Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.2 KB, 12 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam được đánh giá là một trong các hình thức
kinh tế năng động và linh hoạt nhất trong tổng thể bức tranh kinh tế hiện nay. Với
sự hướng dẫn và điều chỉnh của bộ luật doanh nghiệp từ năm 1990 đến 2005, bộ
phận kinh tế này đã khởi sắc và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc
gia.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã cải tiến nhiều điều khỏan không còn phù
hợp của luật Doanh nghiệp năm 1990 và 1999 và đã làm giảm các rào cản về mặt
thủ tục đối với các doanh nghiệp tư nhân. Việc đăng ký kinh doanh và nộp đơn xin
thành lập doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn rất nhiều so với trước đây.
Hệ thống doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam cũng có nhiều đóng góp quan
trọng cho nền kinh tế quốc gia. Sản lượng công nghiệp của hệ thống doanh nghiệp
tư nhân cũng tăng trường mạnh và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng
công nghiệp. Các doanh nghiêp tư nhân cũng tuyển một lượng lớn lao động nhân
công và giúp giải quyết tình trạng thất nghiệp.
Chúng ta có thể thấy việc phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam dưới
sự điều chỉnh của các bộ luật kinh tế, đặc biệt là bộ luật doanh nghiệp 2005 là một
vấn đề rất đáng quan tâm và cần nghiên cứu tìm hiểu kĩ, đặc biệt đối với các bạn
sinh viên. Vì vậy nhóm chúng tôi qua việc nghiên cứu đề tài này muốn làm sáng tỏ
các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp tư nhân, từ các vấn đề khái quát đến việc
thành lập, tổ chức họat động và giải thể phá sản.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của giáo sư, tiến sĩ,
nhà giáo nhân dân Nguyễn Thị Mơ và sự đóng góp ý kiến của các bạn trong khối
TCQTB - K46 để nhóm hoàn thành đề tài này.
2

NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1 – TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1 - Khái niệm:


Điều 141 khoản 1 Luật Doanh nghiệp định nghĩa: “Doanh nghiệp tư nhân là
một doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản cuả mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Theo định nghĩa, doanh nghiệp
tư nhân có đặc điểm cơ bản sau đây:
- Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh
- Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ, và mỗi cá nhân chỉ được
phép thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về mọi hoạt động doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân có thể có nhiều nhà máy, nhiều phân xưởng, chi nhánh…
nhưng tất cả đều thuộc doanh nghiệp và chỉ có doanh nghiệp mới được coi là một
đơn vị kinh doanh. Về bản chất pháp lý, doanh nghiệp tư nhân và cá nhân kinh
doanh theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992 (nay là kinh doanh cá thể theo
Nghị định số 02/2000/NĐ-CP) có rất ít điểm khác nhau, chủ doanh nghiệp tư nhân
và ngừời kinh doanh đều là một chủ duy nhất và đều phải chịu trách nhiệm vô thời
hạn về các khoản nợ trong hoạt động kinh doanh, sự khác nhau cơ bản là quy mô
của chúng. Doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô lớn hơn so với hoạt động của
người kinh doanh nói trong Nghị định 66-HĐBT. Sự phân chia này có ý nghĩa
trong việc xác định vai trò quản lý của Nhà nước đối với các loại hình tổ chức kinh
doanh có quy mô khác nhau.
3


1.2 - Địa vị pháp lý:
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp duy nhất không có tư cách
pháp nhân do ở loại hình doanh nghiệp này không có sự phân biệt giữa tài sản của
chủ doanh nghiệp và tài sản doanh nghiệp. Theo điều 141 khoản 2, luật Doanh
nghiệp quy định: “ Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng
khoán nào”.
1.3 – Chủ sở hữu doanh nghiệp:

Về hình thức sở hữu, doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ. Đây là
điểm khác cơ bản của doanh nghiệp tư nhân so với công ty. Doanh nghiệp tư nhân
không có sự hùn vốn, không có sự liên kết của nhiều thành viên mà tất cả sản của
doanh nghiệp thuộc về một chủ duy nhất; người chủ duy nhất này là một cá nhân,
một người cụ thể. Chủ doanh nghiệp không thể là một tổ chức hoặc do một tổ chức
thành lập ra. Dù một chủ, nhưng doanh nghiệp tư nhân vẫn có thể là một đơn vị có
tổ chức, có giám đốc điều hành, có người làm công… Tính tổ chức của doanh
nghiệp tư nhân là tổ chức hoạt động kinh doanh chứ không phải tổ chức liên kết
hợp tác dưới góc độ pháp lý.

1.4 – Trách nhiệm chủ sở hữu:
Chủ sở hữu là người có quyết định cao nhất đối với mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô thời hạn về các nghĩa vụ
của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, đây là đặc điểm rất quan trọng của doanh
4

nghiệp tư nhân. Khi doanh nghiệp tư nhân có nợ nần thì chủ doanh nghiệp phải
đem toàn bộ tài sản của mình (cũng chính là tài sản doanh nghiệp) ra để trả cho các
chủ nợ. Chế độ trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp tư nhân khác với chế độ trách
nhiệm của công ty. Khi các công ty có nợ thì các thành viên chỉ chịu trách nhiệm
bằng phần vốn đã góp vào công ty chứ không chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng.
Quan hệ nợ nần của công ty là giữa công ty với các chủ nợ chứ không phải là giữa
các thành viên và chủ nợ, trong khi đó quan hệ nợ nần của doanh nghiệp tư nhân
là giữa chủ sở hữu doanh nghiệp và các chủ nợ chứ không phải chỉ có doanh
nghiệp và các chủ nợ.
Chế độ chịu trách nhiệm vô thời hạn là một ưu thế lớn giúp doanh nghiệp tư nhân
có thể dễ dàng vay các khoản tín dụng lớn từ ngân hang. Khi cung cấp tín dụng,
ngân hang có thể căn cứ vào tài sản của chủ doanh nghiệp chứ không chỉ căn cứ
vào tài sản của công ty. Toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp là một bảo đảm cho

việc thanh toán các khản nợ của doanh nghiệp.
Chế độ chịu trách nhiệm vô thời hạn cũng có những vấn đề cần chú ý:
- Thứ nhất, là trách nhiệm của người điều hành doanh nghiệp trong quan
hệ với chủ doanh nghiệp trong trường hợp chủ doanh nghiệp không phải là
người điều hành doanh nghiệp. Trách nhiệm này giải quyết trên cơ sỏ hợp
đồng chủ doanh nghiệp với người điều hành doanh nghiệp và các quy định
trong Pháp luật về hợp đồng lao động.

- Thứ hai, là tài sản của vợ chồng. Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình quy
định vợ chồng có tài sản riêng. Các quy định như vậy cũng có ở nhều nước.
Ở các nước công nghiệp phát triển, việc xác định tài sản riêng không còn là
vấn đề quá mới mẻ. Nhiều cặp vợ chồng đã thỏa thuận tài sản chung và riêng
5

ngay từ khi kết hôn hôn hoặc trong quá trình chung sống. Pháp luật cũng
quy định tài sản nào có thể là tài sản chung tài sản nảo có thể là tài sản riêng.
Ở nước ta, do những đặc điểm về văn hóa và trình độ pháp luật của nhân dân
nên việc xác định tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng không đơn
giản. Thông thường tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn có thể là
tài sản riêng, quà tặng của mỗi người vv.. Các tài sản chung của vợ chồng
phải được đem ra thanh toán cho các khoản nợ. Tài sản riêng của vợ (chồng)
không phải chủ doanh nghiệp thì không phải là tài sản doanh nghiệp và
không đem ra để thanh toán các khoản nợ.


- Thứ ba, chế độ trách nhiệm vô thời hạn có nhược điểm là khiến cho chủ
đầu tư không dám mạo hiểm đầu tư vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao.
Điều đó có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế và có những
nhu cầu xã hội không được đáp ứng thỏa đáng.







Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×