CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TRUNG VÀ DÀI
HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.1.1. Khái niệm cho vay trung và dài hạn
Cho vay là “một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thoả thuận với ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi”1. Nghiệp vụ cho
vay có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: căn cứ vào tài sản thế chấp,
căn cứ vào hạn mức tín dụng, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, căn cứ vào
thời gian vay. Theo tiêu thức thời gian vay, cho vay được chia ra thành: cho vay
ngắn hạn (cho vay theo đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển của vốn) thường để
bổ sung cho cho vốn lưu động của khách hàng; ngược lại cho vay trung và dài
hạn là để bổ sung cho tài sản cố định của người đi vay nhằm phát triển sản xuất
theo chiều rộng và chiều sâu.
Cho vay trung và dài hạn của ngân hàng là các khoản cho vay có thời hạn
trên 01 năm nhưng khơng dài hơn thời gian sử dụng cịn lại của tài sản hình
thành bằng vốn vay. Việc phân định cụ thể thời gian của cho vay trung hạn và
dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, theo “Quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” 2 thì: “Cho vay trung hạn là
các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng; Cho vay dài
hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên”.
1 Điều 3, quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
2 Điều 8, quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
1.1.2. Vai trò của cho vay trung và dài hạn
1.1.2.1.
Vai trò của cho vay trung và dài hạn đối với NHTM
Mang lại lợi nhuận cao hơn cho vay ngắn hạn
Trong các loại tài sản của ngân hàng thì khoản mục cho vay bao giờ cũng
chiếm tỷ trọng cao nhất (thường là 70%) và là khoản mục mang lại thu nhập chủ
yếu cho ngân hàng. Trong tổng thể các hoạt động cung cấp dịch vụ của NHTM
thì chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp nổi các chi phí tiền gửi, chi
phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế và các chi phí rủi ro đầu
tư… Hoạt động cho vay trung và dài hạn tuy chiếm tỷ trọng nhỏ do tính rủi ro
cao nhưng cũng chính tính rủi ro của những khoản cho vay này lại đem lại lợi
nhuận cao hơn các khoản cho vay ngắn hạn của NHTM. Thu nhập từ tiền cho
vay biểu hiện dưới dạng lãi tiền vay phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn món vay.
Thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất càng cao và do đó thu nhập của ngân
hàng càng lớn. Do đó, ngân hàng nào càng mở rộng cho vay trung và dài hạn thì
càng có cơ hội kiếm lời nhiều hơn.
Mở rộng thị phần cho NHTM
Nguồn huy động vốn trung và dài hạn – cơ sở để phát triển cho vay trung
và dài hạn của NHTM là nguồn khan hiếm và đắt đỏ do đó khả năng mở rộng
tín dụng trung và dài hạn thể hiện tiềm lực về vốn của ngân hàng góp phần làm
tăng uy tín của ngân hàng. Đó là cơ sở để tạo lịng tin cho các khách hàng hiện
tại và khách hàng tương lai. Hơn thế nữa, phát triển cho vay trung và dài hạn
còn được coi là một vũ khí cạnh tranh lợi hại. Bởi lẽ, doanh nghiệp được vay
vốn trung và dài hạn họ sẽ có điều kiện để đầu tư đổi mới cơng nghệ, máy móc
thiết bị mở rộng sản xuất, … do đó sẽ nảy sinh nhu cầu cần vốn lưu động. Bên
cạnh việc mở rộng sản xuất kinh doanh thì nhu cầu về thanh toán, bảo lãnh, tư
vấn, … cũng từ đó mà phát triển. Trong trường hợp đó, ngân hàng mà doanh
nghiệp đã vay nợ trung và dài hạn sẽ là địa chỉ đầu tiên mà doanh nghiệp tìm tới
cho các nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ ngân hàng khác phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh.
Góp phần nâng cao chất lượng các khoản cho vay của NHTM
Một khi đã đồng ý cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng trung và dài hạn
với khách hàng nghĩa là NHTM đó đã xác định sẽ tạo lập quan hệ lâu dài với
khách hàng đó. Quan hệ lâu dài không chỉ giới hạn trong khoảng thời gian dài
của một khoản vay mà là nhiều khoản vay khác nữa sau đó. Hơn thế nữa, thì
việc phát triển cho vay trung và dài hạn cịn góp phần đảm phát triển các khoản
cho vay ngắn hạn và các dịch vụ khác của ngân hàng . Mối quan hệ này được
tạo lập dựa trên quá trình thẩm định kỹ càng khách hàng do đó sẽ đảm bảo tính
an tồn cho những khoản vay. Như vậy thông qua cho vay trung và dài hạn
NHTM tạo sự gắn bó với khách hàng, tạo ra nhóm khách hàng trung thành của
NHTM, là cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Như vậy, một mặt thì do nhu cầu khách quan của nền kinh tế, mặt khác
để đạt được mục tiêu phát triển cho chính mình thì đối với các NHTM cho vay
trung và dài hạn luôn là mảng kinh doanh đầy tiềm năng.
1.1.2.2.
Đối với nền kinh tế
Cho vay trung và dài hạn của NHTM góp phần giảm gánh nặng cho ngân
sách Nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nó là cơng cụ tài trợ
cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Thông qua hệ
thống ngân hàng, Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng
việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian dài, mức vốn lớn. Bên cạnh đó
Nhà nước cịn có thể tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn - các ngành này
phát triển sẽ tạo cơ sở cho các ngành kinh tế khác phát triển theo. Bên cạnh đó,
khi cho vay thì một trong những yêu cầu đầu tiên mà ngân hàng đặt ra là phải
đảm bảo được tính an tồn. Chính vì vậy mà ngân hàng ln có các biện pháp
kiểm tra, giám sát chặt chẽ trước, trong và sau khi cho vay đối với mọi dự án.
Và cũng không giống như nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước, nguồn
vốn từ ngân hàng được cấp dựa trên ngun tắc có hồn trả cả gốc lẫn lãi, vì vậy
người đi vay sẽ phải đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả nhất. Đây chính là điểm ưu việt của nguồn vốn vay trung và dài hạn
của NHTM so với nguồn từ ngân sách Nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nguồn vốn trung và dài hạn là
một nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNHHĐH. Thêm vào đó, nó là cơng cụ địn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế
hàng hố, hình thành và góp phần ổn định nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thị
trường tài chính – tiền tệ, nhất là thị trường vốn chưa phát triển thì tồn bộ áp
lực về vốn trung và dài hạn đang dồn lên vai các ngân hàng.
1.1.3. Đặc điểm của cho vay trung, dài hạn của NHTM
1.1.3.1.
Mục đích cho vay
“Bên cho vay cho bên vay vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho các
dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng
khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với chính sách phát
triển kinh tế - xã hội và pháp luật của Nhà nước”3
Cho vay trung và dài hạn của NHTM nhằm tài trợ vốn cho việc hình
thành tài sản cố định của khách hàng. Cụ thể là:
Cho vay trung hạn là loại cho vay vốn được sử dụng để tài trợ cho tài sản
cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật ni, trang thiết bị chóng
bị hao mịn; cải tiến đổi mới kỹ thuật và sản phẩm; mở rộng sản xuất kinh
doanh; xây dựng các dự án có quy mơ nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh…
Cho vay dài hạn là loại cho vay được sử dụng tài trợ cho cơng trình xây
dựng và cải tạo như nhà, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có
thời gian sử dụng lâu dài.
1.1.3.2.
Đối tượng cho vay
Cho vay trung và dài hạn của NHTM xác định đối tượng cho vay: “ Là
các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở
rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ, bao
3 Điều 4, quyết định 367/1995/QĐ-NHNN
gồm: giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, cơng nghệ chuyển giao, sáng chế và phát
minh; chi phí nhân công; giá thuê và chuyển nhượng đất đai; giá thuê mua các
tài sản khác trong khuôn khổ Luật định; chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự
án đầu tư; chi phí khác” 4
1.1.3.3.
Nguồn hình thành nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM
Tín dụng trung, dài hạn hình thành từ 5 nguồn: vốn chủ sở hữu; vốn huy
động dài hạn (trái phiếu, tiền gửi dài hạn); huy động ngắn hạn; vay nước ngoài;
vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư
của Nhà nước, của tổ chức kinh tế - tài chính - tín dụng - xã hội ở trong và ngồi
nước
Vốn chủ sở hữu hình thành do vốn góp hay do tích luỹ được trong q
trình kinh doanh có vai trị rất quan trọng. Nó góp phần xác định quy mô và cơ
cấu của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là trung
và dài hạn. Số vốn này thuộc về sở hữu của NHTM nên dùng để cho vay trung
và dài hạn là khá an toàn. Tuy nhiên vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ trọng nhỏ,
thường chỉ từ 5% đến 7% nên khơng dễ dàng mở rộng cho vay.
Nguồn hình thành từ hoạt động phát hành trái phiếu của ngân hàng và
huy động tiền gửi dài hạn của khách hàng: Nguồn từ phát hành trái phiếu khơng
có tính thường xun và cũng chỉ chiếm từ 4% đến 6,7% lượng vốn mà NHTM
huy động được. Còn nguồn từ tiền gửi dài hạn của khách hàng tại ngân hàng thì
cịn hạn chế về cả khối lượng và thời gian gửi. Hơn nữa lãi mà ngân hàng phải
trả cho tiền huy động dài hạn lại cao hơn khi huy động ngắn hạn. Do đó nguồn
này được xem là khan hiếm và đắt đỏ.
Nguồn do huy động ngắn hạn chiếm tới 70% tổng lượng vốn huy động
của NHTM do đó có thể xem đây là một nguồn dồi dào. Và với cơng cụ chuyển
hốn kỳ hạn thì nguồn ngắn hạn có thể dùng để cho vay trung và dài hạn. Tuy
nhiên NHNN cũng quy định một tỷ lệ tối đa cho việc chuyển hoán này nhằm
hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM.
4 Điều 8, quyết định 367/1995/QĐ-NHNN
Vay nợ nước ngoài: việc vay nợ nước ngoài để có nguồn vốn cho vay
trung và dài hạn phổ biến ở các ngân hàng trên Thế giới. Nguồn này có khối
lượng lớn, lãi suất phù hợp, chất lượng vốn cao nhưng đối với các nước đang
phát triển như nước ta do trình độ quản lý cịn thấp nên hiệu quả sử dụng vốn
khơng cao sẽ dễ dẫn tới tình trạng không trả được nợ.
Nguồn vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc
dự án đầu tư là nguồn chỉ có tính chất thời điểm.
Tóm lại, nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của các NHTM hiện nay
còn rất hạn hẹp. Nguồn vốn hạn hẹp dẫn tới khả năng cho vay trung và dài hạn
của các ngân hàng là không đáng kể, hạn chế mở rộng quan hệ của ngân hàng
với khách hàng.
1.1.3.4.
Lãi suất khoản vay
Theo cấu trúc rủi ro lãi suất thì “thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao”.
Nguyên nhân là, thời hạn cho vay chính là thời gian sử dụng vốn nên thời hạn
càng dài giá trị sử dụng càng lớn thì lãi suất càng cao. Hơn nữa, thời gian càng
dài thì xác suất để món vay gặp rủi ro càng lớn. Đó là lý do mà NHTM định ra
mức lãi suất của các khoản cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho
vay ngắn hạn, không những để bù đắp cho chi phí của việc huy động vốn dài
hạn mà cịn nhằm mục đích bù lại những thiệt hại có thể xẩy ra. Đó là chưa kể
đến việc ngân hàng sẽ mất cơ hội sử dụng khoản cho vay một cách linh hoạt
trong khoảng thời gian dài của một hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cho vay do
NHTM và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN5. Lãi suất áp
dụng ở đây có thể là cố định suốt thời hạn vay vốn (gọi là lãi suất cố định), cũng
có thể là lãi suất biến đổi tuỳ thuộc sự biến động của thị trường (gọi là lãi suất
thả nổi). Tuy nhiên với các khoản cho vay có thời gian là trung và dài hạn thì
NHTM thường áp dụng lãi suất thả nổi nhằm đảm bảo cả hai mục tiêu là an toàn
và sinh lợi.
1.1.3.7. Cho vay trung và dài hạn có tính rủi ro cao
5 Điều 11 quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
So với các khoản cho vay ngắn hạn với thời gian dưới 01 năm thì cho vay
trung và dài hạn là hoạt động có tính rủi ro cao. Tính chất rủi ro của các khoản
cho vay trung và dài hạn cao xuất phát từ đặc điểm về thời hạn cho vay dài và
quy mô cho vay lớn của chúng.
“Thời hạn cho vay được TCTD và khách hàng thoả thuận căn cứ vào chu
kỳ sản xuất kinh doanh, thời gian thu hồi vốn của phương án, dự án đầu tư, khả
năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của TCTD. Đối với các pháp
nhân Việt Nam và nước ngồi, thời hạn cho vay khơng q thời gian hoạt động
còn lại theo quyết định thành lập hoặc theo giấy phép hoạt động tại Việt Nam” 6.
Do mục đích của các khoản vay như đã trình bày thì thời gian để khách hàng có
thể hồn vốn là rất dài đồng thời khối lượng vốn vay lại rất lớn. Trong thời gian
đó nhiều biến động khơng mong muốn có thể xảy ra như khách hàng làm ăn
thua lỗ, dự án không được hoàn thành, lãi suất thị trường tăng cao trong khi lãi
suất cho vay đã được cố định từ trước trong hợp đồng tín dụng, … đều có thể
gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động của NHTM.
Tính rủi ro của các khoản cho vay trung và dài hạn còn thể hiện ở chỗ đây
là những tài sản kém thanh khoản, khó có thể chuyển nhượng hay thế chấp
được. Do đó một khi ngân hàng đã đồng ý cho vay thì đồng nghĩa với việc phải
chấp nhận sự rủi ro trong suốt thời hạn tín dụng cam kết trên hợp đồng.
Thêm vào đó, việc chuyển hốn kỳ hạn nguồn ngắn hạn để cho vay trung
và dài hạn của NHTM cũng được cảnh báo là tiềm ẩn nhiều rủi ro. Theo quyết
định 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an tồn hoạt động của tổ chức
tín dụng do NHNN ban hành, các NHTM được phép dùng tối đa 40% tổng
nguồn vốn ngắn hạn của mình để sử dụng cho vay trung và dài hạn.
Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn7:
Giá trị nguồn vốn ngắn hạn dùng cho vay trung và dài hạn
6 Điều 10 Quyết định 1627/QĐ-NHNN
7 Nghiệp vụ ngân hàng (Trường ĐH Kinh tế TPHCM – NXB Thống kê 2005
Tn =
Dư nợ cho vay dài hạn
Sở dĩ phải quy định tỷ lệ chuyển hốn này bởi vì đặc trưng hoạt động của
NHTM là dùng tiền huy động được để cho vay. Vốn huy động khơng kỳ hạn có
thể bị khách hàng rút ra bất cứ lúc nào; vốn huy động dưới 01 năm nếu dùng
quá nhiều để cho vay trung và dài hạn thì khi đáo hạn khách hàng đến rút tiền
ngân hàng sẽ không thể chi trả. Việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn ngắn để cho
vay trung và dài hạn nếu vượt quá mức an toàn do các NHTM mải chạy theo lợi
nhuận sẽ dẫn đến khả năng mất cân đối vốn hoạt động hằng ngày. Và quan
trọng hơn là trong điều kiện kinh tế thế giới đang thiếu ổn định, cho vay trung
và dài hạn nhiều dễ gặp rủi ro trong tương lai.
Tóm lại, các đặc điểm của khoản cho vay trung và dài hạn như quy mơ
món vay, thời hạn cho vay, cũng như mục đích sử dụng của khoản vay đều cho
thấy tính chất rủi ro của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động kinh doanh
của NHTM. Đây là nguyên nhân vì sao tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các
NHTM thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn. Tuy rủi ro cao song lợi nhuận
nó đem lại cho ngân hàng (như đã phân tích ở phần vai trị của cho vay trung và
dài hạn) lại rất hứa hẹn nếu không xảy ra các tình huống ngồi dự đốn của
ngân hàng. Như vậy vấn đề đặt ra không phải là hạn chế cho vay trung và dài
hạn để giảm rủi ro mà phải biết tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho
vay trung và dài hạn để tìm hướng giải quyết hợp lý sao cho vừa đảm bảo được
tính an tồn vừa nâng cao lợi nhuận
1.2. Khái qt về DNNQD tại Việt Nam
Hồn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mỗi nước khác nhau sẽ tạo nên những
đặc điểm khơng thể giống nhau của khối kinh tế ngồi quốc doanh. Tại Việt
Nam thì khối DNNQD mới chỉ được Đảng chính thức cơng nhận như một thành
phần kinh tế tất yếu khách quan từ năm 1986. Tuy nhiên, để đảm bảo việc bám
sát tình hình thực tế của Việt Nam cũng như có đầy đủ các số liệu nhằm làm rõ
các vấn đề nêu ra thì trong giới hạn của chuyên đề này, em xin được tập trung
tìm hiểu riêng về DNNQD tại Việt Nam.
1.2.1. Khái niệm DNNQD
Sách Quản trị doanh nghiệp8 đã đưa ra một khái niệm được xem là đầy đủ
nhất về DNNQD. Theo đó thì:
“DNNQD là các doanh nghiệp vốn trong nước, mà nguồn vốn thuộc sở
hữu tập thể, tư nhân một người hay một nhóm người hoặc có sở hữu Nhà nước
nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống. DNNQD bao gồm:
_
Các hợp tác xã (trừ hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thuỷ sản)
_
Doanh nghiệp tư nhân
_
Công ty hợp danh
_
Công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân (kể cả cơng ty trách nhiệm hữu hạn
có vốn Nhà nước từ 50% trở xuống)
_
Các công ty cổ phần tư nhân
_
Các cơng ty cổ phần có vốn Nhà nước từ 50% vốn điều lệ trở xuống”
1.2.2. Đặc điểm của DNNQD tại Việt Nam
1.2.2.1. Quy mô nhỏ
Khu vực DNNQD với 96% số doanh nghiệp có quy mơ vừa và nhỏ (có
vốn đăng ký kinh doanh dưới 10 tỷ đồng, có số lao động thường xuyên làm việc
dưới 300 người). Các DNNQD bình qn chỉ có 40 lao động, 7 tỷ đồng vốn.
Trong khi đó với DNQD, con số này là 421 lao động và 167 tỷ đồng vốn. Với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, con số tương ứng là 299 lao động, 152
tỷ đồng vốn9. Quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp làm doanh nghiệp chỉ có thể
tiến hành sản xuất kinh doanh manh mún, nhỏ lẻ. DNNQD rất cần vốn để mở
8 Quản trị doanh nghiệp (Nguyễn Hải Sản – NXB Thống kê)
9 Niên giám Thống kê năm 2007 (NXB Thống kê)
rộng sản xuất kinh doanh nhưng đối với họ thì muốn thu hút thêm vốn đầu tư
cũng khó khăn vì khơng có đủ uy tín trên thị trường và với ngân hàng. Do đó
“khát vốn” hiện vẫn đang là vấn đề cấp thiết đối với khối DNNQD.
1.2.2.2.
Kỹ thuật, công nghệ sản xuất lạc hậu
Các DNNQD bị giới hạn trong các ngành nghề nhỏ lẻ địi hỏi ít vốn, thời
gian thu hồi vốn nhanh và lao động giản đơn. Các doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm xuất khẩu cũng chủ yếu là hàng nông sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ,
… là những ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động thủ cơng. Vốn ít đã khiến các
DNNQD ít có khả năng trang bị công nghệ tiên tiến, với mức đầu tư trung bình
cho tài sản cố định trên một lao động chỉ có 43 triệu đồng so với 137 triệu đồng
đối với DNQD và 247 triệu đồng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi10. Máy móc thiết bị nhập khẩu chủ yếu thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba của
nước ngồi. Kỹ thuật cơng nghệ lạc hậu là tác nhân chính gây trì trệ trong q
trình sản xuất kinh doanh của các DNNQD.
1.2.2.3. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh đa dạng
Các DNNQD hoạt động trên hầu hết mọi địa bàn, mọi ngành nghề của
nền kinh tế: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,
nông – lâm nghiệp, thuỷ sản, thương mại, du lịch và dịch vụ. Trong đó tập trung
lớn hơn vào các ngành thương mại, dịch vụ và cơng nghiệp. Thậm chí một
doanh nghiệp cũng có thể hoạt động cùng lúc trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Điều này không chỉ thúc đẩy lưu thông hàng hố mà cịn giúp giảm rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc khu vực này
đã khơi dậy, huy động và khai thác một tiềm năng to lớn về tiền vốn, sức lao
động, trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh và các nguồn lực khác của địa
phương mình.
1.2.2.4. Dễ thích ứng với biến động môi trường kinh doanh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đánh giá là bộ phận năng động, hoạt
động có hiệu quả của nền kinh tế. Điều này xuất phát từ lợi thế của quy mô nhỏ,
10 Niên giám Thống kê năm 2007 (NXB Thống kê)
gọn nên việc chuyển hướng trong kinh doanh của các DNNQD dễ dàng hơn.
Đặc điểm hoạt động đa dạng ngành nghề cũng góp phần giảm thiểu rủi ro cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của khối doanh nghiệp này. Thêm vào đó, phần
lớn chủ DNNQD là lớp trẻ, nhạy bén với những thay đổi trên thị trường. Do đó
họ dễ thích ứng với những biến động trái chiều của thị trường. Và đây là cơ sở
để các DNNQD có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và thị phần ngày càng
lớn (theo thống kê11 cuối năm 2007 thì trong 5 năm qua đã có 170.000 DNNQD
đăng ký hoạt động, gấp 3 lần tổng số doanh nghiệp thành lập trong 10 năm 1991
– 1999)
1.2.2.5. Không thực hiện chế độ sổ sách kế toán nghiêm túc
Ở khối DNNQD tồn tại một tính từ để miêu tả đặc điểm của khu vực kinh
tế này là “tính phi chính thức”. Đặc tính này được thể hiện rõ nhất trong công
tác sổ sách kế toán của họ. Nhiều doanh nghiệp khối kinh tế này khơng tn thủ
đúng theo pháp lệnh kế tốn của Nhà nước, sổ sách kế tốn khơng đầy đủ, và
đặc biệt là hay làm giả số liệu. Thực tế là có những doanh nghiệp sử dụng tới 3
loại sổ sách kế tốn: 1 cho chủ doanh nghiệp (thơng tin thực có), 1 dùng để tính
thuế (ghi giảm thu nhập và lợi tức), 1 cho ngân hàng (thổi phồng các chỉ tiêu
kinh tế và kết quả kinh doanh). Chính tính “phi chính thức” của khối DNNQD
đã gây ra tâm lý không tin tưởng cho bên thứ hai với những thông tin về hiệu
quả hoạt động mà doanh nghiệp đó cung cấp.
Như vậy, nhu cầu cấp thiết trước mắt và trong tương lai của khối
DNNQD vẫn là làm sao để khơi tăng nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài
hạn cho doanh nghiệp mình. Có như vậy, DNNQD mới có thể đầu tư mở rộng
sản xuất theo chiều sâu; tham gia vào các lĩnh vực ngành nghề địi hỏi kỹ thuật,
cơng nghệ cao; tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Và bên cạnh
những ưu điểm không thể phủ nhận thì khu vực DNNQD cũng tồn tại nhiều
nhược điểm cần khắc phục ngay trong thời gian tới nhằm phát triển cho xứng
với tiềm năng vốn có của mình. Một trong những biện pháp có thể giúp các
11 Số liệu thống kê DNNQD năm 2007 (website của Tổng cục Thống kê)
DNNQD trong cả ngắn hạn và dài hạn chính là vay vốn từ NHTM. Nhận định
này sẽ được làm rõ trong các phần tiếp theo.
1.2.3. Vai trò của DNNQD Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
DNNQD Việt Nam ngày càng chứng tỏ vai trị quan trọng của mình,
xứng đáng là một trong những động lực của nền kinh tế hiện nay.
1.2.3.1. Tạo thêm nhiều việc làm
DNQD không thể tạo đủ việc làm cho tất cả mọi lao động trong xã hội;
khu vực doanh nghiệp nước ngồi thì khơng phải lao động nào cũng có thể đáp
ứng những yêu cầu về trình độ, kỹ năng do họ đặt ra; do đó các DNNQD trở
thành cứu cánh cho số lao động này. Hơn nữa do tính đa dạng trong loại hình
của DNNQD, tính đa dạng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phạm vi phân bố
rộng, dễ dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình, hay một số cổ đông liên
kết lại dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử
dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động, kinh tế ngoài quốc doanh
là nơi tạo việc làm nhanh nhất, dễ dàng hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước.
Trong giai đoạn 2001-2005, bình quân cả nước tạo việc làm mới cho
người lao động được khoảng 1,5 triệu việc làm/năm. Trong đó, khu vực
DNNQD có đóng góp đáng kể, khoảng 0,3 triệu việc làm/năm.
Bảng 1.1: Cơ cấu lao động hàng năm phân theo thành phần kinh tế 12
Đơn vị: %
Khu vực kinh tế
Kinh tế quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh
Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi
Năm 2004
9,9
88,6
1,5
Năm 2005
9,5
88,9
1,6
Năm 2006
9,2
89,2
1,6
Như vậy, khu vực DNNQD là một trong những khu vực tạo thêm nhiều
việc làm cho người lao động, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
1.2.3.2. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
12 Nguồn: website của Tổng cục Thống kê (www.gso.gov.vn)
Trong những năm qua, khu vực DNNQD đã góp phần quan trọng trong
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lao động,
nhất là cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong từng
vùng, từng ngành, từng lĩnh vực…
Khu vực này là nơi tiếp nhận phần lớn số lao động do sắp xếp lại các
DNQD; góp phần tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu lao động theo hướng tích cực.
Tỷ trọng lao động trong các ngành cơng nghiệp, xây dựng tăng lên, tỷ trọng lao
động làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 68,2% năm 2000
xuống còn 57% năm 2005, tỷ trọng lao động trong các ngành thương mại, dịch
vụ tăng từ 19,7% lên 25%…
1.2.3.3. Tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát triển kinh tế
Cùng với sự lớn mạnh của mình, khối DNNQD đã tạo ra sức ép cạnh
tranh đối với khối DNQD. Tuy nhiên cuộc cạnh tranh này là hồn tồn có lợi.
Nó là động lực quan trọng để các DNQD tiến hành cải cách toàn diện, chấm dứt
sự lệ thuộc vào Nhà nước. Cạnh tranh song không phải là để tiêu diệt lẫn nhau,
cạnh tranh là để đôi bên cùng phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế
chung của cả nước.
DNNQD sẽ là những đối tác tin cậy với các nhà đầu tư nước ngoài, là cầu
nối quan trọng cho sự hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Sự phát triển của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là cơ sở thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong
q trình liên doanh liên kết.
1.2.3.4.
Đóng góp vào GDP, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước
Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, khu vực DNNQD đã đóng góp khoảng
26% GDP, 31% giá trị sản xuất công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% khối
lượng vận chuyển hàng hóa trong giai đoạn 2001-2005. Vốn sử dụng cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh của DNNQD qua các năm cũng liên tục tăng. Nếu
năm 2000 là 98.348 tỷ đồng thì năm 2006 là 150.500 tỷ đồng (gấp 2,37 lần mức
đầu tư của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 37,7% trên tổng
vốn đầu tư toàn xã hội). Và đồng thời khu vực này tạo ra 45,66% GDP của cả
nước.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngồi quốc doanh góp phần hồn thiện
một cơ cấu kinh tế tối ưu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước và hướng vào
xuất khẩu ra nước ngồi. Nói cách khác, khu vực kinh tế ngồi quốc doanh có
vai trị điều hồ thu nhập đồng thời có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách Nhà
nước để tạo điều kiện cho một nền kinh tế phát triển đồng đều, bền vững.
Bảng 1.2: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước phân theo thành phần kinh tế
theo giá thực tế 13
Đơn vị: %
Khu vực kinh tế
Kinh tế quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh
Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi
1.2.3.5.
Năm 2004
39,1
45,77
15,13
Năm 2005 Năm 2006
38,4
37,32
45,61
45,66
15,99
17,02
Thị trường tiềm năng đối với các ngân hàng
Tăng cường hoạt động tín dùng đối với các DNNQD là mảng kinh doanh
tiềm năng của các NHTM. Cụ thể vì những lý do như sau:
Số doanh nghiệp khu vực DNNQD gia nhập thị trường tăng bình quân
mỗi năm hơn 21,8% và tăng 44,1% về vốn đăng ký 14. Số lượng và năng lực tài
chính khơng ngừng tăng lên này là cơ sở cho những khoản cho vay của NHTM
tăng về cả quy mô và chất lượng.
NHTM sẽ phân tán được rủi ro do số lượng khách hàng DNNQD lớn, quy
mô từng khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên
13 Nguồn: website của Tổng cục Thống kê (www.gso.gov.vn)
14 Niên giám Thống kê năm 2007
việc cho vay các đối tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro của doanh mục cho vay.
Hơn nữa, cho vay với DNNQD, NHTM không phải thực hiện các ưu đãi về lãi
suất nên thu lợi nhuận cao hơn so với cho vay khối DNNN.
Tạo điều kiện để tăng thu dịch vụ ngân hàng do tổng số lượng giao dịch
lớn. Các DNNQD chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có xu hướng
sử dụng trọn gói dịch vụ tại một ngân hàng do đó tạo cơ hội để NHTM nâng cao
và thay đổi dần cơ cấu thu nhập.
Ngân hàng dễ dàng quản lý khoản vay của khách hàng do DNNQD
thường có quy mơ nhỏ, gọn, địa bàn hoạt động hẹp.
Cho vay với DNNQD, NHTM sẽ có điều kiện khai thác tối ưu mạng lưới
chi nhánh rộng khắp trên cả nước. Do các DNNQD có địa bàn hoạt động trải
rộng trên cả nước nên NHTM có thể khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh tại
hầu hết các tỉnh, thành phố. Hơn nữa, thế mạnh của là tài trợ cho các Doanh
nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp – đây cũng là lĩnh vực hoạt
động chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay.
1.2.4. Cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với DNNQD
1.2.4.1.
Nguồn huy động vốn trung và dài hạn của DNNQD hiện nay
Vốn trung và dài hạn dành cho đầu tư mở rộng sản xuất theo chiều rộng
và chiều sâu của các doanh nghiệp được hình thành từ vốn chủ sở hữu và vốn
vay. Vốn tự có của DNNQD chỉ đáp ứng được từ 30% đến 40% nhu cầu. Do
vậy để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư dài hạn thì khối doanh nghiệp này cần có
các biện pháp khơi tăng nguồn vốn vay từ bên ngồi.
Có 03 cách để DNNQD tiếp cận nguồn tài chính là: vay vốn phi chính
thức, huy động vốn thơng qua thị trường chứng khốn và vay từ NHTM
Nguồn tài trợ phi chính thức có ưu điểm là tiện lợi và nhanh chóng đã trở
thành kênh dẫn vốn chủ yếu cho khu vực kinh tế này. Nhiều doanh nghiệp cho
biết, để hoạt động họ thường vay vốn từ các tổ chức tài chính phi chính thức, tư
nhân, bạn bè, họ hàng và bản thân người lao động trong doanh nghiệp. Lãi suất
trung bình của vay phi chính thức thường thấp hơn các khoản vay chính thức
(doanh nghiệp khơng phải trả lãi suất cho khoảng 50% khoản vay này vì đến 2/3
khoản vay từ bạn bè và người thân). Hơn nữa, các khoản vay phi chính thức rất
ít khi phải thế chấp, trong khi 90% các khoản vay chính thức cần phải có tài sản
thế chấp. Tuy nhiên phần lớn các khoản vay lại đều là ngắn hạn, quy mô thấp
(bằng 1/3 khoản vay chính thức) nên khơng phù hợp với nhu cầu đầu tư dài hạn
của doanh nghiệp. Thực tế, nguồn vốn được “chắp vá” này thường không ổn
định nên ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Nguồn tài trợ từ thị trường chứng khốn thì cịn rất nhiều hạn chế do thị
trường chứng khốn ở nước ta mới đang bước đầu phát triển. Mặt khác thì có
tới 3/4 số DNNQD là các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn
- là các đối tượng không được phép phát hành cổ phiếu ra cơng chúng. Hơn nữa,
để có thể phát hành trái phiếu hay cổ phiếu trên thị trường thì các doanh nghiệp
phải đảm bảo những yêu cầu nhất định mà với tình hình thực tế của các
DNNQD thì họ thực sự cịn chưa đủ năng lực pháp lý, năng lực tài chính cũng
như uy tín đối với thị trường này.
Trong bối cảnh hiện nay thì đối với các DNNQD vay vốn trung và dài
hạn từ NHTM vẫn là phương án tối ưu.
1.2.4.2.
Vai trò của vốn vay trung và dài hạn từ NHTM đối với DNNQD
Giúp giải quyết nhu cầu đầu tư dài hạn của DNNQD
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, nhất là trong
thời buổi hội nhập kinh tế tồn cầu hiện nay thì để đảm bảo cho khả năng tồn tại
và phát triển của mình, các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư cả về chiều
rộng và chiều sâu. DNNQD ln có nhu cầu về vốn trung và dài hạn để mua
sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua cơng nghệ,… nhằm thốt
khỏi tình trạng quy mơ nhỏ hẹp, kỹ thuật và cơng nghệ lạc hậu hiện nay. Vốn
vay trung và dài hạn của góp phần đáp ứng nhu cầu này để duy trì quá trình sản
xuất được liên tục và phát triển. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng đối
với các DNNQD trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường.
DNNQD có 03 nguồn để huy động vốn trung và dài hạn là từ thị trường
phi chính thức, từ thị trường chứng khốn và từ NHTM. Tuy nhiên thì việc sử
dụng vốn qua hệ thống NHTM dưới hình thức cho vay trung và dài hạn vẫn là
quan trọng và khả thi nhất.
Khơng làm ảnh hưởng tới quyền kiểm sốt của doanh nghiệp
Việc vay nợ trung và dài hạn từ NHTM giúp chủ doanh nghiệp có thể
kiểm sốt tồn bộ hoạt động của doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp ưa huy
động vốn vay nhằm tránh phát hành cổ phiếu - hình thức huy động vốn sẽ dẫn
đến sự phân chia quyền lợi kiểm soát đối với doanh nghiệp
Tài sản cố định nói chung của doanh nghiệp được tài trợ bằng cách tăng
vốn cổ phần và vay nợ dài hạn. Tuy nhiên việc sử dụng vốn vay trung và dài
hạn tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn việc doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu. Ưu
thế của vốn vay trung và dài hạn so với việc phát hành cổ phiếu thể hiện qua 3
mặt như sau: Thứ nhất, mức lãi suất phải trả cho khoản vay trung và dài hạn
thường nhỏ hơn tỷ lệ lợi tức cổ phần cần thiết để thu hút vốn cổ phần bởi vì các
khoản vay có mức rủi ro thấp hơn. Thứ hai, tiền trả lãi của các món nợ được
khấu trừ vào thuế, trong khi đó tiền chia lợi tức cổ phần thì khơng được khấu
trừ. Thứ ba, dựa vào nguồn vốn trung và dài hạn đi vay, doanh nghiệp sẽ tránh
được sự thiếu tập trung trong biểu quyết vì các chủ nợ khơng có quyền bỏ
phiếu. Ưu thế của vốn vay trung và dài hạn so với trái phiếu là ở tính linh hoạt.
Đối với một số doanh nghiệp xếp hạng cao đủ tiêu chuẩn phát hành trái phiếu
thì trái phiếu phát hành ra cũng phải có thời hạn 20 đến 30
Ưu thế của vốn vay trung dài hạn so với vốn vay ngắn hạn với những dự
án đầu tư.
Doanh nghiệp sử dụng vốn ngắn hạn cho nhu cầu trung và dài hạn thì kéo
theo tình trạng phải thường xuyên tái tài trợ với những tỷ lệ lãi suất có thể dao
động lớn. Thêm vào đó, nếu nợ ngắn hạn sử dụng tài trợ cho đầu tư dài hạn sẽ
tạo ra thêm một số yếu tố rủi ro, nhất là khả năng cung cấp vốn cho đầu tư của
doanh nghiệp bị phụ thuộc vào khả năng thu hút các khoản nợ ngắn hạn được
gia hạn thường xuyên. Vào những thời điểm gặp khó khăn tạm thời, doanh
nghiệp sẽ phải đối mặt với sự gia tăng đột ngột của các chi phí tín dụng ngắn
hạn, hay một sự từ chối gia hạn toàn bộ nợ ngắn hạn từ ngân hàng đều sẽ đẩy
doanh nghiệp vào tình trạng khơng trả được nợ. Vì vậy vay vốn trung và dài hạn
từ NHTM không những đảm bảo nguyên tắc: tài sản ngắn hạn được tài trợ bởi
nguồn vốn ngắn hạn, tài sản dài hạn được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn mà còn
mang lại hiệu quả hoạt động cao hơn cho dự án.
Công cụ vay linh hoạt
Vốn vay trung và dài hạn cịn có ưu thế so với cổ phiếu và trái phiếu là ở
tính linh hoạt của nó. Đối với một số DNNQD xếp hạng cao đủ tiêu chuẩn phát
hành trái phiếu thì trái phiếu phát hành ra cũng phải có thời hạn 20 đến 30 năm.
Trong suốt thời gian này, doanh nghiệp sẽ phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu
ngay cả khi việc sử dụng vốn gặp khó khăn hay khơng cần sử dụng vốn nữa.
Trái lại, với vốn vay trung và dài hạn từ NHTM, khi có cơ hội kinh doanh, cần
mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp tiến hành vay; khi cơ hội khơng cịn vốn có
thể được hồn trả lại cho ngân hàng nhanh chóng. Hơn nữa doanh nghiệp vay
vốn trung và dài hạn có thể chủ động điều chỉnh kỳ hạn nợ. Tức là khi khơng
cịn cần vốn nữa họ có thể trả nợ sớm thời hạn tín dụng đã ký kết với NHTM.
Việc trả nợ vay trung và dài hạn cũng được ấn định theo sự phân chia ổn
định và hợp lý được doanh nghiệp và NHTM thoả thuận cụ thể trong hợp đồng
vì vậy mà các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các khoản trả nợ một
cách dễ dàng.
Có cơ hội sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác
Do tính chất đặc thù, hệ thống NHTM là một hệ thống kinh doanh tiền tệ
nên có nhiều kinh nghiệm trong nắm bắt thị trường, có kinh nghiệm thẩm định
các dự án, cơng trình đầu tư. Vì thế NHTM sẽ đảm bảo hiệu quả quản lý vĩ mô
về mặt tốc độ và cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp
thông qua việc soạn thảo giúp doanh nghiệp các dự án đầu tư, tư vấn cho doanh
nghiệp về đầu tư, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, giúp đỡ trong quan hệ
thanh tốn…
Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của dự án
Vay vốn trung và dài hạn từ NHTM khơng chỉ có nghĩa là doanh nghiệp
sẽ có vốn cho dự án đầu tư mà cịn có nghĩa là doanh nghiệp phải chịu sự kiểm
tra, kiểm soát của ngân hàng trước, trong và cả sau khi cho vay. Sự giám sát của
ngân hàng là để đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích, qua đó ngân
hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp. Sức
ép về việc phải hồn trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng cũng là động lực
để doanh nghiệp phải thực hiện dự án đúng tiến độ nhằm đảm bảo uy tín với
ngân hàng cho những món vay tiếp theo.
Tác động tới chế độ hạch toán kinh tế của các DNNQD
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đều khơng thực
hiện chế độ báo cáo thống kê, kế tốn theo pháp lệnh hiện hành. Điều này
khơng những gây khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng mà còn cả với hoạt
động của các DNNQD. Thơng qua quan hệ tín dụng ngân hàng, các cán bộ tín
dụng sẽ cố gắng vừa kiểm tra, kiểm soát buộc các doanh nghiệp phải thực hiện
đúng chế độ hạch toán kinh tế vừa hỗ trợ hướng dẫn các DNNQD xây dựng các
báo cáo tài chính. Một mặt, cơng việc này giúp đỡ cho q trình hạch tốn kế
tốn của doanh nghiệp, mặt khác nó cũng giúp cho ngân hàng có được những
thơng tin chính xác về doanh nghiệp mà mình cho vay, hạn chế được rủi ro tín dụng.
Như vậy, với những ưu điểm kể trên có thể khẳng định rằng vốn vay
trung và dài hạn từ NHTM là trợ thủ đắc lực cho DNNQD thoả mãn các cơ hội
kinh doanh của mình.
1.2.4.3. Tình hình hoạt động vay trung và dài hạn của NHTM với DNNQD
hiện nay
Trong một thời gian dài các NHTM không cho vay dài hạn, thậm chí
cũng khơng cho vay trung hạn. NHTM đã bỏ hẳn mảng này, để cho ngân hàng
phát triển tự do hoạt động. Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, lĩnh vực
các nghiệp vụ cho vay dài hạn mới được NHTM tiến hành từng bước một. Tính
đến cuối năm 2004, dư nợ cho vay trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng
chiếm gần 40% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Số vốn này chủ yếu được dùng
để đầu tư cho các cơng trình, dự án quan trọng của Nhà nước. Phần còn lại mới
được các NHTM cho vay các dự án đầu tư chiều sâu, xây dựng mới các cơ sở
sản xuất kinh doanh, đổi mới dây chuyền công nghệ... của doanh nghiệp.
NHTM chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng do đó mà tỷ
trọng cho vay trung và dài hạn tại đây thường thấp. Cho vay trung và dài hạn
thường có tỷ trọng thấp là do rủi ro cao hơn, kém thanh khoản, nguồn vốn đắt
và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới tỷ lệ này như kỳ hạn và tính
ổn định của nguồn vốn, khả năng và công cụ quản lý rủi ro thanh khoản của
ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn …
Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM vốn đã hẹp thì lại càng bị
bó hẹp hơn với nhu cầu vay của các DNNQD. Các DNNQD muốn vay vốn
ngân hàng khơng phải là chuyện dễ. Ngun nhân chính của tình trạng này là từ
chính bản thân doanh nghiệp vì vốn chủ sở hữu rất thấp, ít có tài sản thế chấp,
cầm cố, khơng có người bảo lãnh; khơng lập được phương án sản xuất, kinh
doanh có đủ sức thuyết phục; trình độ quản lý hạn chế, báo cáo tài chính khơng
đủ độ tin cậy đối với người cho vay... Thêm nữa, các DNNQD cịn phản ánh
tình trạng ngân hàng quá “cầu toàn” trong việc xác định tài sản thế chấp và chặt
chẽ các thủ tục nhằm tránh rủi ro xảy ra. Và khơng ít doanh nghiệp cịn bức xúc
về trình độ nghiệp vụ ngân hàng trong thẩm định các dự án của doanh nghiệp
khiến nhiều dự án không thể vay được vốn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ
các quy định pháp lý đảm bảo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta có thể
tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính
bên ngồi một cách rộng rãi và ổn định hơn. Mặc dù các văn bản khơng có sự
phân biệt lớn và trong nhiều trường hợp còn khuyến khích cho vay với
DNNQD, nhưng vẫn cịn đâu đó thái độ phân biệt đối xử của NHTM với
DNNQD. Không thể phủ nhận là DNQD không trả nợ đúng hạn thì tiền vẫn
nằm trong tay Nhà nước, và DNQD luôn nhận được sự bao cấp của Nhà nước
do đó khả năng vỡ nợ là rất thấp. Chính vì thế rủi ro cho vay với DNQD là thấp
hơn nhưng khơng phải vì thế mà ưu đãi, gia tăng cho vay dù khu vực DNQD
phát sinh nhiều khoản nợ xấu trong khi vốn cung cấp cho DNNQD còn rất hạn
hẹp
Kết quả một cuộc điều tra hơn 2.800 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại 10 tỉnh,
thành phố do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Tổ
chức Danila (Đan Mạch) cuối năm 2007 cho thấy tình trạng phổ biến là có
khoảng 35-45% đoanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường xuyên từ
NHTM nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị từ chối 15. Số doanh nghiệp cịn lại
cũng có nhu cầu vay khơng thường xun, nhưng một số cũng gặp trở ngại
trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên mức 26,5%.
Ngồi ra, số doanh nghiệp thuộc nhóm khơng nộp hồ sơ vay vốn NHTM cũng
là do gặp trở ngại như thiếu tài sản thế chấp thích hợp, nhận thức q trình vay
vốn q khó khăn hoặc do tỷ lệ lãi suất quá cao.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển cho vay trung và dài hạn của
NHTM đối với DNNQD
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
1.3.1.1. Mơi trường tự nhiên, kinh tế - chính trị - xã hội
Mơi trường tự nhiên, kinh tế - chính trị - xã hội ổn định là điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của cho vay. Vì sự ổn định của các loại thị trường là điều
kiện quan trọng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
bình thường. Theo đó, cho vay nói chung và cho vay trung dài hạn mới có điều
kiện mở rộng và nâng cao.
15 Nguồn: website của Báo kinh tế hợp tác Việt Nam (www.baokinhteht.com.vn)
Sự vận động mang tính chu kỳ của nền kinh tế như suy thoái, tăng
trưởng, thất nghiệp, khủng hoảng, … ảnh hưởng đến ngân hàng rất lớn. Lạm
phát cao làm lãi suất thực tế giảm không mang lại lợi nhuận như mong đợi cho
ngân hàng hay những biến động về tỷ giá trên thị trường làm các DNNQD bị
thua lỗ giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng.
1.3.1.2.
Môi trường pháp lý
Mơi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính
hồn thiện, thống nhất của các văn bản dưới luật, ý thức chấp hành pháp luật
của các chủ thể khi tham gia quan hệ tín dụng … đều ảnh hưởng tới sự phát
triển của nghiệp vụ cho vay. Một NHTM khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các
quy định về luật pháp của Nhà nước, cũng như của NHQD. Một hệ thống pháp
lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc xây
dựng kế hoạch kinh doanh của mình và phát triển cho vay với nền kinh tế
1.3.1.3.
Chính sách của Chính phủ, và NHNN
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mỗi sự thay đổi chính sách kinh tế
của Chính phủ (chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính
sách thương mại …) đều dẫn đến sự thay đổi trong các hoạt động của nền kinh.
Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các
DNNQD hiện cịn chưa được đối xử hồn tồn bình đẳng trong nền kinh tế. Vì
vậy, sự phát triển của cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD cũng không
tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Một sự thay đổi nhằm khuyến khích cho vay trung và dài hạn đối với các
DNNQD từ NHNN (quy định lãi suất cho vay, tỷ lệ tối đa nguồn ngắn hạn được
sử dụng cho vay trung và dài hạn, …) đều ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển
nghiệp vụ này tại các NHTM.
1.3.1.4.
Nhu cầu vốn trung và dài hạn của DNNQD
Nhu cầu vốn trung và dài hạn của DNNQD cao hay thấp cũng ảnh hưởng
tới sự phát triển cho vay trung và dài hạn của NHTM. Ngay cả khi cung về vốn
trung và dài hạn của ngân hàng dồi dào mà cầu vốn trung và dài hạn của
DNNQD là nhỏ bé thì ngân hàng cũng khơng thể phát triển nghiệp vụ này. Tuy
nhiên thực tế cho thấy cầu về vốn trung và dài hạn của các DNNQD ngày càng
cao. Có thể xem đây chính là cơ sở để cung về vốn trung và dài hạn của NHTM
ngày một phát triển. Để thực hiện CNH-HĐH đất nước, vốn trung và dài hạn là
rất cần thiết để doanh nghiệp đầu tư phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, tạo
sức bật cho nền kinh tế. Do đó, NHTM với chức năng cung ứng vốn chủ yếu
cho nền kinh tế nhất thiết phải làm tốt công tác dự báo nhu cầu vay vốn trung và
dài hạn của các doanh nghiệp để có kế hoạch khai thác, kinh doanh hợp lý.
1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan
1.3.2.1.
Chính sách tín dụng của NHTM
Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp liên quan
đến việc khuyếch trương hay hạn chế tín dụng nhằm đạt được những mục tiêu
cụ thể của ngân hàng trong từng thời kỳ.
Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn tới
sự mở rộng tín dụng nói chung, cho vay trung và dài hạn nói riêng. Nếu chính
sách tín dụng của ngân hàng trong thời kỳ nào đó là hạn chế cho vay trung và
dài hạn thì quy mơ của hoạt động này sẽ bị thu hẹp. Chính sách tín dụng còn
bao gồm một loạt các vấn đề như: quy định về điều kiện, tiêu chuẩn cho vay với
khách hàng; lĩnh vực tài trợ, … cũng có tác động trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt
động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng.
1.3.2.2.
Quy mơ, kỳ hạn và tính ổn định của nguồn
NHTM là các trung gian tài chính trong nền kinh tế thực hiện “đi vay để
cho vay”. Do đó nguồn vốn huy động được có dồi dào và bền vững thì mới đảm
bảo hoạt động cho vay được tiến hành thuận lợi và an tồn. Quy mơ và cơ cấu
nguồn vốn quyết định việc ngân hàng lựa chọn các hình thức đầu tư và cho vay.
Hiện nay, người dân chưa có thói quen gửi tiết kiệm trung và dài hạn,
mặc dù tiền gửi có kỳ hạn chiếm đến 80% vốn huy động, nhưng tiền gửi có kỳ
hạn ngắn (dưới 1 năm) lại chiếm đến 50% vốn huy động 16. Các NHTM hiện đã
có loại hình tiền gửi trung hạn (24, 36 tháng) nhưng chưa thu hút được người
dân. Nguyên nhân là do người dân chưa thực sự tin tưởng để có thể gửi tiền dài
hạn vào hệ thống ngân hàng; sổ tiết kiệm và các loại hình tiền gửi khơng có khả
năng chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp; chênh lệch về lãi suất giữa gửi tiền
dài hạn và ngắn hạn chưa đủ sức hấp dẫn người gửi tiền; những cơn sốt của thị
trường bất động sản đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư dài hạn vào bất động
sản ...
Trong các nguồn huy động của NHTM dùng cho vay trung và dài hạn thì
phù hợp về kỳ hạn nhất và đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng nhất
phải kể đến là nguồn huy động trung và dài hạn. Nguyên tắc cơ bản mà NHTM
luôn phải tuân thủ khi cho vay là “chỉ được phép cho vay trung và dài hạn khi
ngân hàng thực có nguồn vốn trung và dài hạn”. Do đó quy mơ của nguồn huy
động trung dài hạn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển cho vay
trung và dài hạn của ngân hàng.
Bên cạnh đó các nguồn ngắn hạn nếu có tính ổn định cao (tức là người
gửi tiền không rút tiền trước hạn vì bất cứ lý do gì) thì cũng có thể sử dụng để
cho vay trung và dài hạn trong một giới hạn nhất định mà vẫn đảm bảo an tồn.
1.3.2.3.
Cơng tác dự báo rủi ro và giám sát, xử lý các tình huống khi cho vay
trung và dài hạn
Cho vay trung và dài hạn là nghiệp vụ chứa đựng đầy rủi ro cho bất cứ
ngân hàng nào. Do đó cơng tác dự báo và dự phòng rủi ro nếu làm tốt sẽ hạn
chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra. Công tác dự báo bao gồm dự báo về
nguồn huy động, nhu cầu vay của doanh nghiệp, sự biến động của lãi suất trong
dài hạn, dự báo về các rủi ro (rủi ro kinh doanh, rủi ro hoàn trả vốn, rủi ro tài
chính, rủi ro kinh tế vĩ mơ) có thể xảy ra. Làm tốt cơng tác này, ngân hàng sẽ
không rơi vào thế bị động trước những biến động bất thường của thị trường.
16 Nguồn: website của NHCTVN(www.icb.com.vn)
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian dài của các DNNQD luôn
chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn khơng lường trước được. Chính vì thế mà cơng
tác giám sát và xử lý các tình huống sau khi cho vay cũng có ý nghĩa rất quan
trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề: sự tuân thủ đúng
mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp, tình hình thực tế của dự án, tiến độ trả
nợ, … Làm tốt công tác này giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời
những biểu hiện tiêu cực của khách hàng. Đồng thời, thơng qua q trình giám
sát hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng có thể có các biện pháp giúp đỡ kịp
thời (tư vấn, cung cấp thơng tin, vốn) cho các doanh nghiệp gặp khó khăn nhằm
giúp dự án của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, qua đó nâng cao khả năng
trả nợ cho ngân hàng.