sự cần thiết của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu trong bối cảnh
Việt Nam gia nhập WTO.
- Đánh giá hiện trạng sự tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Việt Nam, rút ra
những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp góp phần cho ngành dệt may Việt Nam tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu một cách có hiệu quả.
7. Kết cấu nội dung của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương sau đây:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu.
Chương 2. Thực trạng tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Việt Nam.

Chương 3. Định hướng và một số giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả chuỗi
giá trị dệt may toàn cầu.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ
DỆT MAY TOÀN CẦU
1.1. Các khái niệm cơ bản về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
1.1.1. Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu
Chuỗi giá trị nói đến một loạt các hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm (hoặc dịch
vụ) từ lúc còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau, đến khi phân
phối đến người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng. Tiếp đó, một chuỗi giá
trị tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi hoạt động để tạo ra tối đa giá trị
trong toàn chuỗi [24, tr.4].
Chuỗi giá trị có thể diễn ra trong một phạm vi hẹp nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm
vi toàn cầu. Chuỗi giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ diễn ra qua nhiều nước trên
phạm vi toàn cầu thì chuỗi giá trị đó được gọi là chuỗi giá trị toàn cầu [24].
1.1.2. Lý thuyết chuỗi giá trị của Michael E. Porter
Chuỗi giá trị, cũng được biết đến như là chuỗi giá trị phân tích, là một khái niệm từ
quản lý kinh doanh đầu tiên đã được mô tả bởi Michael Porter vào năm 1985. Chuỗi giá
trị là chuỗi của các hoạt động. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của các chuỗi theo
thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động
cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các
hoạt động cộng lại.
1.1.3. Khái niệm chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu được hiểu là các công đoạn của quá trình sản xuất sản
phẩm hàng may mặc trong chuỗi giá trị từ khâu khai thác, sản xuất nguyên liệu, thiết kế,
gia công - sản xuất thành phẩm rồi phân phối tới các nhà bán buôn, bán lẻ…có sự tham
gia của các doanh nghiệp thuộc nhiều quốc gia trên thế giới.
1.1.4. Bản chất và nội dung cơ bản của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
1.1.4.1. Bản chất của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Sản phẩm dệt may là một chuỗi giá trị bị ảnh hưởng bởi người mua, điều này có nghĩa

là những khách hàng quốc tế (bán lẻ hoặc những công ty phát triển thương hiệu) thường
có vị thế trội hơn trong chuỗi giá trị. Chuỗi giá trị toàn cầu hướng theo người mua bao
gồm các nhà bán lẻ lớn, các nhà marketing, các nhà sản xuất có thương hiệu mạnh có vai
trò then chốt trong việc hình thành mạng lưới sản xuất tập trung ở các nước xuất khẩu
khác nhau trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
1.1.4.2. Các “mắt xích” trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
Chuỗi giá trị có thể được thực hiện trong phạm vi một khu vực địa lý hoặc trải rộng
trong phạm vi nhiều quốc gia và trở thành chuỗi giá trị toàn cầu (Global value chain).
Nhìn chung chuỗi giá trị dệt may toàn cầu được chia làm 6 công đoạn cơ bản:
1) Công đoạn cung cấp sản phẩm thô, bao gồm: các sợi tự nhiên và nhân tạo…
2) Công đoạn sản xuất các sản phẩm đầu vào, sản phẩm của công đoạn này chỉ và
sợi, vải do các công ty dệt đảm nhận.
3) Công đoạn thiết kế mẫu sản phẩm.
4) Công đoạn sản xuất do các công ty may đảm nhận.
5) Công đoạn xuất khẩu: do trung gian thương mại đảm nhận.
6) Cuối cùng là công đoạn maketing và phân phối.
Dệt may nằm trong hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường và người mua chi
phối. Trong chuỗi giá trị đó khâu tạo ra giá trị lợi nhuận cao nằm trong khâu nghiên cứu
và phát triển, thiết kế, marketing và chiến lược kết nối các nhà sản xuất trên phạm vi toàn
cầu và bán các sản phẩm các thị trường tiêu dùng chính.
1.2. Sự cần thiết của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu đối với các nƣớc
đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa
1.2.1. Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại: cơ hội và thách thức đối với các nước
đang phát triển
Xu thế toàn cầu hoá có tác động đến tất cả các nước, đặc biệt là những nước đang phát
triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt
chẽ, do đó các nước dù giàu hay nghèo, dù lớn hay nhỏ, cũng phải tìm cách nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình, nếu như không muốn bị đánh bại trong cuộc chiến toàn
cầu của nền kinh tế.
1.2.2. Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh

Hội nhập quốc tế thúc đẩy tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain-GVC).
GVC cho phép các công đoạn của chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả năng
đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Đến nay, nhiều công trình nghiên cứu kinh tế
đã đi đến kết luận là: lợi ích khi trở thành một bộ phận của GVC đem lại có thể gấp 10-20
lần nếu chỉ do quá trình tự do hoá thương mại đem lại.
1.3. Kinh nghiệm tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Trung Quốc
Ngành dệt may Trung Quốc là một trong những ngành có vị trí hàng đầu và là ngành
công nghiệp có nhiều thế mạnh trên trường quốc tế. Ngành dệt may Trung Quốc là một
trong những ngành công nghiệp quan trọng của quốc gia này. Với việc tận dụng được
những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, sự đầu tư đúng đắn vào các khâu đem lại lợi nhuận
cao, tăng cường đầu tư vào công nghệ, đổi mới các quy trình quản lý mà Trung Quốc đã
thật sự thành công trong việc đưa ngành công nghiệp truyền thống mũi nhọn này ngày
một phát triển mạnh mẽ.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ
DỆT MAY TOÀN CẦU CỦA VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về ngành dệt may của Việt Nam.
2.1.1. Về năng lực, tổ chức sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu
Theo thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), hiện nay toàn ngành dệt may
Việt Nam có khoảng trên 3500 doanh nghiệp với cơ cấu doanh nghiệp phân theo chủ sở
hữu, theo địa phương và theo nhóm sản phẩm khá đa dạng (bảng 2.1).
Bảng 2.1- Cơ cấu doanh nghiệp dệt may năm 2010
Phân loại
Loại hình
Số lƣợng
Tỷ lệ (%)
Phân theo địa phương
Miền Bắc
1050

30
Miền Trung
280
8
Miền Nam
2170
62

Phân theo nhóm sản
phẩm
Dệt & May
840
24
May
2450
70
Kéo sợi
210
6
(Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam 2010)
Qui mô của các cơ sở sản xuất cũng khác nhau. Có doanh nghiệp có năng lực sản xuất
lên đến trên 20 triệu sản phẩm/năm, nhưng cũng có nhiều cơ sở, năng lực sản xuất chỉ
khoảng 1 triệu sản phẩm/ năm. Do năng lực sản xuất hạn chế, nên hầu hết các doanh
nghiệp chỉ nhận được các đơn hàng với số lượng nhỏ.
Trình độ tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam mặc dù đã được
cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, nhưng vẫn ở mức khiêm tốn.
2.1.2. Tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam
Dệt may là ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Từ nhiều năm qua, sản phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng,
cơ cấu chủng loại và giá trị kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiếm

giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước trong thời gian qua được thể hiện qua
hình 2.1

Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2010
(Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2011)
Liên tục trong những năm gần đây, dù phải chịu nhiều ảnh hưởng từ khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, nhưng ngành dệt may nước ta vẫn đạt kim ngạch xuất khẩu rất ấn tượng.
Cụ thể về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính giai đoạn 2006
- 2010 được thể hiện qua hình 2.2

Hình 2.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trƣờng
Mỹ, EU, Nhật Bản giai đoạn 2006 - 2010
11200
9066
9120
5834
7750
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
2006 2007 2008 2009 2010
Năm
Triệu USD
3045
1253

628
4465
1499
705
5106
1704
920
4995
1651
954
6000
1800
1200
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
Triệu USD
2006 2007 2008 2009 2010
Năm
Hoa Kỳ
EU
Nhật Bản
(Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2011)
Cùng với thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản cũng là những thị trường ổn định của hàng
dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Số liệu cụ thể về tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang các
thị trường chính trong năm 2011 được minh họa trong hình 2.3


Hình 2.3- Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các
nƣớc năm 2011
(Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2011)
Ngoài ba thị trường chính nêu trên, hàng dệt may Việt Nam còn có mặt trên các thị
trường như Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hồng Kông, Italia… với thị phần khoảng 20%. Đáng lưu
ý là một số thị trường xuất khẩu dệt may mới nổi như Hàn Quốc, Đài Loan, Canada cũng
góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành.
2.2. Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam
2.2.1. Công đoạn sản xuất và cung ứng nguyên liệu
Trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu nói chung đã nêu ở chương 1, công đoạn 1: cung
cấp sản phẩm thô, bao gồm: các sợi tự nhiên và nhân tạo và công đoạn 2: sản xuất các
nguyên liệu đầu vào như sợi, vải được nhập thành một công đoạn lớn đó là công đoạn
sản xuất và cung ứng nguyên liệu. Ngành dệt may của Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc
quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu là từ Trung Quốc (xem bảng 2.2)
Bảng 2.2 - Nhập khẩu nguyên liệu dệt may
ĐVT: (triệu USD)
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Phụ liệu dệt
may
1123,9
1224,0
1351,3
1081,0
1706

Vải
2974,0
3990,5
4455,1
4170,0
5378
50.0%
18.6%
12.2%
19.2%
Mỹ
EU
Nhật Bản
Khác
KNNK dệt
may
4097,9
5214,5
5806,4
5251,0
7084
KNXK dệt
may
5854,8
7732,0
9120,4
9066
11200
KNNK so
với XK (%)

69,99
67,44
64,37
57,92
63,25
(Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2011)
Những phân tích trên đây cho thấy việc phát triển nguồn nguyên phụ liệu vẫn là một
vấn đề nan giải đối với Việt Nam. Trước mắt, việc sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành
dệt may của Việt Nam vẫn chưa đạt đến tỷ lệ nội địa hóa mong đợi.
2.2.2. Công đoạn nghiên cứu, thiết kế sản phẩm
Công đoạn thiết kế là một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị của dệt may xuất
khẩu, bởi vì kiểu dáng và mẫu mã sẽ quyết định giá trị của sản phẩm. Đối với những sản
phẩm dệt may của Việt Nam, công đoạn thiết kế được thực hiện chủ yếu ở những nước và
vùng lãnh thổ có ngành công nghiệp thời trang phát triển như Mỹ, Anh, Italia, Pháp, Nhật
Bản, Hồng Kông,… Một số doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
như Công ty May Việt Tiến, Công ty May Phương Đông, Công ty Thời trang Việt
Nam, có thể thực hiện công đoạn này nhưng còn rất hạn chế.
2.2.3. Công đoạn sản xuất/gia công sản phẩm cuối cùng.
Nhìn chung trong chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu mới tham
gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, khâu được đánh giá là tạo ra giá trị gia tăng
thấp nhất. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may, đây là công đoạn có giá trị gia
tăng thấp nhất, với tỷ suất lợi nhuận chỉ chiếm khoảng 5- 10%. Hiện nay, có khoảng 70%
giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là được thực hiện theo phương thức gia
công xuất khẩu, hình thức này còn được gọi là xuất khẩu CMT. Nội dung mối quan hệ
này được tóm tắt trong bảng 2.3. Ngoài hình thức gia công xuất khẩu (CMT), phần còn
lại được thực hiện theo hình thức xuất khẩu trực tiếp FOB.

2.2.4. Công đoạn xuất khẩu sản phẩm
Sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam đang phải
cạnh tranh rất quyết liệt với các quốc gia xuất khẩu dệt may lớn khác trên thế giới như

Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan…
2.2.5. Công đoạn marketing và phân phối
Hoạt động marketing và phân phối đang là khâu yếu của ngành dệt may Việt Nam,
điều này là do chúng ta chủ yếu thực hiện các đơn hàng gia công ở mức CMT và FOB
cấp I nên Việt Nam ít có các sản phẩm mang thương hiệu riêng của mình để tiếp cận với
các nhà bán lẻ trên toàn cầu
2.3. Đánh giá sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam
2.3.1. Định vị dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Nếu xét trên khía cạnh đơn giản, chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may xuất khẩu có
5 công đoạn cơ bản là thiết kế, sản xuất phụ liệu, sản xuất, xuất khẩu và phân phối, thì
Việt Nam đang tham gia chủ yếu ở công đoạn sản xuất và nằm ở đáy của chuỗi giá trị xét
trên khía cạnh mức độ giá trị gia tăng tạo ra.
2.3.2. Nguyên nhân của việc ngành dệt may Việt Nam tham gia chưa có hiệu quả
trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu.
2.3.2.1. Thiết bị công nghệ lạc hậu
Thiết bị công nghệ ngành dệt may Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu đồng bộ, sản phẩm
làm ra không có năng lực cạnh tranh. Máy móc thiết bị ngành dệt phần lớn là cũ kỹ có
xuất xứ từ nhiều nước, có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm nên hư hỏng rất nhiều
làm cho năng suất thấp chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao.
2.3.2.2. Nguyên vật liệu kém chất lượng, phải nhập khẩu nhiều
Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để đảm bảo sản xuất cần đến 95% xơ
bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi. Qua đó,
có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào
nước ngoài. Vì vậy, để sản xuất ổn định, hầu như các công ty ngành dệt may đều phải
chấp nhận gia công cho đối tác nước ngoài, dù lợi nhuận thấp.
2.3.2.3. Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ nhưng trình độ chưa cao đặc biệt là thiếu các
nhà thiết kế chuyên nghiệp
Dệt may hiện là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Lao động của ngành
dệt may chiếm hơn 20% lao động trong khu vực công nghiệp và gần 5% trong tổng lực
lượng lao động toàn quốc. Gần 80% là lao động nữ, trình độ văn hoá của người lao động

chủ yếu là đã tốt nghiệp PTTH, PTCS. Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn
lao động quản lý và kỹ thuật; thiếu các nhà thiết kế mẫu thời trang chuyên nghiệp nên
khả năng gắn kết thời trang với sản xuất, đạt trình độ quốc tế còn kém. .
2.3.2.4. Mạng lưới phân phối còn hạn chế, marketing chưa chuyên nghiệp
Hiện nay hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức,
để thả nổi, một số tư thương còn làm giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Do đó, cần
phải tổ chức lại để Hệ thống này hoạt động có hiệu quả.

Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM
THAM GIA CÓ HIỆU QUẢ CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT MAY TOÀN CẦU
3.1. Dự báo khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của dệt may Việt Nam
3.1.1. Phân tích SWOT ngành dệt may Việt Nam
Để đánh giá và dự báo khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may
Việt Nam, cần đánh giá điểm mạnh, yếu cũng như cơ hội và thách thức của ngành dệt
may Việt Nam.
3.1.1.1. Điểm mạnh
- Chi phí nhân công rẻ.
- Thợ may lành nghề.
- Hỗ trợ từ Chính phủ.
- Điều kiện kinh tế chính trị ổn định.
- Trang thiết bị của ngành dệt may đã được đổi mới và hiện đại hoá.
3.1.1.2. Điểm yếu
- Chi phí sản xuất cao
- May xuất khẩu phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa
phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Thời gian
sản xuất kéo dài.
- Không đủ năng lực cung cấp dịch vụ trọn gói.
- Hầu hết các doanh nghiệp dệt may có quy mô vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn
đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị.

- Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản, năng suất thấp,
mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng.
- Khan hiếm nguồn lao động, đặc biệt là ở các khu vực thành thị.
3.1.1.3. Cơ hội
- Triển vọng kinh tế thế giới về dài hạn có xu hướng cải thiện làm tăng nhu cầu sản
phẩm dệt may.
- Việc chuyên môn hóa trong sản xuất các sản phẩm dệt may giữa các doanh nghiệp
tạo điều kiện cho các nhà sản xuất tăng tỷ lệ lợi nhuận.
- Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế
giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may.
- Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác
mới.
- Thị trường nội địa tiềm năng.
- Tiềm năng về nâng cao khả năng cạnh tranh.
3.1.1.4. Thách thức
- Xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự
phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh
còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Chịu sự cạnh tranh trên thị trường nội địa từ các sản phẩm của Trung Quốc, Hàn
Quốc và Thái Lan.
- Xu hướng tăng cường bảo hộ mậu dịch, đặc biệt tại các thị trường truyền thống của
Việt Nam như Mỹ và EU.
3.1.2. Phân tích các khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt
Nam.
Từ việc phân tích chuỗi giá trị dệt may toàn cầu như trên cho thấy về lý thuyết, ngành
dệt may Việt Nam có thể đầu tư vào các “mắt xích sau” để có thể nâng cao hiệu quả khi
tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Đó là:
Thứ nhất, đầu tư để làm chủ khâu thiết kế thời trang, có thể chủ động đưa ra các mẫu
mốt, phù hợp với xu hướng thời trang thế giới.

Thứ hai, phát triển sản xuất nguyên phụ liệu, kể cả đầu tư để phát triển thượng nguồn
(bông, xơ), vải và các loại phụ liệu khác.
Thứ ba, là khâu gia công sản phẩm. Toàn bộ khâu này (cắt, may, hoàn thiện, đóng gói,
vận chuyển…) chiếm giá trị khoảng 5-7% trong chuỗi giá trị toàn cầu (bao gồm cả các
thủ tục xuất khẩu);
Thứ tư, vươn lên xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu để bán được sản phẩm
cho các nhà buôn (không phải qua các trung gian môi giới), thậm chí có thể bán đến tận
tay người tiêu dùng… .
Tuy nhiên, trên cơ sở hiện trạng và quá trình phát triển của ngành dệt may xuất khẩu
Việt Nam trong nhiều năm qua, câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng Việt Nam sẽ đồng thời
đầu tư vào tất cả các “mắt xích” nói trên, hay sẽ lựa chọn những khâu phù hợp để triển
khai? Phần phân tích dưới đây sẽ đưa ra các giải pháp cụ thể.
3.2. Một số giải pháp đối với ngành dệt may nhằm tham gia có hiệu quả chuỗi giá trị
toàn cầu
3.2.1. Mạnh dạn đầu tư cho khâu thiết kế sản phẩm
Như trên đã nêu, trong thời gian qua, ngành dệt may của Việt Nam chủ yếu phát triển
dựa trên phương thức gia công xuất khẩu, đóng vai trò là người đi làm thuê cho các hãng
khu vực và các nhà môi giới trong thị trường này. Để nâng cao hiệu quả và tránh rủi ro do
bị phụ thuộc vào các đơn hàng của đối tác nước ngoài, chủ động trong việc thiết kế sản
phẩm xuất khẩu, ngành dệt may Việt Nam cần phân khúc thị trường xuất khẩu để xác
định đúng “mắt xích” trong chuỗi giá trị để đầu tư cho khâu thiết kế. Đối với các thị
trường “dễ tính” như Hàn Quốc, Angola, New Zealand, Ấn Độ, Nga…ngành dệt may cần
mạnh dạn đầu tư cho khâu thiết kế thời trang.
Tuy nhiên, đối với các khách hàng khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản, ngành dệt may lại
phải cẩn trọng trong việc đầu tư vào khâu thiết kế sản phẩm.
3.2.2. Đầu tư quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu và sản xuất nguyên liệu
Để tránh quá bị phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ động sản xuất một phần
nguyên liệu cung ứng cho nhu cầu sản xuất toàn ngành dệt may, đang là một vấn đề
“nóng”. Để làm được điều này, nhà nước và ngành dệt may Việt Nam cần phải có chiến
lược quy hoạch nguồn nguyên liệu, hướng tới nguyên liệu nội sẽ thay thế phần lớn

nguyên liệu ngoại nhập.
Khi đã chủ động được phần lớn nguyên liệu, ngành dệt may sẽ chủ động thực hiện các
đơn hàng đã đàm phán được với các đối tác.
3.2.3. Tăng cường đầu tư cho khâu sản xuất và xúc tiến xuất khẩu
Đây là điều rất cần thiết để hàng dệt may Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị hàng dệt
may toàn cầu. Cần có biện pháp khắc phục thời gian sản xuất kéo dài là một trong những
trở ngại lớn của hàng dệt may Việt Nam trong việc giảm chi phí xuất khẩu. Việc giảm bớt
thời gian sản xuất thông qua một số biện pháp như tăng khả năng cung cấp nguyên liệu
của các cơ sở trong nước, cải tiến quy trình sản xuất và hợp lý hóa công tác tổ chức lao
động.
3.2.4. Hoàn thiện mạng lưới phân phối và marketing
Các doanh nghiệp dệt may cần thiết lập hệ thống phân phối bao gồm mạng lưới văn
phòng đại diện tại các quốc gia và khu vực. Cần thiết lập một hệ thống phân phối hướng ra
thị trường các khu vực và quốc tế.
3.2.5. Xây dựng các khu cụm công nghiệp dệt may
Các mối quan hệ liên kết giữa các tổ chức hay doanh nghiệp trong cụm công
nghiệp chính là chìa khóa mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia cụm.
3.3. Kiến nghị đối với nhà nƣớc
3.3.1. Xây dựng các Trung tâm tìm kiếm nguồn nguyên liệu
Doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may Việt Nam hiện đang rất cần các trung tâm tìm
kiếm nguồn nguyên liệu, nếu tìm được nguồn nguyên liệu ngay trong nước, doanh nghiệp
có thể giảm chi phí sản xuất (giảm bớt chi phí đầu vào cho vận chuyển nguyên liệu và thủ
tục hải quan), rút ngắn thời gian của quá trình sản xuất.
3.3.2. Xây dựng trung tâm thông tin
Một trong những phương pháp hiệu quả nhất để nâng cao xuất khẩu của ngành là tạo
điều kiện cho từng doanh nghiệp tự ra quyết định để cải tiến hoạt động của chính mình.
Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp cần có đầy đủ thông tin về xu hướng trên thị trường, thị
hiếu, tình hình xuất nhập khẩu để đưa ra các quyết định hợp lý.
3.3.3. Thúc đẩy thương mại điện tử
Trên thế giới, hiện có một số cổng thông tin thương mại mà doanh nghiệp may mặc

Việt Nam có thể kết nối và tham gia giao thương. Tại các cổng thông tin này, có rất nhiều
các nhà kinh doanh (người bán hàng), nhiều nhất là từ Trung Quốc, Ấn Độ, có ảnh hưởng
lớn khiến cho giá cả có khả năng xuống khá thấp.
3.3.4. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp dệt may nhà nước và thúc đẩy đầu tư
nước ngoài vào thượng nguồn.
Chính phủ cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp dệt may nhà
nước. Cần thực hiện các biện pháp như sáp nhập và mua lại những doanh nghiệp làm ăn
không tốt. Đồng thời, Chính phủ vẫn nên tiếp tục đầu tư nhưng với phương pháp hiệu quả
hơn như liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào thượng nguồn
cần được xúc tiến bằng các hình thức như tổ chức hội thảo để kêu gọi đầu tư.
3.3.5. Cải tiến thủ tục hải quan
Khuyến nghị được đưa ra là thông lệ giám định hàng hóa hiện hành được thay bằng
kiểm tra sau thông quan theo đề xuất của Dự án VIE/97/059 về củng cố năng lực hải quan
Việt Nam để giảm bớt thời gian thông quan.
3.3.6. Cải thiện chính sách thuế
Chính phủ cần xem xét việc thay đổi và áp dụng cùng một mức thuế VAT cho những
nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam phục vụ sản xuất hàng may mặc để xuất khẩu bằng với
mức thuế VAT đánh vào nguyên liệu xuất khẩu.

KẾT LUẬN
1. Các kết quả nghiên cứu chính
Luận văn đã đạt được một số kết quả chính sau đây:
Thứ nhất, nội dung luận văn đã làm rõ khái niệm và bản chất về chuỗi giá trị toàn cầu,
luận giải sự cần thiết phải tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt
Nam.
Thứ hai, luận văn đã làm sáng tỏ vai trò quan trọng của ngành dệt may Việt Nam đối
với tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, cũng như được coi là chìa khóa để giải quyết
việc làm cho người dân Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở nguồn số liệu thứ cấp và các tài liệu tham chiếu từ Hiệp hội dệt may
Việt Nam, luận văn đã phân tích và làm rõ thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của

ngành dệt may Việt Nam. Qua đó, xác định vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu.
Thứ tư, trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích SWOT, luận văn đã làm rõ điểm
mạnh, điểm yếu của ngành dệt may Việt Nam, cũng như cơ hội và thách thức đối với
ngành dệt may Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Từ đó, đề xuất
một số khuyến nghị để ngành dệt may tham gia có hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu.
2. Một số điểm hạn chế
Thứ nhất, do điều kiện về thời gian và nguồn lực hạn chế, nên luận văn không có số
liệu sơ cấp thông qua điều tra khảo sát và phỏng vấn sâu, chính vì vậy, có thể số liệu
được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như Bộ Công Thương, Tổng cục Hải Quan, Hiệp
hội dệt may Việt Nam…sẽ có sự chênh lệch, dẫn đến một số nội dung phân tích chưa
mang tính thuyết phục cao.
Thứ hai, do chưa có được các số liệu liên quan đến chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, nên
nội dung phân tích về các nhân tố ảnh hưởng cũng như những rủi ro khi tham gia chuỗi
giá trị toàn cầu của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam chưa được đề cập tới.

References
Tiếng Việt:
1. Bộ Công Thương (2008), Qui hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm
2015, tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội.
2. Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm và Hoàng Đình Tú (2006), Phát triển chuỗi giá trị -
công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp, Dự án thuộc Chương trình Phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Đông (2011), Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của
doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế công nghiệp, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Hà Nội.
4. Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) (2006), Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may giai
đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.
5. Phạm Thu Hương (2006), Báo cáo nghiên cứu Chiến lược và năng lực cạnh tranh

của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sau khi dỡ bỏ hệ thống hạn ngạch dệt may -
một cách tiếp cận trong chuỗi giá trị toàn
c

u, Đại

học Ngoại Thương, Hà Nội.
6. Nguyễn Việt Khôi (2011), Đầu tư trực tiếp của TNCs và sự tham gia của nước nhận
đầu tư vào chuỗi giá trị toàn cầu: trường hợp Trung Quốc, Luận án tiến sỹ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Micheal E. Porter (2009), Lợi thế cạnh tranh: Tạo lập và duy trì thành tích vượt
trội trong kinh doanh, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt
may”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 2 (74), Tr. 65-67.
9. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), “Dệt may Việt Nam thời kỳ hậu WTO: Thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, (11), Tr. 42-47.
10. Ngô Kim Thanh (2009), “Doanh nghiệp dệt may Việt Nam đối phó với suy thoái
kinh tế toàn cầu”, Kinh tế và Phát triển, 2 (7), Tr 56- 58.
11. Nguyễn
Đức
Thành (2009), Kinh tế
Việt
Nam năm 2008, Nhà xuất bản Thống kê, Hà
Nội.
12. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt
Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
13. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển ngành
công nghiệp dệt may đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
14. Ninh Thị Thu Thủy (2007), “Tổ chức sản xuất ngành dệt may sau khi bãi bỏ chế độ
hạn ngạch”, Tạp chí Khoa học Đại học Đà Nẵng, (14), Tr.4.

15. Tổng cục Hải Quan (2010), Báo cáo về xuất nhập khẩu hàng dệt may, Hà Nội.
16. Tổng cục Hải Quan (2011), Báo cáo về xuất nhập khẩu hàng dệt may, Hà Nội
17. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê năm 2009, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội.
18. Trần Văn Tùng (2007), Thay đổi công nghệ để tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu,
Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
Tiếng Anh:
19. Gary Gereffi (2001), The International competitiveness of Asian Economies in the
Apparel commodity chain, Duke University, USA.
20. Gary Gereffi, Olga Memedovic (2003), The Global Apparel Value Chain: What
Prospects for
Upg
r
a
ding
by Developing countries, United Nation Industrial
Development Organzation,Vienna.
21. Michael E. Porter (1990): Competitive Advantage: Creating and Sustaining the
Superior Performance, N. York: The Free Press .
22. Nadvi, K. (2004), Viet Nam In The Global Garment And Textile Value Chain:
Impacts on Firms and Workers.
23. Raphael Kaplinsky, Morris M. (2000), A handbook for value chain research.
24. Raphael Kapplinsky and Mike Morris (2001), A handbook
for
Value Chain
R
ese
a
r
ch,

Globalisation Network.
Website:
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32. http:// www.vietrade.gov.vn
33.
34.
35.
36.
37.


×