Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Điều chình chính sách thương mại quốc tế của EU ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.28 KB, 23 trang )

Điều chình chính sách thương mại quốc tế của
EU: Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam hiện nay

Nguyễn Thị Thu Hằng

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế; Mã số: 60 31 07
Người hướng dẫn: TS. Lê Quốc Phương
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Hệ thống hóa lý luận về điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế.
Phân tích đánh giá những điều chỉnh trong chính sách thương mại quốc tế về hàng
hóa của EU trong bối cảnh EU mở rộng. Đánh giá tác động của điều chỉnh chính
sách thương mại quốc tế của EU tới việc xuất khẩu hàng hóa của Việt nam. Đề
xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị
trường này

Keywords: Thương mại quốc tế; Xuất khẩu hàng hóa; Kinh tế học quốc tế; Chính
sách thương mại; Việt Nam

Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại luôn là lĩnh vực chiếm vị trí ưu tiên
hàng đầu, được tất cả các bên quan tâm tham gia với nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển
khác nhau. Việc thực thi các chính sách thương mại quốc tế và khu vực để tạo điều kiện
cho sự phát triển ổn định của hoạt động thương mại quốc tế luôn được các nhà lập chính
sách quan tâm đặc biệt là những nước lớn như EU. Với xu hướng tự do hóa đang diễn ra
trên toàn cầu thì việc EU điều chỉnh các chính sách thương mại theo hướng cởi mở hơn
đang trở thành điều tất yếu. Tuy nhiên, tự do hóa thương mại là một quá trình lâu dài, gắn
chặt với quá trình đàm phán để cắt giảm hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan.


Các nước, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển, một mặt luôn đi đầu trong việc đòi
hỏi đàm phán để mở rộng thị trường và thúc đẩy tự do hóa thương mại, mặt khác lại luôn
đưa ra các biện pháp tinh vi hơn và các rào cản phức tạp hơn để bảo hộ sản xuất trong
nước của họ. Điều đó đòi hỏi các nước phải có sự hiểu biết về các điều chỉnh chính sách
thương mại quốc tế một cách linh hoạt, vừa phù hợp với những quy định của WTO, vừa
vượt qua được những rào cản thương mại ngày càng tinh vi và phức tạp của các nước.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là tại sao lại phải nghiên cứu điều chỉnh chính sách
thương mại quốc tế của EU ? Liệu sự điều chỉnh đó có ảnh hưởng đến Việt Nam không?
Làm thế nào để Việt Nam có thể thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này? Đó là
những vấn đề cần quan tâm đối với các cấp, các ngành, các Doanh nghiệp và các hội
Doanh nghiệp của Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu chính sách kinh tế, thương mại của
EU và những tác động của việc mở rộng đối với quan hệ kinh tế, thương mại với Việt
Nam là việc làm rất cần thiết, trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp thiết thực ở cả tầm vĩ
mô và vi mô để tận dụng và phát huy những thế mạnh sẵn có và những thuận lợi do việc
mở rộng của EU mang lại, đồng thời khắc phục hoặc hạn chế đến mức tối đa những bất
lợi do chiến lược mở rộng gây ra, nhằm tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh
tế, thương mại giữa Việt Nam với EU lên một tầm cao mới. Quá trình điều chỉnh chính
sách của EU không chỉ tác động tới bản thân các nước thành viên mà còn tác động tới các
nước bên ngoài, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài:
“Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU: Ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng
hóa của Việt Nam hiện nay” cho Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế đối ngoại
2. Tình hình nghiên cứu.
Ở nước ta đã có nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến chính sách thương mại của
EU như:
1/TSKH. Võ Đại Lược (2003), Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh
chính sách phát triển kinh tế ở một số nước lớn, NXB Khoa học xã hội. Tác giả đã phân
tích, làm rõ những xu hướng điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế của một số nước
trong bối cảnh quốc tế. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu phân tích đánh giá tác động của
chính sách cụ thể đối với từng nước trong bối cảnh phát triển mới, đặc biệt là chính sách
thương mại quốc tế về hàng hóa.

2/ GS. Carlo Altomonte, GS.Mario Nava và GS. Bùi Duy Khoát (2004), Kinh tế
và chính sách của EU mở rộng, NXB Chính trị Quốc gia. Tác giả đã có cái nhìn toàn diện
về các lĩnh vực của EU 25 và quan hệ thương mại đầu tư của EU với Việt Nam. Tuy
nhiên tác giả chưa đi sâu phân tích các điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU
trong quá trình mở rộng các thành viên mới.
3/ Vụ Âu- Mỹ (2004), Ảnh hưởng của Liên minh châu Âu mở rộng đến quan hệ
thương mại với Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài nghiên cứu chủ yếu về tình
hình kinh tế, thương mại của EU cũng như mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa EU với
Việt Nam và các ứng cử viên trong chiến lược mở rộng. Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu
phân tích các điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU trong quá trình mở rộng
các thành viên mới.
4/ Đặng Minh Đức (2008), Tác động của điều chỉnh chính sách cạnh tranh của
EU đến quan hệ kinh tế thương mại của EU với các nước đang phát triển, Đề tài nghiên
cứu cấp bộ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đề tài chủ yếu nghiên cứu sự tác động của
điều chỉnh chính sách cạnh tranh của EU đến quan hệ kinh tế thương mại đối với các
nước đang phát triển. Đề tài chưa nghiên cứu các điều chỉnh chính sách thương mại quốc
tế của EU trong bối cảnh kinh tế mới.
5/PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam- Liên minh
châu Âu: Thực trạng và triển vọng, NXB Khoa học xã hội. Tác giả đã phân tích thực
trạng quan hệ kinh tế Việt Nam- Liên minh châu Âu giai đoạn từ 1995 đến nay với ba nội
dung chính là thương mại, đầu tư và hỗ trợ phát triển chính thức. Trên cơ sở đó tác giả
đưa ra những định hướng và giải pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam- EU đến năm
2020. Tuy nhiên, tác giả chưa đi nghiên cứu các chính sách thương mại quốc tế của EU
trong bối cảnh mới.
Ngoài ra còn một số chuyên đề nghiên cứu, các bài báo đăng trên các tạp chí
nghiên cứu kinh tế chuyên ngành và một số tham luận tại các hội thảo khoa học về chính
sách thương mại của EU trong bối cảnh EU mở rộng. Tuy nhiên, những đề tài này chưa
đi sâu đánh giá một cách hệ thống, đầy đủ những điều chỉnh chính sách thương mại quốc
tế của EU, đặc biệt là sau khi EU mở rộng thêm các thành viên mới. Những sự điều chỉnh
này có tác động như thế nào tới quan hệ của EU với bên ngoài và một vài đánh giá về tác

động tới quan hệ thương mại Việt Nam- EU, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam vừa
chính thức trở thành thành viên của WTO.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích, làm rõ thực trạng điều chỉnh chính sách thương
mại quốc tế của EU hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường này
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa lý luận về điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế
+ Phân tích đánh giá những điều chỉnh trong chính sách thương mại quốc tế về
hàng hóa của EU trong bối cảnh EU mở rộng
+ Đánh giá tác động của điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU tới việc
xuất khẩu hàng hóa của Việt nam
+ Đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị
trường này
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những điều chỉnh trong chính sách
thương mại quốc tế của EU
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Chính sách thương mại quốc tế là vấn đề rộng, luận văn chỉ
nghiên cứu những điều chỉnh trong chính sách thương mại quốc tế về hàng hóa (chính
sách thuế quan và các chính sách phi thuế quan) của EU với các đối tác bên ngoài (chính
sách ngoại thương của EU ) từ năm 2004 đến 2011.
+ Về thời gian: Từ năm 2004 đến 2011 ( năm 2004 là năm mà EU kết nạp thêm 10
nước Đông Âu và vùng Bantic làm thành viên- Đây cũng là lần kết nạp lớn nhất và có
ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử mở rộng của EU).Từ EU15 thành EU 25 rồi EU 27, hai
nhóm quan hệ giữa Việt Nam với khu vực này trước đây sẽ nhập vào nhau, tạo ra những
thuận lợi và thách thức mới, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp chủ yếu được dùng để nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, các lý luận kinh tế học hiện đại về chính sách thương mại quốc tế. Đồng

thời, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê để xử lý số liệu những điều
chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU mở rộng; phân tích, so sánh và đưa ra các
đánh giá, nhận định về quá trình điều chỉnh của EU.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa những lý luận chung về chính sách thương mại quốc tế và điều chỉnh
chính sách thương mại quốc tế, phân tích thực trạng điều chỉnh chính sách thương mại
quốc tế về hàng hóa của EU trong bối cảnh kinh tế mới
- Phân tích những tác động của điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU với
đối tác bên ngoài . Từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam vào thị trường này.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế: Cơ sở lý luận chung và nhu cầu
điều chỉnh đối với EU
Chƣơng 2: Thực trạng điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Liên minh châu Âu
Chƣơng 3: Ảnh hưởng của điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU tới Việt
Nam
CHƢƠNG 1
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ: CƠ SỞ
LÝ LUẬN CHUNG VÀ NHU CẦU ĐIỀU CHỈNH ĐỐI VỚI EU

1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI
1.1.1.Khái niệm, vai trò của chính sách thƣơng mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên
tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt
động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. [3,tr.96]
Bản chất của chính sách ngoại thương là thể hiện bản chất của chế độ xã hội và do
chế độ xã hội quyết định. Vì vậy, nó luôn được điều chỉnh một cách mềm dẻo để phù hợp

với từng thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, mặc dù được điều chỉnh liên tục như vậy nhưng
chính sách ngoại thương vẫn luôn đảm bảo những vai trò sau:
Thứ nhất: Tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong nước thâm nhập và mở rộng
thị trường ra nước ngoài, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
Thứ hai: Bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho DN trong nước đứng vững
và vươn lên trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
1.1.2. Các công cụ và biện pháp chủ yếu của chính sách thƣơng mại quốc tế.
1.1.2.1. Các biện pháp thuế quan
Thuế quan là một công cụ phổ biến nhất trong chính sách thương mại quốc tế và là
một phương tiện truyền thống để làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Không
những thế, thuế quan còn có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp
non trẻ mới được hình thành, chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
1.1.2.2. Các biện pháp phi thuế quan.
Các biện pháp phi thuế quan hiện nay rất đa dạng và được áp dụng phổ biến trong
thương mại quốc tế, đó có thể là biện pháp hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, các biện
pháp kỹ thuật, trợ cấp, chống bán phá giá. Các biện pháp này được sử dụng vì mục đích
tạo dựng một môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch.
1.1.3. Điều chỉnh chính sách thƣơng mại quốc tế trong bối cảnh kinh tế mới
a) Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh kinh tế mới
Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế là việc cải cách, sửa đổi, bổ sung hệ
thống luật pháp và chính sách thương mại quốc tế phù hợp với các chuẩn mực của WTO.
Vì vậy, nếu được là thành viên của WTO thì đây sẽ là cơ hội để các quốc gia có điều kiện
xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách của mình phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt
khác, có được một môi trường kinh doanh hiệu quả và một sân chơi với các quy định chặt
chẽ. Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế được xem xét trên hai nội dung chính là:
điều chỉnh chính sách thuế quan và điều chỉnh chính sách phi thuế quan.
b) Điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo thoả mãn các điều
kiện:
* Phải tuân thủ các nguyên tắc của WTO:
+ Nguyên tắc công nhận lẫn nhau.

+ Nguyên tắc không phân biệt đối xử
* Thiết lập các điều kiện cho việc hội nhập thông qua điều chỉnh cơ cấu hành
chính, tư pháp.
* Phát triển nền kinh tế thị trường và có khả năng đương đầu được với sức ép
cạnh tranh giữa các nước.
1.2. SỰ CẦN THIẾT ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
CỦA EU TRONG BỐI CẢNH EU MỞ RỘNG THÊM CÁC THÀNH VIÊN
1.2.1. Các mốc phát triển chính của châu Âu
Hiện nay, EU đang chuyển từ bảo hộ thương mại trước đây sang một cơ chế cởi
mở và định hướng tự do hoá thương mại theo hướng chủ yếu sau:
- Về tăng cường mức độ tự do hoá trong chính sách thương mại: Đối với nội khối,
các thành viên của EU đã đồng thuận thực hiện việc dỡ bỏ toàn bộ các rào cản thương
mại. Đối với ngoại khối, chính sách thương mại của EU được áp dụng một biểu thuế
quan và các ưu đãi cụ thể cho các nước đang phát triển.
- Về điều chỉnh chính sách thương mại theo phạm vi địa lý: EU xác định phạm vi
điều chỉnh chính sách thương mại thông qua các đàm phán, ký kết, thoả thuận song
phương và đa phương với các tổ chức quốc tế, các đối tác khác nhau trên thế giới.
- Về các lĩnh vực tự do hoá thương mại mà chính sách thương mại chung EU cần
điều chỉnh: Trong dài hạn, những hạn chế thương mại chắc chắn sẽ phải dỡ bỏ nhưng cần
xem xét tới lĩnh vực nào ưu tiên làm trước và phải có lộ trình rõ ràng.
- Về đối tượng chịu tác động của quá trình điều chỉnh: Chính sách thương mại của
EU cũng cần tính tới mức độ tác động của quá trình điều chỉnh mà nó gây ra cho mỗi
quốc gia hoặc nhóm quốc gia đang là đối tác thương mại của EU.
1.2.2. Tiếp tục phát huy những thành tựu phát triển kinh tế đã đạt được
1.2.3. Đáp ứng đòi hỏi bức xúc của tự do hóa thương mại
1.2.4. Khắc phục tình trạng bảo hộ quá mức của sản xuất nội địa
1.2.5. Tăng cường hiệu quả kinh tế, giảm thiểu những tác động bất lợi từ mở rộng thêm
các thành viên
1.3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG EU
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của EU

EU là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu .Với 6 thành viên ban đầu
thì hiện nay EU đã có 27 thành viên và đã trải qua 6 lần mở rộng:
Năm 1957 bao gồm: Bỉ, Đức, Italia, Luxembourg, Pháp, Hà Lan.
Lần mở rộng thứ nhất ( năm 1973): Đan Mạch, Ireland, Anh
Lần mở rộng thứ hai (năm 1981): Hy lạp
Lần mở rộng thứ ba (năm 1986): Tây Ban Nhà và Bồ Đào Nha
Lần mở rộng thứ tư (năm 1995): Áo, Phần lan, Thuỵ Điển
Lần mở rộng thứ năm (năm 2004): Séc, Hungary, Ba Lan, Slovenia, Slovakia,
Litva, Latvia, Estonia, quốc đảo Matta, Cộng hoà Síp.
Lần mở rộng thứ sáu (năm 2007): Romania, Bulgaria
1.3.1. Tình hình kinh tế của EU
1.3.2.1. Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và sự suy giảm mạnh của nhiều nền kinh
tế châu Âu
Trong năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã có những tác động mạnh
đến nền kinh tế EU. Theo số liệu của Eurostat (cơ quan thống kê của EU), GDP của cả
khu vực Euro và toàn khối EU trong đều giảm. Tăng trưởng GDP của EU chỉ đạt khoảng
1% trong năm 2008. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến hàng loạt ngân hàng tại
châu Âu lâm vào cảnh vỡ nợ. Chính phủ các nước phải chi hàng trăm tỷ USD để mua lại
cổ phần của các ngân hàng cũng như tăng tính thanh khoản cho thị trường tiền tệ. Tình
hình tiếp tục có những diễn biến phức tạp vào những tháng cuối năm, khi nguy cơ lạm
phát đã cơ bản được đẩy lùi thì EU lại chuyển sang rơi vào nguy cơ suy thoái kinh tế
(một số nước như Italia, Tây Ban Nha, Đức đã chính thức bị suy thoái).
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng chậm chạp, tỷ lệ thất nghiệp cao, vấn đề thâm hụt
ngân sách của hầu hết các nước EU cũng trong tình trạng báo động. Theo số liệu chính
thức mới được công bố của cơ quan thống kê Eurostat, Anh là nước có tỷ lệ thâm hụt
ngân sách cao thứ 3 với 10,4% GDP năm 2010, trên cả Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Dẫn đầu danh sách thâm hụt là Ireland với tỷ lệ 32,4% GDP, cao hơn so với mức dự báo
32,3%. Hy Lạp đứng ở vị trí thứ 2 với 10,5% khi nước này cũng phải nhờ đến khoản cứu
trợ trị giá 110 tỷ EUR vào năm 2010.
Tuy nhiên, do khủng hoảng rất nghiêm trọng nên kinh tế châu Âu chưa thể phục

hồi ngay được. “Báo cáo tình hình kinh tế” của Hội đồng Châu âu ngày 27/12/2010 dự
kiến tăng trưởng GDP năm 2010, 2011 và 2012 của EU lần lượt là 1,8%, 1,7% và 2% và
của Eurozone lần lượt là 1,7%, 1,5% và 1,8%.
1.3.2.2. Liên minh châu Âu với chiến lược kinh tế 10 năm
Ngày 18/06/2010, các lãnh đạo Liên minh châu Âu (EU) cam kết tăng cường kiểm
soát các khoản vay quá mức của chính phủ những quốc gia thành viên và đặt nền móng
cho việc quản lý kinh tế xuyên biên giới.
Ngày 28/10/2010, các nhà lãnh đạo EU đưa ra “Mười biện pháp lớn chấn hưng
công nghiệp” và ngày 10/11/2010 lại tiếp tục đưa ra “Chiến lược phát triển năng lượng
mới”, trong đó hứa hẹn đầu tư 1.000 tỉ EUR cho chương trình này.
Cùng với các biện pháp chiến lược trên, các nhà lãnh đạo EU cũng nhất trí kể từ
năm 2011 sẽ tiến hành thiết lập 4 cơ quan quản lý tiền tệ mới trực thuộc Cơ quan quản lý
tiền tệ châu Âu, đồng thời tăng quyền cho cơ quan này như có quyền phế truất cơ quan
quản lý tiền tệ nước thành viên nếu thấy cần thiết và trực tiếp chỉ đạo các cơ quan quản lý
tiền tệ liên quan. Ngoài ra, trong hội nghị thượng đỉnh từ 16- 17/12/2010, các nhà lãnh
đạo châu Âu cũng nhất trí sửa lại một số điểm trong “Hiệp ước Lisbon” để lập một
“phòng tuyến ngăn chặn” khủng hoảng tiền tệ.
1.3.3. Tập quán, thị hiếu tiêu dùng và kênh phân phối
1.3.3.1. Tập quán và thị hiếu tiêu dùng của người dân EU
EU gồm 27 quốc gia, mỗi quốc gia lại có thị trường tiêu dùng riêng. Do vậy,
có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá.
Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa các thị
trường quốc gia trong khối EU, nhưng 27 nước thành viên những điểm tương đồng
về kinh tế và văn hoá. Trình độ phát triển kinh tế-xã hội của các nước thành viên không
đồng đều, song người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen
tiêu dùng một số loại hàng hoá.
1.3.3.2. Kênh phân phối hàng hóa
Ngoài yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm, vệ sinh, thì tập quán, thói quen
tiêu dùng, thị hiếu của người dân EU là yếu tố quan trọng để có thể thâm nhập được vào
hệ thống phân phối của châu Âu. Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong khâu

lưu thông và xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này. Hệ thống phân phối của EU bao
gồm các hình thức phân phối như sau : Các trung tâm châu Âu ; Các đơn vị chế biến; Dây
chuyền phân phối; Các nhà bán buôn, bán lẻ ; Người tiêu dung.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
2.1. NỘI DUNG CỦA ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
CỦA EU
2.1.1. Nội dung của điều chỉnh chính sách Thƣơng mại Nội khối EU
+ Thứ nhất, mở rộng thực hiện Liên minh Kinh tế- Tiền tệ ở các nước thành viên
mới.
+ Thứ hai, Chính sách cạnh tranh của EU là “công cụ pháp lý” để điều chỉnh
trong lĩnh vực dịch vụ ở Liên minh châu Âu.
+ Thứ ba, tiếp tục điều chỉnh chính sách thương mại hàng hóa.
+ Thứ tư, đảm bảo quá trình “nội luật hóa” các quy định về Chính sách Thương
mại Nội khối ở EU
+ Thứ năm, tiếp tục nâng cao hiệu quả sức mạnh cạnh tranh của Chính sách
Thương mại Nội khối trong bối cảnh toàn cầu hóa.
+ Thứ sáu, điều chỉnh và kết hợp một số chính sách đồng bộ khác nhằm thực hiện
hiệu quả Chính sách Thương mại Nội khối của EU.
2.1.2. Nội dung của điều chỉnh Chính sách Thƣơng mại Chung EU
2.1.2.1. Điều chỉnh Chính sách Thương mại Chung đối với các đối tác chủ chốt
Quan hệ thương mại giữa EU và một số đối tác chủ chốt đã cho thấy các quốc gia
có trao đổi thương mại lớn nhất với EU luôn là đối tượng hàng đầu trong thực thi Chính
sách Thương mại Chung cho cả khối. Các điều chỉnh này được xem xét ở hai góc độ:
quan hệ thương mại đa phương của EU trong khuôn khổ của WTO và quan hệ thương
mại song phương với các đối tác chủ chốt trên thế giới.
2.1.2.2. Điều chỉnh chính sách Thương mại Chung trong quan hệ với các nước đang
phát triển
Quan hệ thương mại giữa EU và nhóm các nước đang phát triển Châu Phi, Mỹ

Latinh, ASEAN đã đạt được những bước phát triển nhất định trong thời gian qua. Những
nội dung điều chỉnh quan trọng nhất của Chính sách Thương mại Chung EU đối với các
nước đang phát triển là cơ chế ưu đãi của Thỏa ước Cotonou và GSP.
2.1.2.3. Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan trong quan hệ với các đối tác
bên ngoài
Các nước thuộc Liên minh châu Âu áp dụng thuế quan chung của EU được xây
dựng dựa trên Hệ thống mã mô tả hàng hóa hài hoà quốc tế (HS) về phân loại hàng hóa.
Để quyết định thuế suất cho một hàng hóa, việc phân loại rất quan trọng. Khi một hàng
hóa đã được phân loại thì nó sẽ giúp EU đánh giá xem có nên áp dụng thuế chống bán
phá giá hay không; có cần cấp phép nhập khẩu hay không; được hưởng giảm thuế, miễn
thuế hay ưu đãi thuế hay không, được áp dụng cho từng loại hàng hoá.
Chế độ thuế quan chung (CCT) được áp dụng cho tất cả các nước thành viên EU,
nhưng thuế suất khác nhau phụ thuộc vào loại hàng nhập khẩu và nguồn gốc xuất xứ của
hàng hóa. Liên minh thường điều chỉnh Hệ thống thuế quan chung như một công cụ hữu
hiệu của ngoại thương.
a/ Thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu vào EU: Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế giá
trị gia tăng (VAT); Thuế thực phẩm; Thuế nông sản và hải sản.
Liên minh thường điều chỉnh Hệ thống thuế quan chung và biểu thuế quan chung
này được chia thành hai nhóm nước: Các nước có thực hiện quy chế Tối huệ quốc
(MFN); Các nước đang phát triển được hưởng đơn thuần ưu đãi (GSP) hoặc một số nước
đang phát triển được hưởng ưu đãi GSP kèm với những ưu đãi theo hiệp định song
phương khác.
b) Đối với các nước có thực hiện quy chế Tối huệ quốc (MFN)
Các nước có thực hiện quy chế Tối huệ quốc được hiểu là mỗi thành viên phải đối
xử với các thành viên khác trong tổ chức một cách công bằng như những đối tác thương
mại “ưu tiên nhất”. Thông thường nguyên tắc Tối huệ quốc được quy định trong các hiệp
định thương mại song phương. Thực tế cơ cấu thuế MFN của EU hầu như không thay
đổi, nhưng tương đối phức tạp bởi thực chất thuế ưu đãi này cũng đã quá thấp (trung bình
6,7%) và số lượng các đối tác thương mại được EU dành MFN không nhiều
c) Đối với các nước đang phát triển được hưởng đơn thuần ưu đãi (GSP) hoặc một

số nước đang phát triển được hưởng ưu đãi GSP kèm với những ưu đãi theo hiệp định
song phương khác
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) là những ưu đãi của các nước phát triển
dành cho các nước kém phát triển, đang phát triển trong thương mại trên cơ sở không có
đi có lại. GSP của EU bao gồm 3 mức độ ưu đãi khác nhau. Thứ nhất, tất cả các quốc gia
trong diện hưởng ưu đãi được thụ hưởng những ưu đãi chung; Thứ hai, những ưu đãi và
khuyến khích đặc biệt (ưu đãi GSP+) dành cho các quốc gia thực hiện tốt những tiêu
chuẩn quốc tế về phát triển bền vững và quản trị quốc gia tốt; Thứ ba, ưu đãi dành cho
hàng hóa của các nước chậm phát triển khi tiếp cận thị trường không phải trả thuế quan
và không bị giới hạn bởi quy định về hạn ngạch, trừ các loại vũ khí thiết bị, quân sự.
Để giúp hàng hoá của các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển (trong
đó có Việt Nam) tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thì một chương trình ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP) đã được Hội đồng châu Âu thông qua quy chế áp dụng cho từng
thời kỳ. EU đã quyết định kéo dài thời gian áp dụng GSP cho giai đoạn 2006-2008 đến
2011. Theo đó, EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm cụ thể như sau: -
Nhóm 1: Sản phẩm rất nhạy cảm
- Nhóm 2: Sản phẩm nhạy
- Nhóm 3: Sản phẩm bán nhạy
- Nhóm 4: Sản phẩm không nhạy cảm
* Thực tiễn điều chỉnh:
Từ 01/01/2006, EU chính thức áp dụng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập mới cho
136 nước và vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, EU đã điều chỉnh lại hệ thống chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập mới này,
từ việc phân loại hàng hoá thành 4 loại như trước đây thì nay chuyển thành 2 loại là sản
phẩm không nhạy cảm và sản phẩm nhạy cảm. Đối với các sản phẩm nhạy cảm như hàng
nông sản, hàng dệt may, da giày, gang thép sẽ được giảm 3,5 điểm phần trăm đối với
những sản phẩm tính thuế theo khối lượng (điểm phần trăm là sự chênh lệch tuyệt đối
giữa hai giá trị phần trăm). Đối với các sản phẩm không nhạy cảm được miễn thuế hoàn
toàn. Trên thực tế, không phải sản phẩm nào cũng được hưởng chế độ GSP mà chỉ những
sản phẩm thoả mãn 3 điều kiện cơ bản sau:

* Điều kiện xuất xứ:
Ưu đãi GSP áp dụng đối với hàng nhập khẩu vào khu vực Liên minh châu Âu phải
có xuất xứ từ nước thụ hưởng và nước thụ hưởng đó phải được hưởng các ưu đãi GSP.
Quy tắc xuất xứ được nêu trong Quy định Uỷ ban số 2454/93 theo đó:
+ Sản phẩm xuất xứ toàn bộ
+ Sản phẩm được sản xuất toàn bộ hoặc một phần từ nguyên liệu nhập khẩu phải
được gia công hoặc chế biến đầy đủ.
Ngày 01/01/2011 Uỷ ban châu Âu áp dụng quy định mới về Quy tắc xuất xứ. Quy
định này được điều chỉnh như sau:
- Quy tắc xuất xứ gồm 1 trong 4 tiêu chí: hàm lượng giá trị nội địa, chuyển mục
hoặc tiểu mục thuế, các hoạt động gia công, chế biến theo quy định, việc sử dụng nguyên
liệu hoàn toàn tại nước thụ hưởng (khoáng sản, sản phẩm nuôi trồng đánh bắt trên lãnh
thổ).
- Mức độ tỷ trọng linh động theo nước (nếu là chậm phát triển thì hàm lượng chỉ
30% hoặc tương đương) hoặc theo ngành hàng (yêu cầu cụ thể với từng ngành như đánh
bắt ngoài lãnh hải - mức độ vốn sở hữu tại tầu tối thiểu 50%) hay tỷ trọng giá trị nguyên
liệu ví dụ sợi ni lông (hàm lượng 20%), sợi nhựa hoặc nhôm (hàm lượng 30%) hay hàm
lượng chế biến ví dụ không cho phép pha vào đường bất cứ chất gì để chuyển xuất xứ của
đường…
- EU được phép quy định hàm lượng giá trị nội địa linh động cho các nước căn cứ
vào tình hình thiên tai, tình hình kinh tế hay một chương trình ưu đãi riêng theo sáng kiến
của EU.
- Điều chỉnh cộng gộp xuất xứ: Bổ sung nhóm 4 trong cộng gộp:
+ Nhóm 1: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Singapore,
Thái Lan, Việt Nam
+ Nhóm 2 : Bolivia, Colombia, Costa Rica, Ecuador, El Salvador, Guatemala,
Honduras, Nicaragua, Panama, Peru, Venezuela;
+ Nhóm 3 : Bangladesh, Bhutan, Ấn độ, Maldives, Nepal, Pakistan, Sri Lanka;
+ Nhóm 4 : Argentina, Brazil, Paraguay và Uruguay.
Cho phép cộng gộp xuất xứ song phương giữa các nước thụ hưởng và hàng hoá có

nguồn gốc EU
- Cho phép cộng gộp xuất xứ giữa 1 nước thụ hưởng với khu vực, nước đã có hiệp
định thương mại tự do với EU
- Cho phép cộng gộp xuất xứ ASEAN và Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
(SAARC)
Theo dự kiến của EU, từ ngày 01/01/2017, hệ thống cấp giấy chứng nhận xuất xứ
hiện hành của các nước thứ ba sẽ được thay thế bằng thông báo xuất xứ do các nhà xuất
khẩu thực hiện trực tiếp qua hệ thống điện tử. Như vậy, việc áp dụng quy tắc xuất xứ mới
đã được EC quy định thực hiện đối với GSP là lĩnh vực EU đơn phương cho các nước
đang phát triển được hưởng và các nước đang phát triển phải tuân thủ nếu muốn được
hưởng ưu đãi này của EU.
* Điều kiện vận chuyển: Theo quy định của EU, nhà xuất khẩu phải đảm bảo hàng
được vận chuyển từ nước được hưởng là cùng một hàng hóa với hàng hóa đến EU và
chúng không bị gia công hay chế biến thêm tại nước thứ ba trong khi vận chuyển. Các
doanh nghiệp xuất khẩu cần phải chứng minh:
+ Hàng hóa được vận chuyển không đi qua lãnh thổ của quốc gia nào khác, trừ khi
là lãnh thổ của một nước khác trong cùng một khối khu vực.
+ Trường hợp hàng hóa của một chuyến hàng được vận chuyển qua lãnh thổ quốc
gia khác mà nếu như xảy ra quá cảnh hay lưu kho tạm thời ở những nước này thì bắt buộc
hàng hóa đó phải nằm dưới sự kiểm soát của các cơ quan hải quan nhằm đảm bảo chúng
ở trạng thái tốt.
* Điều kiện chứng từ:
Ngoài các chứng từ về vận chuyển thẳng còn có giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A.
Đây chính là một trong những chứng từ chính thức mà cơ quan hải quan EU dựa vào đó
để cho hàng hóa ưu đãi GSP. Theo quy định của EU, giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A
phải được xuất trình trong vòng 10 tháng kể từ ngày cấp.
Ngoài ra, ngày 10/5/2011, Uỷ ban châu Âu (EC) đã trình Hội đồng châu Âu và
Nghị viện châu Âu xem xét dự thảo Quy định mới về cho hưởng Ưu đãi Thuế quan
Chung (GSP) của EU. Do EU đã quyết định gia hạn áp dụng quy định GSP hiện hành
thêm 2 năm nữa nên theo kế hoạch, quy định mới sẽ được áp dụng từ năm 2014.

* Hạn chế của điều chỉnh chính sách thuế quan:
Việc cấp ưu đãi theo GSP không hạn chế định lượng. Hàng nhập khẩu hưởng ưu đãi
có thể tăng lên tới mức gây ra các khó khăn nghiêm trọng cho các nhà sản xuất Cộng
đồng về cùng loại hàng hoá hoặc hàng hoá có tính chất cạnh tranh trực tiếp. Việc loại bỏ
GSP tạo ra khả năng áp dụng các biện pháp bảo hộ (vídụ tái áp dụng thuế quan phổ thông
khi mà những khó khăn đó nảy sinh)
2.1.2.4. Thực trạng điều chỉnh chính sách phi thuế quan
a) Hạn ngạch: Đặc điểm cơ bản của Liên minh châu Âu là trợ cấp sản xuất nông
nghiệp trong khối, đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với một số nông
sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn lát…. Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ
sinh an toàn thực phẩm… luôn được thực hiện nghiêm ngặt. Bên cạnh các cam kết mở
cửa thị trường trong khuôn khổ WTO về nông nghiệp, EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế
quan đối với một số sản phẩm, giảm dần giá trị và số lượng các sản phẩm được trợ cấp
xuất khẩu.
b) Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
Tiêu chuẩn của EU về kỹ thuật rất rõ ràng, minh bạch, chủ yếu nhằm bảo vệ người
tiêu dùng và môi trường sinh thái.
* Thực tiễn áp dụng quy định tiêu chuẩn kỹ thuật ở EU
- Tiêu chuẩn về chất lượng: Chứng chỉ ISO được coi như tấm giấy thông hành, một
tài sản quan trọng của những doanh nghiệp sở hữu nó, mang lại ưu thế bán hàng khi hoạt
động kinh doanh tại các đối tác kinh doanh.
- Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: Hệ thống tiêu chuẩn thực phẩm châu Âu chủ yếu
dựa trên tiêu chuẩn quốc tế của Tổ chức tiêu chuẩn hóa thực phẩm Quốc tế
(CAC/CODEX). Tuy nhiên, trong một số trường hợp, châu Âu có thể đưa ra các quy định
về vệ sinh thực phẩm khắt khe hơn tiêu chuẩn quốc tế.
- Tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: Hiện nay ở EU có 3 tổ chức định chuẩn:
Uỷ ban châu Âu về định chuẩn, Uỷ Ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn
Viễn thông châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với điều
kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật và định chuẩn quốc gia
được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất ra từ các nước có những

điều kiện sản xuất chưa đạt được tiêu chuẩn của EU.
- Tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
EU đã bắt đầu sử dụng vấn đề bảo vệ môi trường để hạn chế nhập khẩu một số loại
hàng hóa nguồn gốc thiên nhiên. Điển hình là việc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không
cho cá kiếm của Việt Nam nhập khẩu từ tháng 12/2007 với lý do Việt Nam chưa phải là
thành viên của Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC).
Nhãn mác FSC: Hiện tại một vấn đề hết sức quan trọng đối với buôn bán đồ nội thất
và gỗ quốc tế là nguồn gốc gỗ. Những sản phẩm có nguồn gốc không bền vững ngày
càng gặp nhiều khó khăn trên thị trường châu Âu. Việc nhập khẩu các mặt hàng này
không bị pháp luật cấm nhưng lại gặp sự phản đối của khách hàng nên có ảnh hưởng
tương tự như là tẩy chay. Hội đồng quản lý rừng FSC đã ban hành chứng nhận về gỗ đầu
năm 1990 và càng ngày càng được người tiêu dùng nhận biết và lựa chọn ở hầu hết thị
trường châu Âu. Biểu tượng FSC không chỉ đảm bảo rằng gỗ từ rừng được quản lý tốt mà
còn bảo đảm rằng trong toàn bộ các khâu chế biến từ rừng đến sản phẩm hoàn thiện, gỗ
không bị trộn lẫn với các sản phẩm “không bền vững khác”. Bằng cách tránh khai thác gỗ
một cách lãng phí có thể hạn chế được việc khai thác rừng quá mức.
Nhãn mác sinh thái quốc gia: Mỗi nước châu Âu đều có một số nhãn mác sinh thái
cho các mặt hàng nội thất khác nhau được bán trên thị trường.
- Tiêu chuẩn về lao động
Theo quy định, EU cấm nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất doanh
nghiệp sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như được xác định trong
Hiệp ước Geneva (25/91926 và 7/9/1956) và các Hiệp ước lao động quốc tế số 29 và 105.
Cụ thể, các hình thức lao động cưỡng bức bị cấm khi doanh nghiệp sử dụng để sản xuất
hàng hóa nhập khẩu như: lao động tù nhân; lao động trẻ em…
c) Chính sách chống bán phá giá
* Cơ sở hình thành các quy định chống bán phá giá của EU
Các quy định về chống bán phá giá của EU được xây dựng trên cơ sở điều khoản
của WTO, EU chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp các
ngành công nghiệp của EU bị tổn hại do việc nhập khẩu của sản phẩm phá giá.
* Thực tiễn áp dụng chính sách chống bán phá giá của EU

Khi EU phát hiện giá nhập khẩu của sản phẩm trên thị trường EU thấp hơn giá bán
tại thị trường của nhà xuất khẩu điều này gây ra hoặc đe doạ gây tổn thất cho phần lớn
ngành kinh doanh EU dẫn tới chi phí mà EU bỏ ra để thực hiện các biện pháp không
được tỉ lệ nghịch với lợi ích thu được thì thuế chống bán phá giá sẽ được thực thi. Một
Uỷ ban Tư vấn gồm đại diện của các nước thành viên EU và do đại diện của Uỷ ban châu
Âu làm chủ tịch sẽ xem xét đơn kiện. Uỷ ban châu Âu sẽ tiến hành điều tra chống bán
phá giá nếu đơn kiện được đánh giá là cung cấp đầy đủ bằng chứng việc bán phá giá và
những tổn thất vật chất. Uỷ ban châu Âu phải quyết định tiến hành điều tra hay khước từ
đơn kiện trong vòng 40 ngày kể từ khi nhận được đơn kiện.
Uỷ ban châu Âu (EC) sẽ cho đăng quyết định điều tra chống bán phá giá trên Công
báo (The Official Journal of the European Communities). Quyết định này bao gồm tên
sản phẩm sẽ bị điều tra, tên nước xuất xứ của sản phẩm đó và tóm tắt những thông tin EC
đã nhận được, họ cũng nêu thời gian tiến hành điều tra, thời gian cho phép các bên hữu
quan trình bày quan điểm của họ
Mặc dù vậy, các nhà xuất khẩu mặt hàng đang bị điều tra vẫn có thể làm đơn xin
được xem xét công nhận quy chế kinh tế thị trường (MES) nếu chứng minh được rằng họ
hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường và không có sự can thiệp của nhà nước. Nếu đơn
xin công nhận quy chế kinh tế thị trường được chấp nhận, giá trị thông thường sẽ được
tính toán trên cơ sở các thông tin về giá thành do nhà xuất khẩu cung cấp. Trong trường
hợp đơn xin công nhận quy chế thị trường bị từ chối, các nhà xuất khẩu vẫn có thể tìm
cách chứng minh họ hoạt động không có sự can thiệp của nhà nước đối với đến giá xuất
khẩu và như vậy họ có quyền yêu cầu được đối xử riêng rẽ (IT) khi EU tính toán thuế
chống bán phá giá.
2.2. ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC
TẾ CỦA EU
2.2.1. Những thành tựu của việc điều chỉnh chính sách thƣơng mại quốc tế của EU
2.2.1.1. Người dân sinh sống ở Liên minh châu Âu đã được hưởng lợi từ thành quả thực
thi Chính sách thương mại EU.
2.2.1.2. Tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng trong đó ưu tiên quan hệ với
các đối tác lớn.

2.2.1.3. Hiệu quả của nền kinh tế EU tăng lên rõ rệt.
2.2.1.4. Bảo đảm phát triển công bằng và bền vững cho tất cả các quốc gia
2.2.2. Các hạn chế của việc điều chỉnh chính sách thƣơng mại quốc tế của EU và
nguyên nhân
Thứ nhất: Tỷ lệ thất nghiệp dài hạn tương đối cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên là do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu và cuộc khủng hoảng nợ của một
số nước làm đời sống của người dân châu Âu khó khăn, tình trạng thất nghiệp ngày càng
gia tăng.
Thứ hai, trở ngại trong việc thực hiện lưu chuyển dòng vốn giữa các nước thành
viên. Nguyên nhân là do sự lưu chuyển vốn giữa các nước thành viên gặp phải một số trở
ngại liên quan đến môi trường đầu tư, khác biệt trong các quy định về đầu tư giữa các
quốc gia
Thứ ba, kết nạp thêm các nước thành viên mới. Giữa các nước thành viên mới gia
nhập EU và các thành viên cũ có nhiều khác biệt về mức sống, trình độ phát triển. GDP
bình quân đầu người của 10 nước thành viên mới chỉ bằng khoảng 40% mức trung bình
GDP của EU 15 Bởi vậy, các thành viên mới phải nỗ lực rất lớn trong việc cải cách kinh
tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập vào EU.
Cuối cùng, Liên minh châu Âu phải tiếp tục đương đầu với quá trình toàn cầu hóa
và những thách thức mới về phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh mới.

CHƢƠNG 3
ẢNH HƢỞNG CỦA ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA EU TỚI VIỆT NAM

3.1. TỔNG QUAN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT NAM- EU
3.1.1. Khái quát về quá trình phát triển quan hệ Việt Nam- EU
Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ với Cộng đồng châu Âu vào ngày
22/10/1990. Ngày 17/07/1995 Việt Nam và Ủy ban châu Âu ký một loạt các Hiệp định
khung, tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa
Việt Nam- EU.

Để tạo khuôn khổ hợp tác mới nhằm đưa quan hệ hai bên ngày càng đi vào chiều
sâu và toàn diện hơn, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới cũng như điều kiện
và tiềm năng phát triển của mỗi bên. Ngày 12/09/2011 EU đã ký chính thức Hiệp định
Hợp tác và đối tác phát triển với Việt Nam tại Brussels (Bỉ) chính thức thiết lập một
khuôn khổ hợp tác mới cho hai bên sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao nhằm làm
mới quan hệ song phương theo hướng thực chất, sôi nổi hơn.
3.1.2. Quan hệ thƣơng mại Việt Nam- EU trong một số lĩnh vực
3.1.2.1. Lĩnh vực đầu tư
EU cũng là đối tác lớn của Việt Nam. Đến đầu tháng 3/2011, EU có 1.079 dự án
đầu tư trực tiếp đang hoạt động tại Việt Nam (chỉ tính các dự án còn hiệu lực đến
14/3/2011) với tổng số vốn đăng ký là 16.158 tỷ USD, tỷ lệ giải ngân khá cao (khoảng
60%, gấp hơn 3 lần mức trung bình là 18%). Điểm sáng dễ nhận thấy trong quan hệ hợp
tác giữa EU- Việt Nam trong nhiều năm gần đây là EU đang là nhà cung cấp Hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam, năm 2010 tổng ODA cam kết của EU là
1,05 tỷ USD.
3.1.2.2. Về thương mại
Tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam- EU tăng nhanh từ 1,5 tỷ USD
năm 1995 lên 17,73 tỉ USD năm 2010 (trong đó xuất khẩu đạt 12 tỷ USD chiếm 16,55%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước).
3.1.2.3. Văn hóa- Giáo dục
Ngày 01/09/2005 Hiệp định Tài chính cung cấp khoản viện trợ không hoàn lại cho
dự án “Hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục Việt Nam” (SREM). Dự án này được EU tài trợ
12 triệu EUR, Việt Nam đóng góp 2,2 triệu EUR, trong giai đoạn 2006-2009 nhằm phát
triển năng lực và phát triển các hệ thống quản lý giáo dục ở Việt Nam.
3.1.2.4. Dự án MUTRAP
Song hành cùng với tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam là Dự án Hỗ
trợ Thương mại Đa biên - MUTRAP (Mutilateral Trade Assistance Project). Đây là Dự
án hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến thương mại lớn nhất và dài nhất của Liên minh châu Âu
dành cho chính phủ Việt Nam, được khởi đầu với Giai đoạn chuẩn bị (1998-1999), tiếp
nối sau đó là các Dự án MUTRAP I (2001-2003), MUTRAP kéo dài (4/2003-3/2004),

MUTRAP Bắc cầu (8/2004-11/2004), MUTRAP II (2005-2008) và hiện nay là
MUTRAP III (2008-2012).
3.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI
QUỐC TẾ CỦA EU TỚI VIỆT NAM
3.2.1. Tác động tới khả năng xuất khẩu
Liên minh châu Âu (EU) là khu vực chiếm 16,75% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam trong năm 2010. Tuy nhiên, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào
EU vốn đã gặp không ít rào cản thì hiện nay khó khăn lại đang có dấu hiệu gia tăng. Do
tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam- EU
trong năm 2009 đã bị suy giảm 6,67% so với năm 2008 (đạt 15,2 tỷ USD); trong đó, xuất
khẩu của Việt Nam vào EU đạt 9,37 tỷ USD, giảm 13,57%. Các mặt hàng chủ lực của
Việt Nam xuất khẩu vào EU vẫn là những mặt hàng truyền thống như giầy da, dệt may,
cà phê hạt xanh, đồ gỗ, hải sản (chiếm 80% kim ngạch toàn bộ các mặt hàng xuất vào
EU). Do bị áp thuế chống bán phá giá 10% và không được hưởng ưu đãi thuế quan phổ
cập (GSP) mặt hàng giầy da năm 2009 đã bị suy giảm tới 22% so với 2008 (đạt 1,94 tỷ
USD), năm 2010 tăng lên 2 tỷ USD. Ngoài giầy da bị đánh thuế chống bán phá giá thì
ngày 14/7/2005, EU đã quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng xe đạp với
các mức thuế 15,8% (đối với riêng Công ty TNHH Always) và 34,5% được áp dụng cho
tất cả các công ty khác. Trong 5 năm bị áp mức thuế chống bán phá giá nêu trên, lượng
xe đạp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đã sụt giảm nghiêm trọng. Trước 2005,
mỗi năm nước ta xuất khẩu vào thị trường này trên một triệu chiếc, đến năm 2009 con số
này chỉ còn khoảng 21.400 chiếc. Khi chưa bị áp thuế, xe đạp xuất khẩu chiếm tới 80%
sản lượng của toàn ngành. Nhưng từ năm 2005 đến 2009, lượng xuất khẩu xe đạp của
Việt Nam liên tục bị sụt giảm, với tỷ trọng lần lượt là 60%, 45%, 30%, 20% và 15%.
Ngoài ra, năm 2010, EU sẽ tiếp tục đẩy mạnh các rào cản kỹ thuật như tăng cường
thực hiện Luật Hóa chất (REACH), IUU (yêu cầu giấy phép đánh bắt cá đối với sản
phẩm hải sản), đồng thời nghiên cứu triển khai Luật Nghề rừng (FLEGT – yêu cầu có
chứng chỉ rừng, nguồn gốc khai thác gỗ và khai thác rừng bền vững đối với mặt hàng đồ
gỗ). Các quy định của REACH, IUU, hay việc tăng cường kiểm tra an toàn vệ sinh thực
phẩm đối với hàng thủy sản, nông sản, kiểm tra xuất xứ hàng hóa, điều tra gian lận

thương mại của EU không phải bất cứ doanh nghiệp Việt Nam nào cũng có thể vượt qua
3.2.2. Tác động tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Qua nghiên cứu các hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam- EU những năm gần
đây, có thể nhận thấy rằng tác động trực tiếp của EU mở rộng tới xuất nhập khẩu của Việt
Nam là có nhưng không lớn. Bởi vì, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU27
chủ yếu là những hàng hóa giầy dép, dệt may, nông thủy sản, thủ công mỹ nghệ.
3.2.3. Tác động tới đối tác xuất khẩu
Khi EU15 trở thành EU25 rồi EU27, hai nhóm quan hệ trên hòa làm một. Những
thuận lợi và thách thức trong các mối quan hệ giữa Việt Nam với khu vực này trước đây
sẽ nhập vào nhau, tạo ra những thuận lợi và thách thức mới, nhất là trong lĩnh vực kinh
tế, thương mại và đầu tư. Mỗi một thành viên của EU đều có nhu cầu nhập khẩu khác
nhau. Do đó, thị phần cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào từng thị trường sẽ khác
nhau. Tuy nhiên, các đối tác này đều phải tuân thủ các chính sách thương mại Chung của
EU. Nên khi EU điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến các
nước xuất khẩu sang các nước này.
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT
NAM VÀO THỊ TRƢỜNG EU
3.3.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
3.3.1.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu
3.3.1.2. Phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường EU
3.3.1.3. Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu
3.3.1.4. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu
3.3.2. Nhóm giải pháp vi mô
3.3.2.1. Về phía các doanh nghiệp Việt Nam
3.3.2.1.1. Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào kênh phân phối
trên thị trường EU.
3.3.2.1.2. Tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý để tạo nguồn hàng thích hợp với thị
trường EU.
3.3.2.1.3. Tăng cường khai thác quỹ phát triển DN vừa và nhỏ của Liên minh châu Âu
3.3.2.2. Về phía Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam

3.3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang EU
3.3.3.2.2. Phát triển nguồn nhân lực cho đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
KẾT LUẬN
Hoạt động thương mại hai chiều nói chung và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang EU nói riêng đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến
kinh tế của hai phía. EU đã và đang đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại và
mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Hiện
nay, chính phủ Việt Nam và Ủy Ban châu Âu đang có những cố gắng để xích lại gần
nhau và hiểu nhau hơn. Sự hợp tác giúp đỡ này sẽ tạo đà cho việc phát triển hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam chiếm
lĩnh được thị trường này, và EU là thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam trong
tương lai.
Qua kết quả nghiên cứu, luận văn đã phác họa con đường hình thành và mở rộng
của EU, một bức tranh toàn cảnh về kinh tế, thương mại của một thị trường EU thống
nhất. Luận văn cũng nêu bật được việc mở rộng Liên minh và việc thay đổi thể chế, việc
điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế với các đối tác bên ngoài của Liên minh châu
Âu để giúp các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp quan tâm đến thị trường
EU nắm được cơ chế quản lý xuất khẩu và nhất là nhập khẩu của thị trường này nhằm
vạch ra phương pháp tiếp cận thị trường và chiến lược mặt hàng của riêng mình để cho
thể thâm nhập thị trường một cách lâu dài.
Trên cơ sở khái quát điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của EU với các đối
tác bên ngoài, quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam- EU, tác giả đã đề xuất một loạt
những giải pháp ở tầm vĩ mô trong quản lý nhà nước, trong việc tạo lập hành lang pháp lý
và môi trường kinh doanh thông thoáng cho mọi thành phần kinh tế có quan hệ với các
đối tác thuộc EU. Đồng thời, tác giả cũng nêu ra một số giải pháp ở tầm vi mô trong quản
lý kinh doanh của các doanh nghiệp với mục đích để tiếp cận thị trường EU mở rộng đầy
tiềm năng, một thị trường thống nhất lớn nhất hành tinh hiện nay.

References
1. Altomonte Carlo, Nava Mario và Bùi Duy Khoát (2004), Kinh tế và chính sách của EU

mở rộng, Nxb. Chính trị Quốc gia.
2. Bộ Công Thương (2010), Sổ tay thông tin về quy định SPS và TBT của EU , Nxb.
Công Thương.
3. Đỗ Đức Bình (2010), Giáo trình Kinh tế quốc tế, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. Đỗ Đức Bình (2009), Rào cản môi trường-“Rào cản xanh” của EU và giải pháp vượt
rào đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU, Tạp chí châu Âu,
(6), tr.27-35
5. Bùi Huy Khoát (2001), Thúc đẩy quan hệ thương mại – đầu tư giữa Liên hiệp châu Âu
và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Khoa học xã hội.
6. Bùi Huy Khoát (2004) , “Chính sách cạnh tranh và việc bảo vệ thương mại của Liên
minh châu Âu”, Tạp chí châu Âu, (1),tr.22-28.
7. Phùng Thị Vân Kiều (2003), Các qui định về môi trường của Liên minh châu Âu đối
với nhập khẩu hàng nông, thủy sản và giải pháp đáp ứng các qui định, tiêu chuẩn môi
trường đối với hàng hóa xuất khẩu vào thị trường EU, Nhiệm vụ cấp Nhà nước thuộc Bộ
Thương mại.
8. Ngô Duy Ngọ (2009),“Hệ thống thuế quan và phi thuế quan của Liên minh châu Âu”,
Tạp chí châu Âu, (8), tr.23-32.
9. Võ Đại Lược (2003), Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách phát
triển kinh tế ở một số nước lớn, Nxb. Khoa học Xã hội.
10. Bùi Nhật Quang (2008), Điều chỉnh chính sách thương mại của Liên minh châu Âu
trong bối cảnh phát triển mới, Nxb. Khoa học Xã hội.
11. Nguyễn Quang Thuấn (2005), Các nước Đông Âu gia nhập Liên minh châu Âu và
những tác động tới Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội.
12. Nguyễn Quang Thuấn (2009), Quan hệ kinh tế Việt Nam- Liên minh châu Âu: Thực
trạng và triển vọng, Nxb. Khoa học Xã hội.
13.Trần Nguyễn Tuyên (2010) “Liên minh châu Âu trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế”,
Tạp chí châu Âu, (5), tr.24-31.
14. Tạp chí nghiên cứu châu Âu năm 2007, 2008, 2009.
WEBSITE
15. Website (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

16. Website (Bộ Thương mại).
17. Website (Bộ Ngoại giao).
18. Website (Bộ Tài chính).
19. Website ( Cổng thông tin về WTO và tiếp cận thị trường).
20. Website (Diễn đàn DN VN- EU).
21. Website (Thị trường nước ngoài).
22. Website (Thế giới Việt Nam).




×