Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.31 KB, 16 trang )

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu ở Việt Nam


Nguyễn Quang Tuấn


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS. ngành: Kinh tế Chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Văn Dũng
Năm bảo vệ: 2008


Abstract. Hệ thống hóa một số lý luận chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
kinh doanh xăng dầu. Khảo sát quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng
dầu ở Trung Quốc, rút ra bài học kinh nghiệm về nâng cao vai trò của quản lý nhà
nước trên lĩnh vực này. Phân tích, đánh giá năng lực quản lý nhà nước trong kinh
doanh xăng dầu ở Việt Nam, chỉ ra những điểm yếu và hạn chế về năng lực quản lý
nhà nước hiện nay. Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản, cụ thể là tạo lập
môi trường kinh doanh bình đẳng cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế;
chuyển dần các doanh nghiệp xăng dầu sang kinh doanh theo cơ chế thị trường; quản
lý chặt chẽ chất lượng xăng dầu cung ứng cho thị trường và có các chính sách hỗ trợ,
điều tiết thị trường, nhằm nâng cao quản lý nhà nước trong kinh doanh xăng dầu khi
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

Keywords. Kinh doanh; Năng lượng; Quản lý nhà nước; Xăng dầu


Content
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Nhờ đổi mới, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ về kinh tế-xã hội rất quan trọng.
Cuộc sống của người dân Việt Nam ngày một nâng cao, nhu cầu mọi mặt của con người ngày
càng tăng thêm. Những phương tiện giao thông hiện đại như máy bay, ô tô, xe gắn máy trở
thành quen thuộc và cần thiết trong đời sống của mỗi gia đình. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế
cao cũng làm cho nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng, trước hết là xăng dầu tăng nhanh.
Là mặt hàng vật tư thiết yếu và mang tính chiến lược đối với sự phát triển của đất
nước, những năm qua, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền kiểm soát của mình đối với xuất
nhập khẩu xăng dầu thông qua quản lý quyền trực tiếp xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và
quy định hạn ngạch nhập khẩu. Trên cơ sở cân đối nhu cầu xăng dầu hàng năm của nền kinh
tế quốc dân, Nhà nước giao hạn ngạch nhập khẩu cho 11 doanh nghiệp đầu mối. Để bảo đảm
xăng dầu cho sự phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, bình ổn giá cả xăng
dầu trên thị trường nội địa và phục vụ đắc lực, có hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nhà nước can thiệp rất mạnh vào thị trường này. Nhà nước thực hiện
việc kiểm soát giá đối với xăng dầu. Khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới tăng lên, Nhà
nước có thể bình ổn giá bằng việc giảm thuế, thậm chí bù lỗ cho doanh nghiệp. Nhờ sự can
thiệp của nhà nước vào thị trường xăng dầu, nhu cầu về nguồn năng lượng của nhiều ngành
kinh tế và của nhiều gia đình được đảm bảo, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, ổn
định và cải thiện đời sống dân cư.
Tuy nhiên, sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào thị trường xăng dầu cũng có những
mặt trái không nhỏ: Giá xăng dầu thấp hơn giá trị thực làm cho việc tính toán chi phí sản xuất
của nhiều loại hàng hoá không chính xác; giá cả thị trường bị méo mó, không thoả mãn các
điều kiện hiệu quả Pareto; Giá xăng dầu thấp gây lãng phí trong việc sử dụng nguồn năng
lượng quý giá này; Nhà nước phải bỏ ra nguồn ngân sách đáng kể để bù lỗ; xăng dầu theo
đường tiểu ngạnh chảy ra nước ngoài
Thực tế trên đây làm nảy sinh những quan điểm khác nhau về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Có quan điểm cho rằng, xăng dầu là mặt hàng chiến lược nên
nhà nước cần phải can thiệp giữ giá. Ngược lại, quan điểm khác lại cho rằng xăng dầu cũng là
hàng hoá, hoạt động kinh doanh xăng dầu cần được thực hiện theo nguyên tắc thị trường. Cho
đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất về quan điểm trên lĩnh vực này. Do đó, xử lý vấn đề này
như thế nào vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. Bởi vậy, Tác giả đã chọn: “Quản lý nhà nƣớc

trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung-hành chính-bao cấp, nhà nước là
người cung ứng duy nhất sản phẩm xăng dầu cho nền kinh tế. Do đó, hoạt động cung ứng loại
sản phẩm này chủ yếu xuất phát từ yêu cầu của kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy,
các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này không nhiều.
Trong quá trình đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế thị trường, xăng dầu trở thành hàng
hoá và có thị trường riêng. Hiện nay, trên thị trường xăng dầu nội địa đã và đang phát triển
các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
Tuy nhiên, kinh doanh xăng dầu và quản lý kinh doanh xăng dầu vẫn là vấn đề mới
đối với Việt Nam. Do đó, những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này chưa nhiều.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu dưới góc
độ Kinh tế chính trị. Do đó, luận văn đặc biệt quan tâm phân tích hoạt động kinh doanh xăng
dầu dưới sự tác động của môi trường thể chế, các chính sách của nhà nước…
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu Việt Nam
từ khi Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (năm 1994) đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu, phân tích thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt
Nam để đưa ra quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò quản lý nhà nước
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhiệm vụ:
 Hệ thống hóa một số lý luận chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu.
 Khảo sát quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Trung Quốc và rút
ra bài học kinh nghiệm về nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh

doanh xăng dầu cho Việt Nam.
 Phân tích, đánh giá năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu
Việt Nam, chỉ ra những điểm yếu và hạn chế về năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu hiện nay.
 Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao quản lý nhà nước trong
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, Tác giả sử dụng những phương pháp luận trong
nghiên cứu kinh tế Chính trị là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Những phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phương pháp lôgic kết hợp với
lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, kết hợp phân tích với tổng hợp Luận
văn có tham khảo và kế thừa những công trình khoa học có liên quan.
6. Đóng góp mới của luận văn
 Hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu.
 Khảo sát quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Trung Quốc và rút
ra bài học kinh nghiệm về nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh
doanh xăng dầu cho Việt Nam.
 Phân tích, đánh giá năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu
Việt Nam, chỉ ra những điểm yếu và hạn chế về năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu hiện nay.
 Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao quản lý nhà nước trong
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu: cơ sở lý luận và kinh
nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam
Chương 3: Các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh

vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam trong thời gian tới


CHƢƠNG 1:
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU: CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1. KHÁI LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH
XĂNG DẦU
1.1.1. Thị trƣờng xăng dầu
1.1.1.1. Sản phẩm xăng dầu
Sản phẩm xăng dầu có những đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, xăng dầu là chất lỏng, nguy cơ cháy nổ cao. Do đặc tính lý hóa, xăng dầu
dễ bắt lửa, thậm chí những va chạm mạnh cũng có thể gây cháy nổ. Thứ hai, xăng dầu
là loại sản phẩm dễ bị hao hụt do khả năng bốc hơi rất mạnh. Đồng thời, việc đo lường, tính
toán khối lượng sản phẩm qua thời gian cần có phương pháp khoa học.
Thứ ba, xăng dầu là loại sản phẩm độc hại. Quá trình khai thác, chế biến cũng như
vận chuyển, phân phối, bảo quản có thể gây rò rỉ hoặc tai nạn, ảnh hưởng xấu đến môi
trường, đến sức khỏe con người.
Thứ tƣ, xăng dầu là nguồn nhiên liệu của nhiều ngành kinh tế, tức là đầu vào không
thể thiếu được của nhiều ngành kinh tế. Khi lượng xăng dầu không đáp ứng được nhu cầu,
đương nhiên, quy mô các hoạt động kinh tế bị suy giảm. Khi giá xăng dầu tăng cao, chi phí
sản xuất nhiều loại hàng hoá, dịch vụ khác cũng tăng lên.
1.1.1.2. Vai trò của thị trƣờng xăng dầu
Thị trường xăng dầu - cũng như các thị trường khác - có những ưu điểm chủ yếu sau:
- Năng động. Bất cứ nhu cầu nào về xăng dầu xuất hiện, lập tức thị trường hướng tới thoả
mãn các nhu cầu đó. Thị trường xăng dầu cho phép người tiêu dùng tiếp cận được với những
sản phẩm xăng dầu của thế giới phù hợp với nhu cầu của họ về cả số lượng và chất lượng.
- Hiệu quả. Thị trường xăng dầu góp phần phân bổ các nguồn lực một các hiệu quả. Khi giá
xăng dầu tăng lên, một mặt nó sẽ làm tăng chi phí sản xuất của nhiều loại sản phẩm, ảnh

hưởng đến thu nhập và đời sống của người dân; mặt khác, giá cả xăng dầu tăng buộc những
người tiêu dùng xăng dầu phải sử dụng xăng dầu tiết kịêm, hiệu quả. Đồng thời, khi giá xăng
dầu lên cao cũng chính là khi những nguồn năng lượng mới rẻ hơn, hiệu quả hơn sẽ được
phát hiện.
- Duy trì động lực mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế. Động lực của kinh tế thị trường là giá
trị, lợi nhuận. Động lực này rất mạnh mẽ và không có giới hạn. Nhờ đó, thị trường xăng dầu
huy động được các nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, nâng cao trình độ
công nghệ… cho ngành xăng dầu.
- Loại bỏ đƣợc nhanh chóng những nhân tố lạc hậu, không hiệu quả; khuyến khích đƣợc
những nhân tố tích cực hiệu quả. Do tác động của các quy luật thị trường, các doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu không hiệu quả sẽ bị sàng lọc; những người sử dụng xăng dầu không
hiệu quả cũng không thể tiếp tục tồn tại (chi phí sản xuất quá cao). Đồng thời, những doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng xăng dầu hiệu quả sẽ nâng cao khả năng
cạnh tranh, có cơ hội phát triển.
1.1.1.3. Các khuyết tật của thị trƣờng xăng dầu
- Độc quyền. Do tính chất lý hoá của sản phẩm xăng dầu, không phải doanh nghiệp nào cũng
đủ điều kiện kinh doanh. Do đó, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu rất có hạn
và hiện tượng độc quyền nhóm hoàn toàn có thể xảy ra. Hơn nữa, địa điểm kinh doanh bán lẻ
xăng dầu cũng mang tính độc quyền. Do đó, khả năng độc quyền giá bán lẻ xăng dầu hoàn
toàn có thể xảy ra. Thậm chí, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu có thể ngừng cung ứng
sản phẩm cho thị trường trong những khoảng thời gian nhất định.
Ngày nay thị trường xăng dầu mang tính toàn cầu. Trên thị trường xăng dầu thế giới,
Tổ chức xuất khẩu dầu OPEC giữ vai trò chi phối, thao túng giá cả.
- Ngƣời mua không có khả năng kiểm soát số lƣợng, chất lƣợng sản phẩm. Do đặc tính lý hoá
của sản phẩm xăng dầu, việc thẩm định số lượng, chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải có những
phương tiện đặc biệt. Nhìn chung, người tiêu dùng xăng dầu không đủ khả năng thẩm định số
lượng, chất lượng sản phẩm và lợi ích của họ bị tổn hại.
- Hoạt động đầu cơ mang tính phổ biến. Nguồn cung về dầu mỏ là có hạn. Trong khi đó, nhu
cầu sử dụng xăng dầu mang tính thường xuyên, thậm chí có thời điểm tăng đột biến (mùa
đông giá lạnh ở một số quốc gia). Ngay hệ thống bán lẻ xăng dầu cũng không thể trải đều,

mang tính cạnh tranh ở các vùng, địa phương. Ngày nay, thị trường xăng dầu thế giới đang bị
những tập đoàn dầu mỏ khổng lồ chi phối.
1.1.2. Nội dung của quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu
1.1.3.1. Quản lý các chủ thể kinh doanh
Do đặc điểm của thị trường xăng dầu, khả năng gia nhập thị trường của doanh nghiệp
rất hạn chế. Trong điều kiện thị trường xăng dầu thế giới bị chi phối bởi các tập đoàn dầu mỏ
khổng lồ, các doanh nghiệp xăng dầu của các nước đang phát triển không dễ tồn tại và phát
triển. Do đó, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo lập các doanh nghiệp trong lĩnh
vực này.
Sản phẩm xăng dầu có vai trò rất quan trọng với sản xuất và đời sống nhưng lại có thể
gây cháy nổ, ô nhiễm môi trường Do đó, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu rất cao. Trong khi đó, mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận nên không phải lúc
nào doanh nghiệp cũng chú ý đầy đủ trách nhiệm của mình.
1.1.3.2. Quản lý giá cả
Do đặc điểm của sản phẩm xăng dầu, thị trường xăng dầu mang tính độc quyền rất rõ
rệt. Mặc dù trên thị trường xăng dầu không phải chỉ có một doanh nghiệp hoạt động nhưng số
lượng doanh nghiệp không nhiều, họ biết nhau và có thể thỏa thuận với nhau để chi phối thị
trường. Đây là hiện tượng độc quyền nhóm. Chống độc quyền là chức năng của nhà nước
trong cơ chế thị trường.
1.1.3.3. Quản lý số lƣợng, chất lƣợng
Do đặc điểm của sản phẩm xăng dầu, người tiêu dùng không đủ thông tin về sản
phẩm. Trên thị trường xăng dầu, người mua không đủ điều kiện kiểm định về số lượng, chất
lượng sản phẩm. Sự không đảm bảo về số lượng, chất lượng sản phẩm xăng dầu không chỉ
làm tổn hại lợi ích người tiêu dùng, mà còn làm tổn hại lợi ích xã hội. Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng là chức năng của nhà nước.
1.1.3.4. Các chính sách điều tiết, hỗ trợ
Trƣớc hết, tạo lập môi trường cạnh tranh trên thị trường xăng dầu. Đây là chính sách
quan trọng nhất để chống độc quyền trên thị trường xăng dầu. Để tạo lập môi trường này, nhà
nước cần tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh trên thị trường
xăng dầu và cạnh tranh với nhau thật sự bình đẳng.

Thứ hai, cung cấp đầy đủ, minh bạch thông tin cho doanh nghiệp và cho người tiêu
dùng về thị trường xăng dầu thế giới, trong nước; hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu trong nước Khi đó, các doanh nghiệp sẽ không còn cơ hội độc quyền giá cả;
người tiêu dùng có cơ hội mua xăng dầu đảm bảo cả số lượng và chất lượng.
Thứ ba, nhà nước cần đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho ngành xăng dầu: hệ thống
kho bãi, cảng biển, trang thiết bị phòng chữa cháy nổ… Đây là cơ sở quan trọng để hiện đại
hoá ngành xăng dầu, nâng cao hiệu quả và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của các doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu và cho xã hội.
Thứ tƣ, sử dụng các công cụ bình ổn thị trường xăng dầu. Những công cụ này rất đa
dạng: xây dựng quỹ dự trữ xăng dầu; quỹ bình ổn giá xăng dầu, thuế xăng dầu
Ngoài ra nhà nước có thể hỗ trợ thị trường xăng dầu bằng nhiều chính sách khác: đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học-công nghệ về xăng dầu; phát triển công
nghiệp chế biến dầu; nghiên cứu, tìm kiếm các nguồn năng lượng mới; xây dựng thị trường
xăng dầu giao sau
1.2. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU
1.2.1. Khái quát về thị trƣờng xăng dầu Trung Quốc
Trước năm 1992, Trung Quốc vẫn tự cân đối được dầu mỏ. Việc sản xuất dầu mỏ, lọc
dầu và bán dầu được độc quyền bởi Chính phủ thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Do đó,
Chính phủ giữ vai trò quyết định trong việc xác định định giá xăng dầu. Từ năm 1993 Trung
Quốc đó trở thành nhà nhập khẩu ròng các sản phẩm dầu đã qua tinh chế và từ năm 1996 trở
thành quốc gia nhập khẩu ròng về dầu thô, do Trung Quốc có sự tăng trưởng kinh tế nhanh
một cách khác thường. Nhưng sự phát triển kinh tế đi kèm với việc sử dụng năng lượng kém
hiệu quả trong vòng 26 năm qua đã tạo nên một đất nước khát dầu. Trong năm 1990, tiêu thụ
dầu thô của Trung Quốc ước tính chiếm khoảng 3,5% mức tiêu dùng của toàn thế giới.
Nhưng đến năm 2003 sự tiêu thụ này đã tăng hơn gấp đôi chiếm 7,7%, làm cho Trung Quốc
trở thành nước lớn thứ hai về tiêu thụ dầu, mặc dầu vẫn còn cách khá xa so với Mỹ, nước mà
chiếm 25,7% sản lượng tiêu thô dầu mỏ trên toàn thế giới.
Chính vì vậy đến năm 2003, Trung Quốc đó phải nhập khẩu trung bình 1,8 triệu
thùng dầu thô mỗi ngày và việc nhập khẩu dầu chiếm 30% tiêu dùng nội địa. Năm 2004,

Trung Quốc đã nhập khẩu hơn 40,5% tổng lượng dầu tiêu thụ trong cả nước. Nhập khẩu dầu
của Trung Quốc đang tăng lên mức quá cao. Theo Trung tâm nghiên cứu phát triển của Hội
đồng Quốc gia, nhu cầu về dầu thô đã đạt tới 318 triệu thùng cho cả năm 2005, trong đó 135
triệu thùng hay 42,5% là được nhập khẩu.
1.2.2. Quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng xăng dầu
Nền kinh tế Trung Quốc những năm qua tăng trưởng rất cao nên để đảm bảo tốc độ
tăng trưởng kinh tế bền vững, đến nay Trung Quốc vẫn thực hiện cơ chế quản lý đối với giá
bán lẻ xăng dầu, mặc dù họ đang tìm thời điểm thích hợp đó tự do hóa giá xăng dầu.
Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng và dựa vào hai doanh nghiệp kinh doanh xăng
dầu lớn nhất của Trung Quốc là Tổng Công ty xăng dầu Quốc gia Trung Quốc và Tổng Công
ty xăng dầu và hóa chất Trung Quốc để duy trì sự ổn định của thị trường. Chính phủ tuyên
bố thực hiện hai giải pháp để giải quyết vấn đề xăng dầu. Trước tiên nhiều kênh cung cấp dầu
thô hơn sẽ được mở, đặc biệt là dầu Diezel; Thứ hai, công suất sản xuất và sản lượng của dầu
thô, dầu tinh chế trong nước sẽ tăng lên. Hai Tổng công ty nhà nước nêu trên đã nỗ thực hiện
các yêu cầu của nhà nước.
Các giải pháp này sự hỗ trợ làm giảm bớt tình trạng căng thẳng về xăng dầu trên thị
trường và nhận được sự ủng hộ không những của dân chúng và nhiều nhà kinh tế, nhà quản
lý. Nhưng nhiều người cho rằng cơ chế định giá hiện tại phải thay đổi nếu Chính phủ muốn
giải quyết vấn đề dầu mỏ và thị trường cần phải được coi là hướng giải quyết chính.
Vì Trung Quốc còn có nhiều cải tổ khác nên họ vẫn đang bước tiếp theo hướng thận
trọng. Tháng 6 năm 1998, Chính phủ Trung Quốc đã loại bỏ chính sách ấn định giá dầu mỏ
trong nhiều thập kỷ và thiết lập "giá định hướng của Nhà nước", giá bán lẻ được phép giao
động trong khoảng + 5% so với giá định hướng của Nhà nước. Năm 2000, Chính phủ bắt đầu
liên kết việc định giá với thị trường quốc tế, sử dụng giá dầu trên thị trường Singapore như là
một tham chiếu trong việc thiết lập “giá định hướng” đối với thị trường nội địa. Nguyên tắc là
khi giá cả tại Singapore giao động vượt khoảng +8% so với “giá định hướng” thì Trung Quốc
sẽ điều chỉnh giá định hướng. Đến tháng 11 năm 2001, Trung Quốc bắt đầu quan sát không
phải với một thị trường Singapore mà là 3 thị trường nước ngoài - Singapore, Rotterdam,
New York – và sử dụng giá bình quân gia quyền của ba thị trường này như một giá tham
chiếu cho việc định giá nội địa. Đến năm 2006, giá bán lẻ xăng dầu được các doanh nghiệp

bán lẻ xăng dầu định đoạt, từ biên độ +5% lên biên độ +8% so với giá định hướng.
Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia (NDRC) đang xem xét phá bỏ việc neo giá sản
phẩm dầu bán tại Trung Quốc với giá ở các thị trường Singapore, Rotterdam và New York,
nơi mà Chính phủ sử dụng làm tiêu chuẩn cho nhiều năm qua. Thay vào đó, sự xem xét
những ảnh hưởng của giá dầu thô Brent, Dubai và Minas là những nơi mà phản ánh giá thích
hợp hơn trên thị trường toàn cầu tới giá sản phẩm dầu trong nước.
Mặc dù có sự tiến bộ như vậy, nhưng chính phủ vẫn quyết định giá dầu. Đó là chế độ
định giá này chỉ được thực hiện khi giá dầu thế giới tương đối ổn định. Những quyết định của
Chính phủ không chỉ chậm trễ so với sự thay đổi của thị trường, mà còn tạo ra những mối lo
lắng về chính trị không mong muốn. Trung Quốc phải tính đến các tác động của việc tăng giá
dầu lên nền công nghiệp non trẻ, vận tải công cộng và một số khu vực kinh tế khác vì điều
này có thể làm thổi lên ngọn lửa lạm phát. Tuy nhiên, Bắc Kinh đang chờ đợi thời điểm thích
hợp để liên kết giá dầu nội địa với giá dầu quốc tế thông qua việc điều chỉnh thích hợp.
Để ổn định thị trường xăng dầu, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng hệ thống thị trường
giao sau từ những năm 1990 và đã cho giao dịch giao sau xăng dầu tại Thượng Hải từ 2 năm
nay. Ngay cả khi đã có thị trường giao sau nhưng nếu như ngành xăng dầu vẫn tiếp tục chỉ có
một số công ty được độc quyền kinh doanh thì hiệu ứng phòng ngừa rủi ro cho người tiêu
dùng sẽ khôngđạt được. Nếu như chỉ có một số ít các doanh nghiệp được kinh doanh xăng
dầu thì rõ ràng có thể lo ngại xảy ra tình trạng giá dầu thế giới lên thì giá dầu Trung Quốc lên,
giá thế giới giảm thì giá ở Trung Quốc vẫn giữ nguyên. Khi độc quyền ngành tồn tại thì trên
thị trường giao sau các doanh nghiệp này cũng có thể tham gia thao túng giá, khiến giá giao
sau cũng là giá độc quyền.
Như vậy, thả nổi giá xăng dầu theo giá thế giới để giảm gánh nặng ngân sách nhà
nước là một giải pháp cần được ủng hộ. Chưa kể, với tư cách là thành viên WTO thì việc trợ
giá sẽ không được phép.
Từ những phân tích trên đây, luận văn đã rút ra một số bài học về quản lý nhà nước
với thị trường xăng dầu như sau:
1. Giá cả xăng dầu phải đƣợc xác định theo giá thị trƣờng thế giới là tất yếu.
2. Để chuyển sang kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trƣờng, cần có sự chuẩn bị chu
đáo.

3. Do tính chất đặc biệt của sản phẩm xăng dầu và thị trƣờng xăng dầu, cần phải có
công cụ phòng ngừa rủi ro.


CHƢƠNG 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG
DẦU Ở VIỆT NAM

2.1. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM
ở nước ta, được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, ngành năng lượng đã có sự phát
triển mạnh trong thời gian qua: Tốc độ tăng trưởng năng lượng so với tăng trưởng GDP trong
các năm 1990 - 2002 là 1,4 lần, đã đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, trong đó trên 90% là năng lượng hoá thạch. Năm 2003 tiêu thụ năng lượng cuối
cùng bình quân là: 204kg TOE/người, mới chỉ bằng 20% mức bình quân thế giới, thấp hơn
các nước trong khu vực. Hiệu suất sử dụng năng lượng ước khoảng 35%, do công nghệ và
thiết bị khai thác, chế biến cũng như sử dụng còn lạc hậu. Từ nước xuất khẩu năng lượng
(dầu thô, than), Việt Nam sẽ thiếu hụt và phải nhập khẩu năng lượng trước năm 2020. Cột
mốc thời gian thả nổi các mặt hàng xăng dầu được đề nghị là cuối năm 2008. Giá xăng dầu
thả nổi theo giá thế giới có thể ảnh hưởng xấu đến chi phí kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt Nam và tạo ra cơ hội để lạm phát tiếp tục đe dọa nền kinh tế mỗi khi giá xăng
dầu thế giới tăng lên và từ đó sự ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Theo cam kết, khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam chưa mở
cửa thị trường xăng dầu ngay mà thực hiện theo từng giai đoạn, đến năm 2009 sẽ mở cửa
hoàn toàn. Trong quá trình đàm phán với các đối tác, Việt Nam đã phải chấp nhận nhượng bộ
không ít để giữ được ngành hàng quan trọng này. Như vậy, ngành xăng dầu Việt Nam đã đến
lúc phải hội nhập thị trường xăng dầu thế giới.
2.2. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG
DẦU Ở VIỆT NAM
2.2.1. Quản lý các chủ thể kinh doanh xăng dầu
Việt Nam hiện có 11 đầu mối nhập khẩu xăng dầu, trong đó Tổng Công ty Xăng dầu

Việt Nam (Petrolimex VN) làm nòng cốt, chiếm tỷ lệ 60% khối lượng nhập khẩu mặt hàng
này. Với 290 tổng đại lý và gần 9.000 đại lý, cửa hàng bán lẻ, hệ thống phân phối này được
đánh giá là quá kềnh càng, phát triển mạnh về bề rộng, nhưng thiếu chiều sâu.
Ngày 22/5/2007, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 11/2007/QĐ-
BTM sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu ban hành kèm
theo Quyết định số 1505/2003/QĐ-BTM. Theo đó, Tổng đại lý chỉ ký hợp đồng với một
doanh nghiệp xăng dầu đầu mối. Tại một cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu chỉ được bán xăng,
dầu của một doanh nghiệp xăng dầu đầu mối, phải ghi biển hiệu của doanh nghiệp xăng dầu
đầu mối đó… (quy định trước đây: Tổng đại lý có thể ký hợp đồng với nhiều doanh nghiệp
xăng dầu đầu mối, nhưng phải tổ chức hệ thống đại lý bán lẻ riêng cho từng doanh nghiệp
đầu mối)…
Tổ chức nhập khẩu xăng dầu theo đúng tiến độ về số lượng, cơ cấu chủng loại theo
hạn mức nhập khẩu tối thiểu được giao, hoặc theo kế hoạch sản xuất đó đăng ký, bảo đảm
chất lượng xăng dầu theo quy định và cung ứng đủ, ổn định cho hệ thống phân phối của mình
đáp ứng các nhu cầu xăng dầu trên địa bàn kinh doanh.
Tổng đại lý có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng làm Tổng đại lý bán xăng dầu
cho một doanh nghiệp xăng dầu đầu mối. Trường hợp, thay đổi chuyển sang làm Tổng đại lý
cho doanh nghiệp xăng dầu đầu mối khác, phải thanh lý hợp đồng với doanh nghiệp xăng dầu
đầu mối cũ theo quy định trước khi ký hợp đồng làm Tổng đại lý cho doanh nghiệp xăng dầu
đầu mối mới.
Theo qui chế mới, sự bắt buộc các doanh nghiệp này phải có nguồn vốn để đảm bảo
lượng xăng dầu dự trữ lưu thông bằng 20 ngày cung ứng; đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật
(cầu cảng, kho chứa); và đặc biệt là phải thiết lập được hệ thống bán lẻ riêng của mình thông
qua việc ký kết các hợp đồng với hệ thống bán lẻ của mình. Để kiểm tra chặt chẽ việc thực
hiện qui chế kinh doanh xăng dầu mới, Bộ Thương mại sự thành lập một đội đặc nhiệm đi
kiểm tra ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
2.2.2. Quản lý giá xăng dầu
Khi Quyết định 187 về quản lý kinh doanh xăng dầu ra đời và có hiệu lực từ 1-1-
2004, doanh nghiệp được tự quyết định giá trong biên độ +/- 10% đối với xăng và +/- 5% đối
với dầu trên cơ sở giá định hướng do liên bộ Tài chính và Thương mại (nay là Bộ Công

Thương) đưa ra. Song trên thực tế, từ khi thực hiện Quyết định 187, gần như tất cả các quyết
định về điều chỉnh giá xăng dầu đều do liên bộ quyết định. Sau một thời gian thực hiện, cơ
chế điều hành, quản lý xăng dầu theo Quyết định 187 đó được thay thế bằng Nghị định 55.
Cơ chế mới cho phép doanh nghiệp tự quyết định giá bán lẻ xăng dầu, khắc phục tình trạng
giá dầu thế giới tăng - giảm đột biến nhưng giá bán lẻ trong nước không theo kịp, gây thiệt
hại đến quyền lợi của người tiêu dùng, doanh nghiệp cũng như Nhà nước.
Để tránh tình trạng tùy tiện tăng giá, các doanh nghiệp muốn tăng giá phải báo cáo
mức giá tăng với liên bộ Tài chính – Công Thương. Nếu thấy bất hợp lý, yêu cầu này sẽ
không được chấp nhận. Nhiều doanh nghiệp đánh giá đây sẽ là bước đột phá trong việc điều
hành, kinh doanh xăng dầu. Thế nhưng, cùng với việc giá dầu thô trên thế giới tăng liên tục
trong thời gian gần đây khiến doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đều kêu lỗ. Cơ quan quản lý
cũng thừa nhận là doanh nghiệp đang kinh doanh… lỗ nhưng vẫn không đồng ý cho tăng giá
vì lý do kiềm chế giá cả.
Tuy nhiên, thả nổi giá bán lẻ xăng dầu sẽ kéo theo sự bùng nổ giá của nhiều mặt hàng
thiết yếu khác, làm tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI), gây tác động xấu đến mức tăng trưởng
kinh tế. Từ nay đến cuối năm, Việt Nam phải bù lỗ xăng dầu 8.000 tỷ – 9.000 tỷ đồng và tiền
này được trích từ ngân sách. Bộ Tài chính cho rằng, một số nước trong khu vực Đông Nam Á
như Indonesia hay Philippin vẫn trợ giá cho ngành xăng dầu nội địa. Việt Nam cũng sự duy
trì ở mức độ cần thiết, nhưng theo cam kết, phải dần xóa bỏ hoàn toàn.
Việc chính phủ ban hành Nghị định số 55/2207/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu đã
nhận được sự hoan nghênh, ủng hộ rộng rãi của dư luận, nhưng cũng có lo ngại về một số
nguy cơ gây tổn hại lợi ích của người tiêu dùng và cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là
nguy cơ xuất hiện các liên minh độc quyền để thao túng thị trường. Vì vậy, cùng với việc trao
quyền tự quyết định giá bán xăng dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
Nghị định 55 nghiêm cấm các hành vi đầu cơ, trục lợi, liên kết tăng giá bán làm mất ổn định
thị trường và các quy định khá cụ thể về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm của các doanh
nghiệp tham gia thị trường. Hơn nữa, Luật cạnh tranh cũng xử lý rất nghiêm khắc hành vi
này.
Đặc biệt, xăng dầu là mặt hàng thiết yếu có ảnh hưởng to lớn tới nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế, Cục Quản lý cạnh tranh sẽ đặc biệt quan tâm tới vấn đề này. Là cơ

quan thực thi Luật cạnh tranh, cơ quan này phải phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền và
người tiêu dùng theo dõi sát sao hành động của các doanh nghiệp để đảm bảo mọi vi phạm
pháp luật, đặc biệt là Luật cạnh tranh sự bị xử lý một cách nhanh chóng và nghiêm minh.
Chuyển đổi cơ chế hình thành giá xăng dầu là cốt lõi để chuyển đổi cơ chế kinh doanh
xăng dầu. Xăng dầu cũng là một mặt hàng quan trọng như điện, nước, than có chuyển sang
kinh doanh theo cơ chế thị trường thì mới hình thành được nền kinh tế thị trường thực sự của
cả nước. Vì vậy, việc chuyển đổi là cần thiết phải làm và đáng ra phải làm sớm hơn. Việt
Nam đã vào WTO, hội nhập kinh tế quốc tế về xăng dầu đã đến lúc không thể chậm hơn
được nữa.
Tuy nhiên, việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để chuyển đổi sang kinh doanh
theo cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu: lực lượng thị trường mỏng, doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu mới có một số doanh nghiệp nhà nước Quản lý Nhà nước lại còn lúng túng
hơn: nặng về mệnh lệnh hành chính, thuyết phục chính trị, kêu gọi đạo đức…
2.2.3. Quản lý số lƣợng, chất lƣợng xăng dầu
Trước vấn nạn về việc vi phạm kinh doanh xăng dầu diễn ra hàng ngày trên phạm vi
cả nước, ngày 15/9/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 187/2003 QĐ-TTg về
quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu.
Điều kiện cơ bản cho phép các doanh nghiệp được kinh doanh xăng dầu là phải có
nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp đảm bảo hoạt động kinh doanh nhập khẩu bằng
mức dự trữ lưu thông bắt buộc, có hệ thống cơ sở liên hoàn từ cầu cảng, kho chuyên dùng, bể
chứa để nhận trực tiếp xăng dầu từ tàu vào kho, đảm bảo các quy định phòng chống cháy nổ.
Tổng kiểm tra trên phạm vi toàn quốc vừa qua cho thấy: dù đó được thông báo trước cả tháng
trời nhưng vẫn có16/24 tỉnh tỷ lệ vi phạm cao hơn 23,5%, 8/24 tỉnh, thành có tỷ lệ vi phạm
dưới mức 23,5%.
Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp đầu mối được tự quyết định giá bán trên cơ
sở giá định hướng (không vượt quá 10% mức định hướng đối với xăng các loại, 5% với các
mặt hàng khác) và phải chịu trách nhiệm quản lý hệ thống phân phối, bán lẻ đúng giá, đúng
chất lượng. Quyết định này được áp dụng từ ngày 1/1/2004. Đây là điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh đồng thời phải chịu trách nhiệm với kết quả
kinh doanh của họ. Tình trạng gian lận trong việc bán xăng, dầu bằng cách đong thiếu hoặc

bán xăng pha kém chất lượng diễn ra khá phổ biến. Một số cửa hàng, đại lý kinh doanh xăng,
dầu còn pha trộn xăng A83 hay dầu KO hoặc dầu DO vào xăng A92 để bán theo giá xăng
A92.
Để chấn chỉnh tình trạng này, đã đến lúc cần có những biện pháp mạnh ngoài xử phạt
vi phạm hành chính các doanh nghiệp cố tình vi phạm nhiều lần.
2.2.4. Các hỗ trợ khác của nhà nƣớc
Nhà nước chủ trương xây dựng Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam thành trụ cột của
ngành xăng dầu Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế và đã tập trung mọi nguồn
lực để thực hiện chương trình hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra cốt vật chất kỹ thuật
hiện đại theo tiêu chuẩn của hãng xăng dầu quốc gia. Trong 10 năm qua, Tổng Công ty Xăng
dầu Việt Nam đã thực hiện giá trị đầu tư 3.781 tỷ đồng, bình quân 378 tỷ đồng/năm nên đã
tạo ra hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật lớn nhất trong các đơn vị kinh doanh xăng dầu ở Việt
Nam, cấp độ hiện đại và đồng bộ đạt tiêu chuẩn khu vực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngoài ra, nhà nước còn hỗ trợ thị trường xăng dầu bằng giảm hoặc miễn thuế khi giá
xăng dầu thế giới tăng cao.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG
2.3.1. Những thành tựu
2.3.1.1. Ổn định giá cả xăng dầu, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát.
Nhờ sự can thiệp của nhà nước, đặc biệt sự kiểm soát giá xăng dầu của nhà nước, mặc
dù giá xăng dầu trên thị trường thế giới biến động rất mạnh nhưng giá xăng dầu ở Việt Nam
khá ổn định và thấp hơn khá nhiều so với giá xăng dầu thế giới. Điều đó đã góp phần ổn định
chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất, từ đó góp phần hạn chế tốc độ tăng giá. Điều này
góp phần thực hiện chính sách chống lạm phát của chính phủ.
Nhờ giá xăng dầu khá ổn định, đời sống của một bộ phận người nghèo: lái xe ôm, tắc
xi, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản… được ổn định.
2.3.1.2. Tạo lập đƣợc những tiền đề quan trọng cho việc chuyển sang kinh doanh xăng dầu
theo cơ chế thị trƣờng.
Trước hết, hàng loạt những văn bản pháp luật được ban hành đã tạo ra hành lang pháp
lý cho việc chuyển hoạt động kinh doanh xăng dầu sang cơ chế thị trường. Hành lang pháp lý

là sự gợi mở, là bước chuẩn bị về tâm lý và những điều kiện cho sự chuyển đổi của doanh
nghiệp sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã sẵn
sàng cho việc bỏ bao cấp của nhà nước; sẵn sàng cạnh tranh không chỉ với doanh nghiệp
trong nước mà cả với doanh nghiệp nước ngoài.
Những phản ứng của doanh nghiệp và người dân đối với những lần giá xăng dầu thay
đổi cũng là những bài học bổ ích không chỉ đối với nhà nước, mà cả với doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu.
2.3.2. Những hạn chế
2.3.2.1. Quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu còn lúng túng, bị động.
Phản ứng của các cơ quan chức năng của nhà nước thường mang tính bị động, đặc
biệt khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới có thay đổi đột biến. Chỉ riêng trong năm 2007,
các biện pháp điều hành giá xăng dầu của Chính phủ đã cho thấy rất rõ điều đó. Trong suốt
14 tháng, giá dầu diezen, mazút giữ ổn định, bất chấp trên thế giới giá dầu diezen tăng 61%,
giá dầu mazút tăng 85%. Kết quả là khi nguồn ngân sách nhà nước không còn sức để bù lỗ
nữa thì mức giá xăng dầu được điều chỉnh tăng đột biến: giá mazút tăng 42%, giá diezen tăng
17% và giá xăng tăng 15%. Đợt điều chỉnh giá xăng dầu tháng 7/2008 tăng tới 31% làm cho
không ít người bất ngờ.
Nhiều văn bản của nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu được ban hành nhưng
thực hiện chậm trễ hoặc không thực hiện lại chính là các cơ quan chức năng của nhà nước.
Điều này làm tổn hại đến lòng tin của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, của người dân đến
năng lực điều hành của chính phủ.
Để giá xăng dầu có thể thực sự theo cơ chế thị trường thì vai trò của các doanh nghiệp
cần phải được nâng cao hơn. Mặc dù đã có các văn bản cho phép các doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng trên thực tế, họ hoàn toàn không có
quyền gì trong việc xác định và hoạch định giá. Khi giá dầu thế giới tăng, các doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu muốn tăng giá vẫn phải báo cáo, khi báo cáo được chấp thuận rồi thì
mới được phép tăng giá. Với cơ chế này sẽ tạo ra độ chênh rất lớn giữa giá thế giới và giá
Việt Nam. Kết quả là lúc giá thế giới lên cao thì giá xăng dầu ở Việt Nam lại hạ xuống; lúc
giá thế giới bắt đầu ổn định và xuống thấp thì giá xăng dầu ở Việt Nam lại tăng lên.
Thực hiện việc quản lý giá xăng dầu theo nguyên tắc thị trường là nhiệm vụ quan

trọng cần phải làm để nền kinh tế nước ta thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vấn đề
quan trọng là phải tuỳ vào tình hình cụ thể, từ đó đưa ra lộ trình thực hiện hợp lý, đảm bảo
hài hoà lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
2.3.2.2. Sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị
trƣờng còn rất chậm chạp.
Hiện nay, thị trường xăng dầu Việt Nam vẫn đang dựa vào 11 doanh nghiệp xăng dầu
nhà nước, trong đó riêng Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã chiếm tới 60% thị
phần. Do đó, nguy cơ độc quyền trên thị trường xăng dầu Việt Nam khi nhà nước bỏ can
thiệp theo kiểu hành chính bao cấp là rất cao.
Minh bạch thông tin về hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là rất
cần thiết cho việc xây dựng thị trường xăng dầu mang tính cạnh tranh. Tuy nhiên, đến tận
thời điểm này, điều đó vẫn chỉ là dự kiến và chưa biết đến bao giờ mới trở thành hiện thực.
Các cơ quan chức năng cũng như dư luận xã hội khá đồng thuận trong việc xây dựng
quỹ bình ổn thị trường xăng dầu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, quỹ bình ổn thị trường
xăng dầu chưa biết đến bao giờ mới được triển khai thực hiện. Trong khi đó, chính phủ lại
chủ trương trợ cấp do giá xăng dầu tăng cho người nghèo, cho ngư dân… Điều này cho thấy
chính phủ đang lúng túng trong quá trình xây dựng thị trường xăng dầu. Hơn nữa, biện pháp
này có thể nảy sinh nhiều tiêu cực và trái với quy định của WTO.


CHƢƠNG 3:
CÁC QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI

3.1. BỐI CẢNH MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM
3.1.1. Bối cảnh quốc tế
3.1.1.1. Nền kinh tế thế giới tiếp tục tăng trƣởng, nhu cầu xăng dầu tiếp tục tăng cao
Trong 5 năm qua, kinh tế thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng cao, từ 3,1% (2002) đến

5,4% (2006). Năm 2007, kinh tế thế giới có chững lại chút ít do các nền kinh tế phát triển suy
giảm tăng trưởng, nhưng vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá (5,2%). Theo IMF, dự báo năm 2008
kinh tế thế giới vẫn có khả năng đạt tốc độ tăng trưởng 4,8%.
Kinh tế Mỹ ''bùng nổ" mạnh mẽ trong những năm gần đây với tốc độ tăng trưởng khá
cao. Tuy nhiên, đến cuối năm 2006 và sang năm 2007, kinh tế Mỹ bắt đầu gặp phải vấn đề
bong bóng nhà đất và thị trường tín dụng bất động sản thứ cấp. Tăng trưởng kinh tế Mỹ chỉ
đạt 1,9% năm 2007.
Khu vực EURO cũng bắt đầu giảm tốc độ tăng trưởng từ 2,8% (2006), xuống còn
2,5% (2007). Dự báo khu vực này sẽ tăng trưởng khoảng 2,1% trong năm 2008.
Kinh tế Nhật sau khi thoát khỏi giai đoạn trì trệ kéo dài gần 2 thập kỷ cũng bắt đầu ổn
định với mức tăng trưởng 2.2%(2006) và 2.0%(2007).
Kinh tế các nước đang phát triển đạt tốc độ tăng trưởng mạnh và ổn định ở mức 8,1%
(2006) và 8,1% (2007). Đặc biệt, Trung Quốc tiếp tục đà tăng trưởng kinh tế ấn tượng của
mình với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 11,1% (2006) và 11.5% (2007) nhờ đầu tư cho nền
kinh tế được duy trì ở mức cao, nhu cầu nội địa tăng mạnh và tăng trưởng xuất khẩu ấn
tượng.
Những xu hướng tăng trưởng của kinh tế thế giới làm tăng cầu về xăng dầu trên thị
trường thế giới tiếp tục tăng cao.
3.1.1.2. Cung xăng dầu trên thị trƣờng thế giới tăng chậm.
Nhu cầu tiêu dùng dầu mỏ rộng khắp thế giới song việc khai thác dầu lại tập trung số
nước có nguồn tài nguyên dầu mỏ. Tuy nhiên, các quốc gia này lại không mạnh về công
nghiệp hoá dầu. Công nghệ của ngành công nghiệp hoá dầu của thế giới hiện nay chủ yếu do
các nước công nghiệp phát triển chi phối. Điều đáng lưu ý là nhu cầu dầu mỏ tăng mạnh khi
chu kỳ kinh tế thế giới bước vào giai đoạn phục hồi và tăng trưởng, trong thời gian từ 4-5
năm gần đây nhu cầu lại tăng đột biến. Do quan hệ cung cầu mất cân đối như vậy đã làm giá
dầu biến động lớn trên thị trường. Trong những năm tới (2009-2014), nhu cầu về xăng dầu
của thế giới sẽ tiếp tục tăng cao do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, kinh tế thế giới đang trong giai đoạn phát triển sẽ có nhu cầu tiêu thụ năng
lượng rất lớn, đặc biệt là dầu mỏ.
Thứ hai, xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá các nền kinh tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ

và quyết liệt, không một nền kinh tế nào đứng ngoài sự vận động này. Quá trình này thúc đẩy
mạnh hơn công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nền kinh tế còn lại của thế giới, làm tăng nhu
cầu tiêu dùng dầu mỏ lên mức cao hơn. Ở các nước đang phát triển, đời sống của một bộ
phận dân cư (nhất là bộ phận công chức, quan chức) tăng lên nhanh chóng là cho nhu cầu
năng lượng, trong đó có xăng dầu tăng lên nhanh chóng.
Thứ ba, thời tiết biến đổi khác thường, trái quy luật gây tác động xấu vào đời sống
kinh tế - xã hội và dân sinh. Vì vậy, nhu cầu về năng lượng (xăng dầu) để khắc phục hậu quả
của thiên tai là rất lớn.
Mặc dù nhu cầu về xăng dầu là rất cao song khả năng cung ứng có hạn. Tình trạng
mất cân đối cung cầu ở mức cao thường xuyên diễn ra do các yếu tố sau:
- Dầu mỏ đã được khai thác hàng trăm năm, tới nay đã bắt đầu vào thời kỳ suy kiệt.
- Công nghệ khai thác và hoá dầu lạc hậu, năng suất khai thác chế biến thấp đã giảm
đáng kể lượng cung trên thị trường.
- Dầu trở thành công cụ phục vụ mục tiêu chính trị. Do vị trí của dầu ngày càng quan
trọng, tác động nhiều mặt và sâu sắc tới đời sống kinh tế - xã hội như vậy nên bằng nhiều
giải pháp, các cường quốc thế giới và khu vực tranh nhau gây ảnh hưởng giành quyền chi
phối nguồn dầu mỏ.
3.1.1.3. Thị trƣờng xăng dầu thế giới tiếp tục chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ của các nhân tố:
chính trị, xã hội
Mâu thuẫn giữa một số nước, các khu vực, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các nước
Phương Tây và một số nước Hồi giáo gây tác động xấu đến đời sống kinh tế, chính trị trên
phạm vi toàn cầu, trong đó có thị trường xăng dầu. Khi giá dầu thế giới trong vài tuần qua
đang trên đà giảm do nhu cầu có xu hướng giảm, Iran, nước sản xuất dầu đứng thứ hai trong
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) lập tức đề nghị OPEC phải bàn đến việc kiểm
soát hạn ngạch của các nước thành viên trong cuộc họp vào tháng 9 năm 2008. Trong trường
hợp giá dầu thô vẫn tiếp tục chiều hướng giảm, một trong những vấn đề quan trọng mà OPEC
phải họp bàn chính là vấn đề áp đặt hạn ngạch. Với vai trò điều phối thị trường, OPEC cần
phải kiểm soát hạn ngạch các nước thành viên một cách chặt chẽ”, hãng thông tấn IRNA đã
trích lời của Bộ trưởng Năng lượng Iran Gholam Hossein Nozari.
Tổng thống Venezuela, đồng thời cũng là một nhân vật quan trọng của OPEC– Ông

Hugo Chavez – cho hay, nạn đầu cơ tích trữ đang gia tăng và rất có thể giá dầu thô sẽ đạt 200
USD/thùng. (Ông cũng không loại trừ trường hợp sẽ phải cắt giảm lượng dầu cung cấp cho
Mỹ và nâng giá dầu lên 300 USD nếu tập đoàn dầu khí Exxon không chịu quay lại bàn đàm
phán với Venezuela). Nếu giá dầu đạt 200 USD, ngân hàng Deutsche ước tính, GDP toàn cầu
sẽ giảm 2% và nó sẽ góp phần giảm nhu cầu về nhiên liệu.
Như vậy, thị trường xăng dầu thế giới chịu tác động mạnh mẽ của nhiều nhân tố,
không chỉ kinh tế mà cả phi kinh tế. Điều đó sẽ làm cho diễn biến trên thị trường dầu mỏ thế
giới khó lường.
3.1.2. Triển vọng phát triển của đất nƣớc
Đổi mới đã tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển kinh tế -xã hội của nước ta trong
những năm qua. Những thành tựu về kinh tế -xã hội đó đang trở thành cơ sở quan trọng cho
sự phát triển hơn nữa của nước ta trong những năm tới. Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay đang được đẩy nhanh
và trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội nói
chung, phát triển thị trường xăng dầu nói riêng.
Nhờ mở cửa, hội nhập, thị trường xăng dầu Việt Nam sẽ được kết nối với thị trường
xăng dầu thế giới. Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử trong việc mua bán loại hàng hoá
đặc biệt này trên thị trường thế giới; sẽ có cơ hội tiếp cận với công nghệ khai thác và chế biến
dầu để phát triển công nghiệp dầu mỏ Việt Nam, tăng cung cho thị trường nội địa.
Những chương trình hợp tác quốc tế không chỉ có ý nghĩa với việc phát triển ngành
công nghiệp dầu mỏ, mà còn góp phần sử dụng các nguồn năng lượng (trong đó có xăng dầu)
tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm xuất hiện các tập đoàn dầu mỏ quốc tế trên thị trường
xăng dầu Việt Nam. Điều này đặt ra những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu Việt Nam nhưng cũng là cơ hội cho họ trong việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình. Người tiêu dùng xăng dầu Việt Nam sẽ có cơ hội được thoả mãn nhu cầu với
chất lượng cao.
3.2. CÁC QUAN ĐIỂM
3.2.1. Quản lý giá xăng dầu theo cơ chế thị trƣờng cần một lộ trình hợp lý
Trong điều kiện phải nhập khẩu 100% xăng, dầu như hiện nay, nền kinh tế của nước

ta phải chịu một tác động không nhỏ từ sự tăng, giảm của giá dầu thế giới. Trong năm nay,
các chuyên gia kinh tế hàng đầu trên thế giới đều có chung nhận định rằng giá dầu thế giới sự
biến đổi rất khó lường, điều này được minh chứng khi giá dầu trên thế giới đó có lúc vượt
ngưỡng 100 USD/thùng ngay trong những ngày đầu năm. Thậm chí, tập đoàn tài chính hàng
đầu thế giới Goldman Sachs còn đưa ra dự đoán rằng giá dầu thế giới vào cuối năm 2008 có
thể lên tới 150 USD. Và với những diễn biến khó lường như thế này thì lộ trình thực hiện
quản lý giá xăng dầu theo cơ chế thị trường sự cần phải tính toán kỹ lưỡng, nếu không sự gây
áp lực rất lớn đối với nền kinh tế trong nước.
Cũng cần lưu ý rằng, thị trường hoá xăng dầu phải đặt trong bối cảnh Việt Nam đang
phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô quan trọng khác, trong đó nổi bật là chống lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Nếu thị trường hoá xăng dầu không có lộ trình hợp lý có thể ảnh
hưởng xấu đến thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng này.
3.1.2. Nhà nƣớc chỉ làm những gì thị trƣờng không làm đƣợc hoặc không hiệu quả
Do những đặc điểm của thị trường xăng dầu, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với sự phát triển của thị trường: khắc phục các khuyết tật. Ngoài những khuyết tật chung của
cơ chế thị trường, thị trường xăng dầu còn có thêm các khuyết tật như: thông tin không cân
xứng giữa người mua và người bán; khó xác định giá cả Những khuyết tật này nếu không
được khắc phục sẽ cản trở sự vận hành, phát triển của chính thị trường.
Không những thế, nhà nước còn phải tạo lập điều kiện và thúc đẩy thị trường xăng dầu
phát triển. Để có thể phát triển được thị trường xăng dầu, nhà nước cần đa dạng hoá các chủ
thể và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào các hoạt động trên thị trường
này. Nhờ đó, các thành phần kinh tế sẽ đóng góp vào các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học-công nghệ, hợp tác quốc tế về khoa học-công nghệ
Nhà nước còn có vai trò to lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành xăng dầu.
Để có được nguồn nhân lực phục vụ quá trình phát triển thị trường xăng dầu thì các chính
sách phát triển giáo dục& đào tạo, chính sách “trọng dụng nhân tài”, các chính sách sử dụng
và đãi ngộ các nhà khoa học, những chuyên gia đầu ngành là điều có ý nghĩa quyết định.
Nhà nước phải có được cơ chế chính sách phù hợp để thu hút được những nhà khoa học giỏi,
cả trong và ngoài nước, để họ phát huy được tài năng đồng thời đóng góp cho sự phát triển
khoa học-công nghệ nước nhà nói chung, ngành xăng dầu nói riêng.

Vai trò của nhà nước còn thể hiện ở việc ban hành và thực thi pháp luật, bảo hộ quyền
và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng trên thị trường xăng dầu, làm cho
các hoạt động mua bán trên thị trường xăng dầu diễn ra thuận lợi Nhờ đó, lợi ích của các
chủ thể tham gia thị trường được đảm bảo; các ưu việt của cơ chế thị trường được phát huy.
Đồng thời, những gì doanh nghiệp làm được (lựa chọn quy mô đầu tư, địa bàn đầu tư,
lựa chọn đối tác…), thị trường làm được (xác định giá cả, điều tiết cung cầu…) thì hãy để
doanh nghiệp và thị trường làm, nhà nước không nên can thiệp. Sự can thiệp của nhà nước
có thể làm giảm hiệu quả, méo mó các tín hiệu thị trường.
3.2.3. Hoạt động điều tiết của nhà nƣớc đối với thị trƣờng xăng dầu không đƣợc trái với
những cam kết quốc tế
Do tầm quan trọng của mặt hàng xăng dầu, sự điều tiết của nhà nước nhằm hạn chế
những bất ổn trên thị trường này rất cần thiết. Tuy nhiên, Việt Nam đã là thành viên của
WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác. Do đó, phương thức điều tiết, công cụ điều tiết không
được trái với quy định của những tổ chức quốc tế này. Các cơ quan chức năng của nhà nước
khi ban hành các văn bản pháp luật hay một chính sách kinh tế - xã hội cần chú ý tới điều
này.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
3.3.1. Tạo lập môi trƣờng kinh doanh bình đẳng cho doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế
Để hạn chế những khuyết tật của thị trường xăng dầu, trước hết phải có môi trường cạnh
tranh. Chính môi trường cạnh tranh là nhân tố quan trọng nhất để hạn chế độc quyền, đầu cơ,
nâng giá.
Muốn tạo lập môi trường cạnh tranh, nhà nước cần sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần. Trước hết, cả lý thuyết lẫn thực tế đều cho thấy, thị trường chỉ thực sự hình thành khi
có đủ lực lượng tham gia cạnh tranh và chỉ có cạnh tranh mới tạo ra áp lực đủ mạnh để đẩy
giá cả xuống mức hợp lý.
3.3.2. Chuyển dần các doanh nghiệp xăng dầu sang kinh doanh theo cơ chế thị trƣờng

Nếu giữ giá bán trong nước và thực hiện theo cơ chế cũ thì ngân sách Nhà nước
không có khả năng bù lỗ. Vì vậy, việc quản lý kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường là

bước đi bắt buộc.
Để ổn định giá bán và điều hành thị trường trong nước, các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu phải xây dựng giá đăng ký với liên bộ trong từng chu kỳ, có thể là 3 tháng, 6 tháng
hoặc 9 tháng để hạn chế việc tăng giá, tránh gây sốc cho người tiêu dùng. Song song với việc
hạn chế tăng giá thì việc giảm giá sẽ phải thực hiện khi giá thế giới giảm. Việc giảm giá
không bắt buộc phải theo tần suất, nhưng việc tăng giá thì phải có tần suất, có điều kiện, tiêu
chí rõ ràng.
3.3.4. Quản lý chặt chẽ chất lƣợng xăng dầu cung ứng cho thị trƣờng
Thứ nhất, cần quản lý chặt chẽ về nhãn hiệu và mẫu mã vì xăng dầu là loại hàng hóa
đặc biệt (không bao bì, nhãn mác như các loại hàng hóa thông thường). Ngay cơ quan chức
năng cũng khó nhận biết chính xác mẫu mã, chủng loại, màu sắc của hàng hoá. Vì vậy, các
nhà nhập khẩu phải công khai và có hướng dẫn rõ ràng về đặc điểm để phân biệt chủng loại
xăng dầu, phải đăng ký với cơ quan chức năng để có cơ sở kiểm tra theo dõi.
Thứ hai, tăng cường quản lý trong quá trình giao nhận ở những nơi cấp phát (cảng,
kho) tuân thủ nghiêm ngặt các quy định đo lường và chất lượng
Thứ ba, việc kiểm tra và đánh giá chất lượng xăng dầu phải được trang bị phương tiện
hiện đại mới ngăn chặn được tình trạng pha nước và các loại tạp chất khác.
3.3.5. Các chính sách hỗ trợ, điều tiết
Để tăng trưởng kinh tế, ổn định, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trước hết phải
đảm bảo được những hàng hoá thiết yếu. Khi thị trường xăng dầu đã phát triển, thị trường sẽ
có khả năng đáp ứng yêu cầu này. Trong điều kiện thị trường chưa phát triển, nhà nước
không chỉ phải kiểm soát giá, mà còn phải đảm lượng xăng dầu cần thiết cho nhu cầu của nền
kinh tế.
Các cơ quan chức năng nghiên cứu và triển khai hoạt động quỹ bình ổn xăng dầu
trong năm nay.
Tóm lại, thả nổi giá xăng dầu là tất yếu trong điều kiện hội nhập, nhưng đối với Việt
Nam, để thả nổi giá xăng dầu, nhà nước còn rất nhiều việc phải làm.

KẾT LUẬN


Xăng dầu là mặt hàng quan trọng với mọi nền kinh tế. Do đặc điểm của mặt hàng này,
quản lý nhà nước là đặc biệt cần thiết.
Trong những năm qua, hoạt động quản lý nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu ở
Việt Nam có những thay đổi quan trọng, từng bước thích ứng được với cơ chế thị trường. Sự
ổn định tương đối của giá xăng dầu đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định đời sống dân
cư, đặc biệt là người nghèo.
Tuy nhiên, sự can thiệp trực tiếp và mạnh mẽ của nhà nước vào thị trường xăng dầu
cũng có không ít mặt trái. Do duy trì giá xăng dầu nội địa thấp hơn mức giá quốc tế, chi phí
đầu vào của nhiều loại hàng hoá, dịch vụ bị méo mó nên việc đo lường hiệu quả của nhiều
ngành kinh tế và nền kinh tế không chính xác; ngân sách nhà nước phải gánh chịu những chi
phí qua lớn; tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới trở nên phổ biến…
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
và những đòi hỏi mới của nền kinh tế, quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế xăng dầu cần
phải có những thay đổi quan trọng. Một mặt, nhà nước phải tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu hoạt động theo các nguyên tắc của cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế thành công. Mặt khác, nhà nước phải tạo lập được những điều kiện cần thiết cho việc
phát huy những ưu điểm, hạn chế các khuyết tật của thị trường này. Những thay đổi này lại
đang diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang có nhiều khó khăn; nhiều mục tiêu kinh
tế vĩ mô khác cũng cần được thực hiện. Bởi vậy, quá trình chuyển đổi đó sẽ hết sức khó khăn,
phức tạp.
Với thế và lực mới của đất nước; với những kinh nghiệm quản lý, điều hành của chính
phủ đối với nền kinh tế thị trường nói chung, thị trường xăng dầu nói riêng những năm qua,
chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào thành công của quá trình chuyển đổi này.



References
1. TS. Bùi Ngọc Bảo: Thị trường xăng dầu năm 2005, dự báo và giải pháp điều hành
năm 2006. Tạp chí Thị trường giá cả. Số 1/2006.
2. Nguyễn Đình Bích: Xã hội hoá xăng dầu – Những vấn đề đặt ra. Tạp chí Thuế Nhà

Nước, số 18. 5/2007.
3. Thái Dương: Thị trường hoá giá xăng dầu - Cần chống liên minh độc quyền. Tạp chí
Thuế Nhà Nước, số 16-17. 5/2007.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII,
IX, X. NXB Chính trị Quốc gia.
5. TS. Lê Quý Độ (Chủ biên): Trật tự kinh tế quốc tế 20 năm đầu thế kỷ XXI. NXB Thế
giới. Hà Nội - 2004.
6. Trần Văn Đức: Quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Tạp chí Quản lý kinh tế, 5/2006.
7. Bùi Ngọc Hiền: Quản lý nhà nước đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ xăng dầu. Tạp
chí quản lý kinh tế, 3/2006.
8. Thanh Hoa: Thị trường xăng dầu - một năm nhìn lại. Tạp chí Thương mại số
1+2/2005.
9. Liên Bộ Tài chính và Thương mại (nay là Bộ Công Thương): Quyết định 187/2003.
10. Nguyễn Văn Nam: Quản lý kinh doanh xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Tạp chí Quản lý kinh tế, 5/2007.
11. PGS.TS. Lưu Văn Nghiêm: Cung – cầu dầu mỏ thế giới và chiến lược phát triển năng
lượng của Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 3/2006.
12. Nghị định 55/2007.
13. PGS. TS. Kim Ngọc: Triển vọng kinh tế thế giới 2020. NXB Lý luận chính trị. Hà
Nội-2005.
14. Niên giám Thống kê Việt Nam 2006. NXB Thống kê. Hà Nội – 2007.
15. Võ Trí Thành, Nguyễn Ánh Dương: Tác động của biến động giá dầu và thị trường
xăng dầu Việt Nam. Tạp chí Quản lý kinh tế, 4/2006.
16. Võ Tấn Phong: Một số vấn đề về môi trường hoạt động và cấu trúc ngành của ngành
xăng dầu Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 102/1999.
17. Nguyễn Tiến Thoả: Tác động của giá xăng dầu đến chỉ số giá cả. Tạp chí quản lý kinh
tế, 1/2007.
18. GS.TS. Hồ Sĩ Thoảng: Dầu khí Việt Nam. Tạp chí Thương mại số 12/2003.
19. Viện Kinh tế thế giới: Một số xu hướng phát triển chủ yếu hiện nay của nền kinh tế

thế giới. NXB KHXH. Hà Nội – 2003.
20. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Báo cáo kinh tế Việt Nam 2005, 2006.
Hà Nội. NXB Lý luận Chính trị.
Các trang Web:
1. . Thứ Tư, 27/02/2008.
2.
3. />.gif
4.
5.
Năm, 17/07/2008, 10:26
6.
7.
8.
9.
10. – 20:46' 31/08/2006 (GMT+7)
11. />truong.60365.html 26/2/2008



×