Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.8 KB, 16 trang )

Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở thành
quốc nạn khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát, làm
cho quốc gia mất khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất niềm tin…Hơn bao
giờ hết, trong giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính 2007 – 2008, nợ công đang là
vấn đề nóng bỏng của nhiều nước. Không chỉ các nước nghèo, đang phát triển mà
ngay cả Mỹ và một số nước đã phát triển trong Cộng đồng chung châu Âu cũng
gặp phải vấn đề này.
Học viên: Nhóm 4 - 1 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
1. DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG NỢ CHÂU ÂU (Từ 5/11/2009 đến nay)
1.1. Khái niệm nợ công và bản chất nợ công
Nợ công là hậu quả của vấn đề chi tiêu công bất hợp lý. Chi tiêu công chính
là các khoản chi của nhà nước (trung ương và chính quyền địa phương) thực hiện
thông qua ngân sách Nhà nước. Chi tiêu công bao gồm các khoản chi để duy trì bộ
máy nhà nước, chi đầu tư phát triển, chi các mục tiêu văn hóa-xã hội, chi quốc
phòng, chi trả nợ nước ngoài và dự phòng. Mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu
chi. Khi thu không đủ chi, nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công.
Nợ công (nợ chính phủ hoặc nợ quốc gia) là tổng giá trị các khoản tiền mà
chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho
các khoản thâm hụt ngân sách.
Cho đến nay có nhiều cách phân loại nợ công khác nhau:
+) Phân theo chủ nợ:
- Nợ trong nước
- Nợ nước ngoài
+) Thời hạn:
- Nợ ngắn hạn (dưới 1 năm)
- Nợ trung hạn (từ 1 năm đến dưới 10 năm)
- Nợ dài hạn (trên 10 năm)
+) Tính chất/ hình thức vay:


- Vay thương mại từ các định chế tài chính, từ phát hành trái phiếu Chính
phủ,…
- Vay ưu đãi (ODA) từ các chính phủ các nước khác hay các tổ chức quốc
tế WB,…Hình thức này chỉ áp dụng cho các nước nghèo, thu nhập thấp
Khi xem xét bản chất của vấn đề nợ công, điều cốt lõi không chỉ cần quan
tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả mà phải quan tâm tới rủi ro và cơ cấu nợ.
Học viên: Nhóm 4 - 2 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Nghĩa là phải tính tới khả năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là
con số tổng nợ trên GDP. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ
phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng phát
triển của nền kinh tế.
1.2. Diễn biến khủng hoảng nợ Châu Âu
Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm rung động thị trường tài
chính châu Âu và toàn cầu. Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến không chỉ một
vài nước trong khu vực châu Âu (Ailen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…) mà liên
quan đến hầu hết các nền kinh tế thế giới.
Những diễn biến quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng
11/2009 khi chính phủ mới của Hy Lạp tuyên bố nâng gấp đôi ước tính về thâm
hụt ngân sách năm 2009.
- 11/2009, Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức
12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi
khả năng vỡ nợ.
- 22/12/2009, Moody xếp hạng nợ công Hy Lạp từ A1 xuống mức A2 bởi thâm
hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ ba hạ xếp hạng tín dụng
của Hy Lạp.
- 14/01/2010, Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, tuyên bố muốn giảm
thâm hụt ngân sách xuống mức 208% GDP vào năm 2012.
- 29/01/2010, Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro
tương tương 70 tỷ USD, trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4%

GDP. Lương lao động trong lĩnh vực công giảm 4%.
- 11/4/2010, Bộ trưởng tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu
chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố
không cần.
- 23/4/2010, Hy Lạp cầu cứu EU và IMF.
Học viên: Nhóm 4 - 3 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
- 02/5/2010, Thủ tướng Hy Lạp cho biết, chính phủ nước này đã đạt được thỏa
thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi
tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới.
- 9/5/2010, IMF đơn phương chấp thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung
cấp lập tức 5,5 tỷ Euro.
- 18/5/2010, Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ tài chính được
coi như nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ, công bố cấm bản khống vô căn cứ
cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ và hợp
đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS),
- 25/5/2010, Nội các Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết
kiệm 24 tỷ euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách GDP từ mức
5,3% của năm 2009 về mức 2,7% GDP.
- 27/5/2010, Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách
nhằm tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD.
- 28/5/2010, Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống AA+ bởi
nợ tiêu dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức quá cao, đó là chưa kể
đến nợ công đang ở mức đáng báo động.
- 29/5/2010, hàng ngàn người biểu tình ở Lisbon- Bồ Đào Nha để phản đối kế
hoạch thắt chặt ngân sách của Chính phủ.
- 7/6/2010, Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngạn sách và
thuế để hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sa1hc của Đức về mức qui định
của liên minh Châu Âu trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2013.
- 8/6/2010, Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động trong lĩnh vực

công không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của Chính
phủ. Tỷ lệ lạm phát của Hy Lạp tháng 5/2010 tăng 5,4%, vượt mọi kỳ vọng của
các chuyên gia và lên mức cao nhất từ tháng 8/1997.
Học viên: Nhóm 4 - 4 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
- 9/6/2010, kế hoạch thắt chặt ngân sách được bàn đến trong các cuộc bầu cử và
đang có chủ trương này đã chiến thắng. Tuy nhiên, cuối cùng, thật khó để các nhà
hoạch định chính sách thống nhất với nhau.
- 10/6/2010, thỏa thuận cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ. Chính phủ
buộc phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn dù không có sự hỗ
trợ của Nghiệp đoàn Lao động.
2. HỆ QUẢ
2.1. Đối với các nước trên thế giới
Cuộc khủng hoảng nợ đang “leo thang” tại Châu Âu có thể dẫn tới việc bán
tháo tài sản tại Châu Á, khiến các ngân hàng nước ngoài cắt giảm việc cho vay ở
khu vực và gây xáo trộn thị trường tiền tệ tại đây. Tăng trưởng của Châu Á đã
chậm lại kể từ Quý II năm 2011, IMF phát biểu trong một báo cáo công bố 13.10.
Cơ quan này cũng cắt giảm dự báo tăng trưởng trong năm nay của Châu Á xuống
còn 6,3% so với mức 6,8% đưa ra hồi tháng 4. Áp lực lạm phát đang đè nặng khắp
châu lục vẫn tiếp tục tăng lên khắp châu lục. “Sự hỗn loạn về tài chính ngày một
nghiêm trọng tại khu vực đồng euro và nguy cơ suy thoái tại Mỹ có thể lan tới
Châu Á với những hệ lụy nghiêm trọng về kinh tế vĩ mô và tài chính,” IMF nhận
định
Từ năm 2009, các nhà đầu tư từ các nền kinh tế lớn đã thiết lập những vị trí
vững chắc tại thị trường Châu Á. Việc các nhà đầu tư này ngưng hoạt động kinh
doanh tại đây sẽ dẫn đến sự mất lòng tin, và hậu quả nặng nề sẽ lan truyền từ các
thị trường trái phiếu và chứng khoán tới tiền tệ và các thị trường khác, IMF cảnh
báo. Nguy cơ về một cuộc suy thoái toàn cầu nữa đang khiến các lãnh đạo Châu Á
từ Trung Quốc cho tới Indonesia phải ra những động thái bảo vệ tăng trưởng
thông qua các biện pháp tài khóa hoặc giảm chi phí vay vốn. Chỉ số MSCI Asia

Pacific Index đã mất 16% trong quý trước, mức sụt giảm mạnh nhất kể từ năm
2008 và nguy cơ bán tháo hoảng loạng tại khu vực cho thấy không còn nơi nào để
ẩn nấp khi các nền kinh tế lớn rơi vào khó khăn. Theo IMF, các ngân hàng nước
ngoài có thể sẽ bán tài sản ở Châu Á, cắt giảm hạn mức tín dụng đối với khu vực
Học viên: Nhóm 4 - 5 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
và tránh kéo dài thời hạn thanh toán đối với các khoản vay tới hạn nếu họ đối mặt
với việc thua lỗ lớn tại quê nhà. “Việc cắt giảm đó có thể dẫn tới những tác động
to lớn đối với các nền kinh tế. Châu Á vốn gắn với hệ thống ngân hàng Châu Âu
và Mỹ. ” Các nhà hoạch định chính sách Châu Á đang đối mặt với việc cần phải
có những phản ứng cân bằng một cách khéo léo để bảo vệ mình trước các nguy cơ
ảnh hưởng đến tăng trưởng trong khi vẫn phải kìm chế thiểu lạm phát
Cuộc khủng hoảng kinh tế của châu Âu đe dọa một cách rộng rãi quá trình
phục hồi kinh tế thế giới. Châu Âu quá rộng lớn và có mối quan hệ mật thiết, gần
gũi với các nền kinh tế như Mỹ và toàn thế giới. Vì vậy, cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng tại châu Âu sẽ có thể gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, đè nặng
lên quá trình tăng trưởng và cân bằng của nền kinh tế thế giới cũng như giảm
lượng cầu”. Cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu đã tạo ra tình trạng thiếu hụt
USD và tình trạng này sẽ lan ra khắp địa cầu. Sự chuyển hướng đầu tư, hay đầu cơ
sẽ gây nhiều tác hại cho Á châu. Cho đến gần đây, các nền kinh tế Á châu sống
nhờ thị trường phương Tây vẫn còn lo sợ về đồng tiền quốc gia quá mạnh sẽ gây
khó khăn cho việc bán hàng hóa ra nước ngoài. L‹c này, các nước châu Á lại đang
đứng trước hai nguy cơ mới là kịch bản đồng tiền mất giá, làm gia tăng tình trạng
lạm phát.
Cuộc khủng hoảng nợ và tài chính tại Mỹ và châu Âu có thể tác động đến
nền kinh tế của nhiều quốc gia châu Phi, do Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) sẽ cắt
giảm nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và quan hệ thương mại với lục địa
này trong thời gian tới.
2.2. Đối với Việt Nam
2.2.1. Xuất khẩu giảm

Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ
phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến
tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP
giảm s‹t, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu
giảm mạnh.
Học viên: Nhóm 4 - 6 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hóa giá rẻ là ưu thế của
Việt Nam do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ gi‹p hướng người dân châu Âu
chuyển từ hàng hóa cao và trung cấp sang hàng hóa do Việt Nam sản xuất.
Vì vậy, nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu
thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
2.2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm
Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn
toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ
phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ
dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu
nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu.
Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn
không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự
chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư
châu Âu vào các quốc gia này giảm s‹t do cuộc khủng hoảng nợ.
2.2.3. Giá vàng bùng nổ
Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi tr‹ ẩn an toàn trước
nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong
thời gian qua tăng mạnh. Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và
Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ
chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ
bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.
2.2.4. Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên

Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận
trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ
quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức
thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm.
Học viên: Nhóm 4 - 7 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Hệ quả là Việt Nam với tỷ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị
các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp
ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong
việc thu h‹t các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.
2.2.5. Biến động tỷ giá hối đoái sẽ rất khó lường
Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá.
Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro. Do
đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Ngoài ra, lãi suất thấp ở các nước, trong khi cao ở Việt Nam sẽ bất lợi về
chi phí cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
3. NGUYÊN NHÂN
Hiện nay, nền kinh tế các nước phát triển đang đứng trước những thách
thức vô cùng khó khăn đối với vấn đề nợ công.
Đầu tiên, Chính phủ các nước dễ tổn thương trước những thay đổi nhanh
chóng và bất ngờ trong hành vi của nhà đầu tư, và hệ quả là những chính sách
cũng bị thay đổi theo để kịp thời thích nghi.
Hơn thế nữa, các nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn hoặc từ chối cho
vay mượn trước nỗi lo về khả năng vỡ nợ ở các quốc gia rủi ro cao. Hiện ba nước
trong khu vực eurozone là Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha đang phải gánh chịu áp
lực này; tuy nhiên các nước lớn khác trong khu vực eurozone và IMF đã cho các
nước này vay mượn để tránh nguy cơ vỡ nợ.
Thứ hai, sự cạnh tranh vốn của chính phủ cho những khoản nợ vay sẽ đẩy

lãi suất lên cao, gây khó khăn cho khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp,
nhà đầu tư tư nhân.
Học viên: Nhóm 4 - 8 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Thứ ba, mức nợ công cao sẽ hạn chế khả năng ứng phó với những khủng
hoảng không mong muốn, ví dụ như thảm họa thiên nhiên. Điều này sẽ ảnh hưởng
đến khả năng hồi phục nhanh và bền vững của nền kinh tế trong nước.
Theo các nhà kinh tế, gánh nặng nợ công tăng cao như hiện nay chỉ mới là
giai đoạn đầu của những vấn đề nghiêm trọng hơn.
Cụ thể là mối quan ngại về sự già hóa dân số ở các nước phát triển sẽ làm
cho nợ công tăng vọt trong những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao
động bị thu hẹp sẽ làm cho nguồn thu thuế của chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó
số người nghỉ hưu tăng lên sẽ gây áp lực cho việc tăng chi tiêu chính phủ trong
các khoản lương hưu và chăm sóc sức khỏe.
Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), cứ 100
công nhân ở các nước thành viên OECD thì có khoảng 27 người về hưu trong năm
2000. Vào năm 2050, tổ chức này dự báo sẽ có đến khoảng 62 người về hưu cho
mỗi 100 công nhân.
Ngoài những nguyên nhân trên còn có các nguyên nhân đến từ việc chính
phủ đẩy mạnh các gói kích cầu dẫn đến chi tiêu của ngân sách là rất lớn. Từ quốc
hữu hóa các khoản nợ công và từ kế hoạch giảm thuế.
Nguyên nhân của chuỗi sự kiện này chính là thiếu sót trong quản lí của
chính phủ các quốc gia phương Tây, dẫn đến sự xuất hiện của nợ công. Gánh nợ
nghiêm trọng dẫn đến một loại tăng trưởng kinh tế theo hình thức nợ công, còn
tăng trưởng kinh tế theo hình thức nợ công cuối cùng vỡ như bong bóng khi xảy ra
khó khăn về tiền tệ.
Một nền kinh tế suy thoái thì nợ công bắt đầu tăng vọt và mỗi khi bầu cử nợ
công cũng leo thang.
Một yếu tố nữa gây ra khủng hoảng nợ châu Âu đó là những khoản nợ nước
ngoài khổng lồ đang ngày càng gia tăng. Tầm quan trọng của nợ nước ngoài có

thể được minh họa bằng trường hợp của Bồ Đào Nha. • quốc gia này mặc dù nợ
công thâm hụt khá cao nhưng cũng chỉ tương tự như Pháp. Vai trò quan trọng nhất
Học viên: Nhóm 4 - 9 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
mà Bồ Đào Nha đang phải đối mặt không phải là chính sách tài chính mà là các
khoản nơ nước ngoài của khu vực tư nhân: các ngân hàng và các DN Bồ Đào Nha.
Trong khủng hoảng các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công. Và
điều quan trọng trên thị trường tài chính khi nhìn vào nợ công của 1 quốc gia là ai
là chủ nợ của ch‹ng. Tại các quốc gia khu vực đồng Euro, điều quan trọng là đảm
bảo được hoạt động thu thuế. Với những quốc gia có nợ công cao nhưng nợ nước
ngoài thấp, nợ công chủ yếu do người dân nắm giữ, và Chính phủ luôn luôn có thể
giải quyết vấn đề nợ công bằng một số hình thức thu thuế.
Vì thế, nợ nước ngoài là thành phần chủ yếu gây ra những vấn đề trong khả
năng thanh toán nợ của một quốc gia.
Một điều phức tạp hơn nữa là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi
cư dân của họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài. Trong trường
hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi
người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước ngoài. Ngay cả
khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách, kêu gọi người dân bán
tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong nước thay thế.
Nguyên nhân từ nền chính trị của các quốc gia phương Tây: chưa kịp đưa ra
những điều chỉnh để thích ứng với thay đổi to lớn của thời đại: toàn cầu hóa, khi
lối sống được thay đổi hoàn toàn bởi khoa học kỹ thuật và chủ nghĩa cá nhân.
Tính hợp pháp của nền chính trị phương Tây vẫn xây dựng trên nền tảng
quốc gia dân tộc, những biện pháp được áp dụng vẫn chỉ dừng lại ở quá khứ, thêm
vào đó tố chất người lãnh đạo chưa thật xuất sắc, tất cả những điều này đều dẫn
đến thất bại của nền dân chủ. Giới chính trị - rất hiếm trường hợp ngoại lệ cá biệt -
đều chưa kịp nhận thức để đưa ra những điều chỉnh tương ứng hoặc đánh giá thấp
cường độ của điều chỉnh. Các chính khách gần như tin tưởng rằng cơ cấu và chế
độ của quá khứ vẫn có thể tiếp tục tồn tại, nhưng thực tế, họ không thể duy trì tất

cả mà không vay nợ.
Học viên: Nhóm 4 - 10 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Thách thức mà các quốc gia mới nổi phải đối diện lại có phần khác, hơn
nữa tương đối đơn giản: lợi dụng ưu thế dân số và mô phỏng đối với kĩ thuật
phương Tây để r‹t ngắn khoảng cách kinh tế. Tuy nhiên, sớm hay muộn, những
quốc gia này cuối cùng sẽ có ngày đối diện với vấn đề phương Tây.
Trên thực tế, các nước phải đối mặt với cùng một vấn đề: làm thế nào gắn
kết chính trị với kinh tế, làm thế nào để đưa ra chính sách mới có thể đáp ứng yêu
cầu mới.
4. GIẢI PHÁP
4.1. Giải pháp trước mắt đã được thực thi
Mặc dù là một nước nhỏ, song với tư cách là một thành viên của EU đang
lâm nguy, và “việc vỡ nợ”, nếu xảy ra, của Hy Lạp sẽ là khởi đầu cho một phản
ứng domino tài chính ra toàn EU và thậm chí cả thế giới, giống như vụ Lehman
Brothers trước đây.
Trước nguy cơ khủng hoảng nợ công ngày càng căng thẳng có thể gây ra
hiệu ứng “Domino”, đầu tháng 5/2010, EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nhất
trí dành một gói cứu trợ dài hạn trị giá 110 tỷ EUR, tương đương khoảng 136 tỷ
USD trong vòng 3 năm, cho Hy Lạp nhằm gi‹p nước này thoát khỏi bờ vực nợ
công .
Đồng thời, ngày 10/5/2010, EU và IMF đã nhất trí thiết lập “Quỹ chống
khủng hoảng” trị giá 750 tỷ EUR (1000 tỷ USD). Theo đó, các nước châu Âu đưa
ra 572 tỷ USD (440 tỷ EUR) khoản vay mới và bơm thêm 778 tỷ USD (60 tỷ
EUR) cho chương trình vay đang thực hiện. IMF cũng sẽ đóng góp 325 tỷ USD
(250 tỷ EUR) cho gói cứu trợ . Gói cứu trợ mới này có quy mô còn lớn hơn cả gói
cứu trợ ngân hàng của Mỹ hai năm trước đây nhằm củng cố niềm tin của thị
trường.
Hầu hết các nước châu Âu đều chọn kế hoạch giảm tiền lương khu vực
công và ph‹c lợi, là các hình thức cắt giảm ngân sách ít gây tổn hại cho quá trình

phục hồi kinh tế. Việc cắt giảm mạnh tay chi tiêu khu vực công và phụ cấp đã
Học viên: Nhóm 4 - 11 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
được tiến hành ở Ailen, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Italia dự định giảm lương khu
vực công trong ba năm. Đức và Hy Lạp sẽ giảm chi lương hưu. Bồ Đào Nha giảm
trợ cấp thất nghiệp. Nhìn chung việc giảm thâm hụt ngân sách bằng bất cứ phương
thức nào cũng hiếm khi tạo hiệu ứng tốt cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong
giai đoạn kinh tế suy yếu tai một số nước châu Âu, đặc biệt là Hy Lạp đang đối
mặt với nguy cơ vỡ nợ hay Đức là vấn đề thắt chặt chi tiêu tiêu dùng, thì biện
pháp giảm lương khu vực công và ph‹c lợi xã hội có thể sẽ có tác dụng giảm thâm
hụt ngân sách, tuy nhiên vẫn khó tránh khỏi rủi ro chi tiêu sụt giảm.
4.2. Giải pháp lâu dài
Trong bối cảnh khủng hoảng nợ công ngày càng trầm trọng, Chủ tịch Ủy
ban châu Âu (EC) José Manuel Barroso đã nêu ra những giải pháp mà Khu vực sử
dụng đồng (Eurozone) có thể triển khai để vượt qua cuộc khủng hoảng như phát
hành trái phiếu chung, siết chặt kỷ luật tài chính, hỗ trợ vốn cho các ngân hàng và
nhanh chóng thông qua thỏa thuận mở rộng quy mô Quỹ Bình ổn Tài chính châu
Âu (EFSF) đã được các nhà lãnh đạo Eurozone nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh
ngày 21/7. Theo ông Barroso, 17 nước Eurozone mở đường cho việc tăng quy mô
EFSF và thành lập quỹ cứu trợ dài hạn mang tên Cơ chế bình ổn châu Âu (ESM),
công cụ thay thế khi EFSF hết hiệu lực vào năm 2013. Ông cho rằng một khi có
tiềm lực mạnh hơn và linh hoạt hơn, EFSF mới đủ khả năng tiến hành các hành
động can thiệp mang tính ngăn ngừa hoặc hỗ trợ các ngân hàng huy động vốn và
tham gia các thị trường thứ cấp để ngăn chặn khủng hoảng nợ lan rộng.
Việc phát hành trái phiếu chung với tên gọi "trái phiếu ổn định" thay vì trái
phiếu Euro sẽ được coi là một bước đi đương nhiên và có lợi cho toàn EU.
Ngoài ra, ông Barroso cho biết EC sẽ trình lên Nghị viện châu Âu kế hoạch
đánh thuế giao dịch tài chính mà theo ước tính sẽ đem lại cho ngân sách của EU
55 tỷ euro mỗi năm.
Khủng hoảng nợ Châu Âu đem đến những bài học đối với tất cả các

nước, bất kể là giàu hay nghèo. Thế giới, trong đó có Việt Nam, có thể học
được gì từ đây?
Học viên: Nhóm 4 - 12 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế: Vay nợ để đầu tư cho tăng
trưởng kinh tế là điều bình thường. Tuy vậy, nợ bao nhiêu là an toàn lại là một bài
toán khó giải.
Theo nhà báo người Đức David Froje, bài học lớn nhất mà thế giới r‹t ra từ
cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu, là bất kỳ nền kinh tế nào, nếu lơ là quản
lý, đều có thể sụp đổ vì nợ nần: “Tình hình châu Âu rất khác biệt, mọi quốc gia
trên thế giới đều khác biệt không thể dập khuôn các mô hình phát triển. Vấn đề r‹t
ra ở đây là không nên tiêu quá nhiều, nhưng bao nhiêu là quá nhiều thì mỗi trường
hợp một khác. Nhớ lại cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á xảy ra năm 1997 khi
Thái Lan chỉ có khoản nợ khoảng 15% GDP. Do đó, nói rằng không chi tiêu nhiều
là tránh xa được khủng hoảng là không đ‹ng. Trong lịch sử, nước Đức cũng từng
phải tiêu rất nhiều, vấn đề là phải luôn ý thức và kiểm soát mức nợ phù hợp với
nền kinh tế của mình”. Vì vậy phải cẩn trọng trong chi tiêu, tìm mọi cách để các
khoản chi tiêu của mình có hiệu quả để lấy lại nguồn thu cho việc trả nợ.
Chính phủ phải làm tròn trách nhiệm trong chi tiêu những đồng tiền thuế
của người dân một cách hợp lý và minh bạch.
Bài toán chi tiêu vốn không dễ với các nước giàu, lại càng khó với các nước
đang phát triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển trước mắt
mà thiếu tính toán về dài hạn. Sự sụp đổ của nền kinh tế Argentina - quốc gia từng
được Quỹ Tiền tệ quốc tế ngợi ca là một hình mẫu tăng trưởng- cảnh báo các nước
đang phát triển về hiểm hoạ do phát triển “quá nóng”, đầu tư tràn lan, thiếu tính
toán
Đối với Việt Nam, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan nhấn mạnh yêu cầu
đầu tiên về cẩn trọng trong chi tiêu ngân sách: “Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
là bài học rất tốt cho Việt Nam. Chẳng vui gì câu chuyện này, nhưng tôi cho rằng
phải rất ch‹ ý giám sát hệ thống tài chính tiền tệ, nghiêm trong chính sách tài

khoá- tức là ngân sách. Ch‹ng ta đã bội chi ngân sách quá dài. Mặc dù vẫn dưới
mức nguy hiểm nhưng cũng cảnh báo ch‹ng ta phải cẩn thận, nếu vượt qua
Học viên: Nhóm 4 - 13 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
ngưỡng đó thì gay go bởi kinh tế của ch‹ng ta còn yếu. Vì vậy phải quản lý nợ
công rất chặt chẽ.”
Vấn đề mấu chốt đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, là
phải vay mượn, nhất là vay vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức, thì mới có
nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, không l‹c nào được lãng quên vấn đề sử
dụng vốn vay sao cho hiệu quả, bởi đó là những đồng tiền vay mượn, phải trả lãi
và đến hạn sẽ phải trả nợ.
Thông thường, vốn vay nước ngoài được các nước đang phát triển đầu tư
vào các dự án cơ sở hạ tầng để tạo đà cho tăng trưởng. Nhưng phải có sự tính
toán, cân đối giữa chính các dự án cơ sở hạ tầng. TS Vũ Quang Việt nói : “Đầu tư
vào hạ tầng cơ sở phải đặt ra vấn đề là nó có làm cho chi phí sản xuất của những
người trong khu vực giảm đi hay không, phải tính toán xem có lợi cho doanh
nghiệp hay không. Nếu dùng nợ công để phát triển thì xây xong phải tạo ra công
ăn việc làm, tạo lợi nhuận, chứ không thể để những đầu tư đó không làm tăng
năng suất sản xuất cho nền kinh tế, không tạo ra cái gì cho hoạt động kinh tế.”
Cuối cùng, một bài học lớn phải được r‹t ra trong suốt quá trình quản lý,
ngăn chặn bùng nổ nợ công, cho đến giải quyết hậu quả trong trường hợp vỡ nợ
là bài học “Tự lực cánh sinh”, tự mình làm, tự mình chịu, khi ấy sẽ biết quý và
thận trọng từng đồng tiền trong chi tiêu.
Thật vậy, khủng hoảng nợ tại châu Âu cũng đang làm thức tỉnh toàn thế
giới về nhu cầu duy trì tính ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường thắt chặt hoạt
động tài khóa để giảm bớt nợ công không thật cần thiết cho nhu cầu tăng trưởng
bền vững. Và Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Học viên: Nhóm 4 - 14 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN
Kết Luận

Rõ ràng, nợ công đang trở thành một vấn nạn không chỉ đối với EU mà còn
đối với nhiều nước trên thế giới. Khi khủng hoảng nợ dâng cao sẽ đẩy nhiều quốc
gia EU đến những biến động chính trị - xã hội hết sức nóng bỏng.
Thông qua những vấn đề về nợ công hiện nay, có thể r‹t ra một số điều sau đây:
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang
phát triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh nặng nợ công
lớn nhất là các nền kinh tế phát triển, trong đó, khu vực đồng ơ-rô đang đứng
trước những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói cứu trợ của EU và IMF
để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách
“thắt lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để
được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, “thắt
lưng buộc bụng” lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần ch‹ng, gây
căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế
trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm ph‹c
lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ.
Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi
khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh
tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm
chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm
chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”.
Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong
những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng
hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền
kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết
được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái,
trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận
chiều.
Học viên: Nhóm 4 - 15 - Lớp: CH17A
Thị trường tài chính toàn cầu và và khu vực ASEAN

Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo
báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia
khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở
thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ
công là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích
“thực chất” nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước
ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng “sức khỏe” nói chung của
nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia…
Như vậy, việc đánh giá đ‹ng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế,
một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm.
Bởi lẽ, nếu chỉ ch‹ trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần t‹y sẽ gây
nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng
thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm
chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ
công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, ch‹ ý đ‹ng mức
đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh
tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng
xoáy thâm hụt ngân sách – “thắt lưng buộc bụng” – tác động tiêu cực đến tăng
trưởng…
Với các bức tranh nợ công nêu trên, có thể khẳng định mỗi nước dù ở mức
độ nào cũng liên quan đến nợ công và nợ công vẫn thực sự cần thiết cho mọi nền
kinh tế, cho mọi quốc gia. Điều quan trọng cần bàn đó là qui mô nền kinh tế như
thế nào thì có khả năng hấp thụ nguồn tín dụng tương ứng. Hiện tại thế giới chưa
có công thức chuẩn xác cho mọi trường hợp nợ công và như vậy nợ công vẫn là
câu chuyện dài, vì lẽ đó mỗi quốc gia cần nhận thức và xử lý các vấn đề phát sinh
từ nợ công cho phù hợp.
Học viên: Nhóm 4 - 16 - Lớp: CH17A

×