Toàn cầu hóa và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế việt
nam hiện nay
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành
môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới.
Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt
đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những nước và
các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn
cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động.
Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu
hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những
mặt tích cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới
hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực
kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số khía cạnh về ảnh hưởng của toàn
cầu hóa kinh tế đến quan hệ cạnh tranh.
1. Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến cạnh tranh quốc tế
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kình tế thế giới hiện nay đang chuyển thành
một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ
thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi
nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế (1). Từ cuối thế kỷ XX trở lại
đây sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn
đầu tư giữa các nước gia
tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây
Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ
bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng
thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng
tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt
khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày
càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc
tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết
trực tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các
doanh nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên,
toàn cầu hóa hoàn toàn không phải là ‘‘trò chơi’‘ hai bên đều thắng, mà nó
thường gây ra hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh
nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những
nước và doanh nghiệp bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi
động của thương mại và đầu tư quốc tế (2)
Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì
vấn đề cốt lõi và phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập.
Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự có thể thu
được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay
đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc
khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do
khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi ích mà họ thu
được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những nước kém phát
triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về năng lực cung ứng các
nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại. Trong lúc nhiều quốc gia thuộc
nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và
đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút ngắn được khoảng cách so với các nước
phát triển.
Cho dù đã và sẽ còn những nghi ngại đối với toàn cầu hóa, nhưng không thể phủ
nhận và né tránh ảnh hưởng khách quan của nó đối với tất cả các nước. Trong
tiến trình toàn cầu hóa, chắc chắn là cạnh tranh quốc tế sẽ ngày càng mạnh mẽ
và quyết liệt hơn. Xu hướng này liên quan đến hàng loạt nhân tố, đó là: sự ra đời
của thị trường toàn cầu; sự ra đời với tốc độ nhanh chóng của hàng loạt công ty
mới giàu tinh thần lập nghiệp và năng lực sáng tạo kinh tế; sự xuất hiện liên tục
của những kỹ thuật mới và thị trường mới; sự gia tăng thường xuyên sức ép trên
thị trường chứng khoán đối với giá cổ phiếu; sự rút ngắn vòng đời của sản phẩm
và sự nhất thể hóa kinh tế có hiệu lực về mặt pháp lý… Ngày nay, bất kỳ chủ thể
nào muốn trụ vững và giành thắng lợi trên thị trường khu vục và thế giới, đều phải
tính toán đầy đủ các nhân tố đó khi thiết kế và thực hiện chính sách cạnh tranh.
2 – Về một số vấn đề liên quan đến Việt Nam
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận
thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh
tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001- 2010 nêu rõ, phải
‘‘Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển… Trong
quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao
chế lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng
rào bảo hộ’‘(3). Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10-2003) Quốc
hội khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế trong ba năm vừa
qua (2001- 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số lượng, nhưng chậm
chuyển biến về chất lượng… Nhìn chung, sự cạnh tranh và hiệu quả của doanh
nghiệp và nền kinh tế đều thấp(4). Từ đó nhấn mạnh một trong các giải pháp lớn
là ‘‘phải tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại… Năm 2004 phải có bước
đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi
với với việc thực hiện cam kết về lộ trình tham gia Khu vực Mậu dịch tự do Đông
Nam á (AFTA) và phát triển các quan hệ kinh tế song phương, cần đẩy mạnh
đàm phán gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với phương án thích hợp
để sớm trở thành thành viên của tổ chức này’‘(5).
Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình toàn cầu
hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất, thì chođến cuối
năm 2003, Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa kinh tế.
Một là, những vướng mắc về nhận thức.
Hiện thời, ngay trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở cấp chiến lược,
vẫn còn nhiều bàn cãi về vấn đề nên hội nhập như thế nào(6) Gắn liền với câu hỏi
lớn này là hàng loạt vấn đề cụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa
nên như thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh
nghiệp hiện tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh
tranh quốc tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá
trình phát triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại?
Phương thức hội nhập nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp
định đa phương, khu vực và song phương, thông qua việc đơn phương tự do hóa,
hay thông qua việc kết hợp các yếu tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa thương mại
và đầu tư nhằm tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì cần có những
biện pháp nào? v.v..
Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả năng
cạnh tranh(7)
Về khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu và du lịch (bao gồm kim ngạch xuất
khẩu; kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người; tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu tính theo đầu người, thu nhập từ du lịch tính theo đầu người; tổng kim
ngạch dịch vụ xuất khẩu): Tính đến giữa năm 2003, Việt Nam có kim ngạch xuất
khẩu chỉ ở mức trung bình yếu trong khu vực châu Á, với tỷ lệ khoảng 45% GDP.
Trong khi đó tỷ lệ này của Thái Lan là 55%, Xin-ga-po là 152%, Ma-lai-xi-a là
114% và Trung Quốc là 22%. Năm 2001, Việt Nam nhập siêu 1,2 tỉ USD, bằng
8% xuất khẩu, năm 2002 là 3 tỉ USD, bằng 18% xuất khẩu; năm 2003 lên tới 4,5
tỉ USD (về số tuyệt đối là năm cao nhất từ trước đến nay, bằng 23% xuất khẩu và
11% GDP(8)
Về khả năng cạnh tranh đầu tư (liên quan đến các chỉ số: hoàn thành vốn gộp,
tổng đầu tư cố định của tư nhân, tăng trưởng tổng đầu tư trong nước, đầu tư
nước ngoài thuần-tính theo tổng số và trên đầu người): Tổng đầu tư nội địa của
Việt Nam đạt tỷ lệ 25% GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu vực
ASEAN (23 – 24%), nhưng đầu tư nước ngoài (FĐI) còn thấp hơn rất nhiều so
với nhiều nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-
po. Suất đầu tư cho tăng trưởng (hệ số ICOR) của Việt Nam tăng nhanh và ở
mức cao (năm 1995, một đồng tăng trưởng cần 3,4 đồng, năm 2001cần trên 5
đồng, năm 2002 – 2003 giảm không đáng kể(9).
Về khu vực tài chính (liên quan đến các chỉ số: tiền và tiền tương đương được tính
bằng % của GDP; tín dụng trong nước từ khu vực ngân hàng; tín dụng cấp cho
khu vực tư nhân; đánh giá mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế; tổng tiết kiệm
trong nước): Vào năm 2000, Việt Nam được đánh giá là nước có tỷ lệ tiết kiệm
cao, xếp hạng 49/147 nước. Tuy nhiên, khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn
ở tình trạng kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho sự
phát triển của khu vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân hàng
cung cấp còn ở mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở mức 79/127
nước. Cho đến cuối năm 2003, ‘‘tình hình tài chính – tiền tệ vẫn còn là yếu tố
thiếu vững chắc, chứa đựng mầm mống có thể gây mất cân đối kinh tế vĩ mô; nổi
lên là: nguồn thu ngân sách chưa vững chắc, tỷ lệ thu nội địa còn thấp; trong hệ
thống tài chính – tín dụng, tỷ lệ nợ xấu tuy có giảm nhưng vẫn còn cao, nợ chưa
thanh toán trong xây dựng cơ bản khá lớn, việc sử dụng tiền gửi ngắn hạn để cho
vay trung hạn, dài hạn vượt quá giới hạn an toàn, lãi suất tín dụng quá cao so với
khả năng sinh lời của các doanh nghiệp…’‘(10).
Về môi trường vĩ mô (bao gồm các chỉ số: lạm phát, thâm hụt ngân sách, tổng
thương mại, thuế nhập khẩu, tiền thu từ tư nhân hóa): Phần lớn các chỉ số về
chính sách vĩ mô của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập
khẩu vẫn ở mức 26% – mức quá cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).
Về quy chế môi trường
kinh doanh (bao gồm các chỉ tiêu: số lượng doanh nghiệp
mới thành lập; về xử phạt hành chính; chỉ số về nhận thức tham nhũng; chỉ số về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; về xử lý quan liêu của chính phủ; mức độ hoạt động
của kinh tế ngầm; chỉ số về tự do kinh tế): Theo phân loại của Diễn đàn Kinh tế
thế giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế hành chính,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức độ mở cửa của
nền kinh tế. Vào năm 2001, chỉ số nhận thức về tham nhũng của Việt Nam ở mức
75/91nước; chỉ số di sản về tự do kinh tế ở mức 144/149 nước. Tại Kỳ họp thứ 4
(tháng 1l-2003) Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước
(sửa đổi), nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp ímg được các đòi hỏi
bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự chủ, tự hạch toán kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp,
‘‘xin cho’‘ và các đặc quyền đặc lợi khác (khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất
tiền vay…). Đây chính là những kẽ hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ
biến của các doanh nghiệp nhà nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà
nước, không muốn vươn lên bằng cạnh tranh lành mạnh. Những hạn chế này
cũng là một căn nguyên làm tăng thêm nạn tham nhũng và tiêu cực vốn còn đang
rất nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ (bao gồm các chỉ tiêu: số
lượng tiến bộ công nghệ được ứng dụng; số kỹ sư và nhà khoa học trên một triệu
dân; tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển): Theo đánh giá của Diễn đàn
Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công nghệ. Cho đến cuối
năm 2003, vẫn chưa tạo được những cơ chế thiết thực để gắn kết khoa học – công
nghệ với sản xuất, kinh doanh; chưa hình thành được thị trường khoa học – công
nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân
sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được Nhà
nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên cứu phải
trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các sản phẩm đó.
Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng và còn mang
nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép buộc mọi doanh
nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa học, công nghệ(11).
Về công nghệ thông tin và truyền thông (bao gồm các chỉ tiêu: số máy tính cá nhân
trên 1000 người; số thuê bao In-tơ-nét; chi phí gọi điện thoại trong nước và quốc
tế; xếp hạng về sự sẵn sàng trong kinh doanh điện tử…): Nếu so với trước đây,
tốc độ tăng trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá
nhanh; nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển,
Việt Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông
tin và truyền thông, do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư điện
tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn cao…
Về kết cấu hạ tầng (bao gồm các chỉ số như đường đã được lát nhựa hoặc bê-tông
hóa trên tổng số đường hiện có; số km2 đường được lát tính bình quân theo đầu
người; mật độ điện thoại cố định; mật độ điện thoại di động; tiêu thụ điện năng
trên đầu người…): Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực lớn
để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức 76/100 nước; chỉ số
về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 39/kwh (trong khi Ca-na-da
là 17000 kwh/năm, Mỹ là 14000 kwh/năm, Trung Quốc và 926 Kwh/năm, Hồng
Kông là 5700 kwh/năm, Nhật Bản là 8200 kwh/năm, Ma-lai-xi-a là 2800 kwh,
Thái Lan là 1600 kwh, Xin-ga-po 8100 kwh, Cam-pu-chia 20 kwh).
Về nhân lực (bao gồm chỉ số phát triển con người, tỷ lệ lao động nữ, tỷ lệ mù chữ,
tỷ lệ không được vào trung học trong độ tuổi, mức rò rỉ chất xám ra nước ngoài):
Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung bình yếu về nhân lực, xếp
thứ 3,79/10 – đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu vực; đáng lo ngại hơn là trình
độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ cao đều còn ở mức cuối bảng.
3. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan mang tính bao trùm của tình hình là do
Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi giai đoạn khởi động của quá trình chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng chủ
yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan bắt nguồn trực tiếp từ những khiếm khuyết
trong hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế chưa đủ
sức hấp dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển mạnh và đồng bộ sang thể chế kinh tế
thị trường. Khung pháp lý hiện có chưa đáp ứng kịp nhu cầu hình thành và phát
triển của các thị trường thiết yếu, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến
địa phương chưa đủ sức kiểm soát và ngăn chặn được các ‘‘thị trường ngầm’‘
gây nhiều tiêu cực. Trong việc thiết kế và áp dụng các công cụ điều tiết vĩ mô,
nhiều cơ quan nhà nước vẫn thiên về lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự
coi trọng lợi ích và nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình
trạng phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những
hình thái biến tướng của bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm hãm
khả năng phát triển của đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để khắc
phục. Trong một số lĩnh vực, sự
độc quyền của Nhà nước bị các tổng công ty lợi
dụng để biến thành đặc quyền riêng, biểu hiện ở giá cả của hầu hết sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ mang tính độc quyền đều cao hơn giá quốc tế, dẫn đến làm
tăng chi phí ‘‘đầu vào’‘ của các doanh nghiệp. Trong khi đó, chúng ta chưa xây
dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho sự cạnh tranh lành mạnh và bình
đẳng. áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh, nhưng
nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn ‘‘đủng đỉnh’‘ để trông đợi vào sự đầu tư
và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn ngân sách đang khan hiếm và tín dụng ưu
đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí vẫn bao cấp tràn lan kéo dài cho nhiều doanh
nghiệp nhà nước đang làm ăn không có hiệu quả. Cơ quan quản lý nhà nước các
cấp nhìn chung vẫn can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
trong khi lại bỏ qua hoặc thực hiện không tốt những chức năng đích thực của
mình. Biểu hiện cụ thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng vừa thiếu hiệu lực,
chưa xây dựng được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và thống nhất phù hợp
với yêu cầu khách quan của cơ chế cạnh tranh thị trường trong điều kiện toàn
cầu hóa, quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất lãng phí –
nhất là đối với đất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng tiền ngân sách,…
Những thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh
hưởng rất tiêu cực đến khả năng tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh
quốc tế của Việt Nam.
Để tăng cường khả năng
cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng tác động mạnh mẽ cần phối hợp trí tuệ của
nhiều nhà khoa học và quản lý ở nhiều cấp, nhiều ngành. ở đây, chúng tôi chỉ xin
nêu một số vấn đề chủ yếu.
Trước hết, cần thống nhất nhận thức uy thế lớn nhất của nền kinh tế thí trường
chính là ở tính cạnh tranh. Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế
thị trường. Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt phá sức sống của
nó. Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ và duy trì cạnh
tranh bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy định pháp luật minh
bạch, dễ hiểu, dễ làm.
Hai là, nhanh chóng xác lập những điều kiện tiền đề cho chính sách cạnh tranh.
Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới giữa thị trường và