Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở trường đại học sư phạm hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.03 KB, 25 trang )

Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của
giáo vụ ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Phạm Hải Hà

Trường Đại học Giáo dục
Luận văn Thạc sĩ ngành: Quản lý giáo dục; Mã số: 60 14 05
Người hướng dẫn: TS. Đinh Thị Kim Thoa
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác giáo vụ dưới góc độ khoa học quản
lý. Phân tích thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ
trường ĐHSP Hà Nội và khoa Giáo dục Mầm non. Đề xuất một số biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động quản lý của giáo vụ đối với hoạt động dạy và học ở trường ĐHSP
Hà Nội.

Keywords: Công tác giáo vụ; Giáo dục đại học; Hoạt động dạy học; Quản lý giáo dục

Content
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công tác giáo vụ là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được trong công tác quản
lý đào tạo của cấp khoa nói riêng và của cấp trường đại học nói chung với nhiệm vụ cơ bản là
quản lý hoạt động giảng dạy và học tập.
Công tác giáo vụ giúp cho các nhà quản lí nắm bắt được chất lượng giáo dục (giảng
dạy, học tập) và tình hình thực hiện chương trình, kế hoạch công tác chuyên môn của đối
tượng quản lý. Trên cơ sở đó, người làm quản lý sẽ có những biện pháp điều chỉnh, định
hướng đối tượng thực hiện đúng nội dung chương trình, kế hoạch, phương pháp giảng dạy
cho phù hợp với thực tiễn, nâng cao hiệu quả đào tạo.
Trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) Hà Nội đã có bề dày 60 năm về hoạt động dạy và


học. Quán triệt tư tưởng của Đảng và Nhà nước về chiến lược phát triển giáo dục đào tạo từ
nay đến 2020, Trường ĐHSP Hà Nội đã nhận thức sâu sắc và kịp thời việc cải tiến, đổi mới
nhiều hoạt động giáo dục. Tuy nhiên, việc đổi mới công tác quản lý giảng dạy và học tập của
nhà trường nói chung, cũng như quản lý dạy và học của giáo vụ mỗi khoa trong trường nói
riêng còn nhiều vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết. Về mặt nhân sự, một số cán bộ lớn
tuổi, trình độ tin học còn hạn chế, không có khả năng khai thác và làm việc với mạng máy

2
tớnh. iu ú ó v ang t ra khụng ớt khú khn trong vic phc v hot ng dy v hc
hin nay. Bờn cnh ú sau nhiu nm quen lm vic vi kiu qun lý sinh viờn hc tp trung
(o to theo niờn ch) khi chuyn sang o to theo tớn ch, nhiu vn mi ny sinh ó
khin cho s cỏn b ln tui ny rt khú theo kp vi yờu cu ca thc tin. Trong thi i
khoa hc k thut ang phỏt trin nh v bóo, khoa hc cụng ngh thụng tin hin i ang
c ng dng khp mi ni v mi lnh vc, yờu cu kh nng t cp nht thụng tin, tớnh
c lp trong vic hoch nh k hoch hc tp ca sinh viờn ngy cng c nõng cao. Thc
t ny ũi hi cỏn b giỏo v phi thụng hiu cỏc phn mm c ng dng trong hot ng
qun lý sinh viờn, qun lý im, lp thi khoỏ biu, khai thỏc thụng tin phc v o to t kho
d liu ca trng. Vic liờn kt o to gia cỏc khoa ca Trng HSP H Ni vi cỏc a
phng ngy cng m rng ỏp ng vn o to liờn thụng, o to theo a ch. Nh
vy cú ngha l s lng cỏc lp s ngy cng tng, vn qun lý giỏo v s ngy cng phc
tp. Nu khụng cú cỏc bin phỏp c th, khoa hc v linh hot thỡ cụng tỏc giỏo v s ht sc
ln xn, khụng m bo tớnh chớnh xỏc v hiu qu. iu ú s dn ti vic dy v hc khụng
m bo cht lng.
Nhn thc c ý ngha ca vn ny chỳng tụi chn ni dung nghiờn cu: Bin
phỏp qun lý hot ng dy v hc ca giỏo v trng i hc S phm H Ni lm
ti lun vn. õy l mt cụng vic cp bỏch nhm nõng cao hiu qu o to trờn nn c s
vt cht cng nh i ng ging viờn v sinh viờn hin cú trong bi cnh mi hin nay.
2. Mục đích nghiên cứu
ti nghiờn cu nhm xut mt s bin phỏp nõng cao hiu qu cụng tỏc qun lý
ca giỏo v trng v khoa i vi hot ng dy v hc.

3. Khách thể và đối t-ợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Cụng tỏc qun lý hot ng dy v hc trng i hc.
3.2. Đối t-ợng nghiên cứu
Cỏc bin phỏp qun lý hot ng dy v hc ca giỏo v trng HSP H Ni.


4. Giả thuyết nghiên cứu
Bin phỏp qun lý hot ng dy v hc ca giỏo v cú mi quan h cht ch vi hiu qu
cht lng cụng tỏc qun lý núi riờng v cht lng o to núi chung. Nu xut c mt
s bin phỏp qun lý ca giỏo v c th nh: Lp k hoch o to, bi dng cỏn b qun lý
cỏn b giỏo v ca trng, khoa; Tng cng s dng cụng ngh thụng tin trong qun lý hot

3
động dạy và học của giáo vụ; Tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy và học; Quản lý
và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất thì sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý
hoạt động dạy và học của giáo vụ ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Phạm vi nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ dành cho hệ cử nhân chính quy
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và khoa Giáo dục mầm non.
- Điều tra thực trạng quản lý của giáo vụ từ năm 2007 đến năm 2009.
- Một số nội dung quản lý chủ yếu và một số biện pháp.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về công tác giáo vụ dưới góc độ khoa học quản lí.
6.2. Phân tích thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ trường
ĐHSP Hà Nội và khoa GDMN.
6.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của giáo vụ đối với hoạt
động dạy và học ở trường ĐHSP Hà Nội.
7. Ph-¬ng ph¸p nghiªn cøu
Sử dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:

7.1. Nhóm phương pháp lý luận: So sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống hoá lý
luận liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp thực tiễn
7.2.1. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của công tác giáo
vụ của trường ĐHSP Hà Nội và khoa GDMN để rút ra những kết luận (cả về lí luận và thực
tiễn) làm cơ sở cho việc đề xuất một số biện pháp cải tiến công tác này.
7.2.3. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia về công tác quản lí và công tác
giáo vụ để thu thập thông tin xử lí kết quả.
7.2.4. Phương pháp điều tra: Điều tra cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy, sinh viên (khoa,
trường) để thu thập thông tin giúp đề ra một số biện pháp cải tiến hữu hiệu công tác quản lý
của giáo vụ.
7.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý thông tin thu thập được.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, bản luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý hoạt động dạy và học của trường Đại học.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở Trường ĐHSP Hà Nội.

4
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của giáo vụ ở Trường ĐHSP Hà Nội













Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY VÀ HỌC Ở TRƢỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề quản lý Nhà nước về quá trình đào tạo đại học đều được các nước nói chung và
Việt Nam nói riêng quan tâm thích đáng; nó được thể hiện trên các mặt: ban hành hệ thống
văn bản pháp luật, quản lý các nội dung cụ thể như quản lý mục tiêu, chương trình, nội dung
đào tạo, quản lý quá trình dạy – học, quản lý thi, kiểm tra và cấp bằng, kiểm tra, thanh tra đào
tạo, khen thưởng, kỷ luật. Hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo đều tổ chức họp các trường đại
học, cao đẳng trong cả nước để bàn về các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại học và
cao đẳng. Có rất nhiều bài tham luận, bài viết của các nhà quản lý, của các nhà nghiên cứu và
của các giảng viên – người tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo đề cập đến vấn đề này.
Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, họ liên tục đổi mới tư duy về giáo dục - đào tạo,
thường xuyên cải tiến chương trình, nội dung đào tạo và theo đó là cách tạo ra các nguồn lực
tương ứng để đáp ứng mục tiêu đào tạo đại học. Chính nguồn nhân lực với kiến thức, kỹ năng
đầy đủ này lại góp phần thúc đẩy nền kinh tế – xã hội của các nước ngày càng phát triển
nhanh chóng. Trong những năm gần đây, kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao
của Mỹ, Anh, các nước phương Tây, CHLB Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singgapo, Trung
Quốc, làm chúng ta phải suy nghĩ và học tập. Họ có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, có
chương trình đào tạo được đổi mới thường xuyên và quản lý tốt quá trình đào tạo để tạo
nguồn nhân lực biết làm việc, thích ứng trong thế giới đa cực hoá và toàn cầu hoá hiện nay.

5
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, Bộ GD & ĐT, các Viện và các Trường đã có nhiều đề tài
nghiên cứu, nhiều hội thảo, nhiều ý kiến chuyên gia về vấn đề quản lý Giáo dục- Đào tạo nói
chung và chủ yếu đề cập đến những vấn đề lớn như:

Thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến hoạt động tổ chức và quản lý
Giáo dục- Đào tạo ở cấp vĩ mô, có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu như:
- “Tổ chức quản lý quá trình giáo dục - đào tạo” của nhà nghiên cứu Nguyễn Minh
Đường Hà Nội, 1996. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, đề cập đến những khía
cạnh cơ bản của hoạt động tổ chức quản lý Giáo dục- Đào tạo của nước ta qua các giai đoạn
lịch sử, đặc biệt là từ khi đất ta tiến hành đổi mới từ năm 1986 đến nay.
- Tác giả Phan Văn Kha với công trình nghiên cứu: “Quản lý nhà nước về giáo dục
đào tạo” Hà Nội, 1999 đã nêu bật được những vấn đề liên quan đến vai trò của các cấp chính
quyền, hệ thống văn bản pháp luật, các quy định của các cấp đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng của công tác GD& ĐT của nước ta hiện nay.
- Liên quan đến việc nghiên cứu về công tác quản lý quá trình triển khai các hoạt
động GD & ĐT có công trình “Quản lý quá trình giáo dục đào tạo” của Nguyễn Đức Trí, Hà
Nội, 1999. Tác giả đã đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc quản lý
giáo dục và đào tạo ở các bậc học.
Thứ hai là nhóm gồm một số đề tài nghiên cứu của các luận văn Thạc sĩ quản lý giáo
dục, đề cập đến nội dung quản lý hoạt động dạy học của giáo viên và quản lý hoạt động học
của học sinh trong trường như:
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường Đại học Công nghiệp HN”
Nguyễn Thị Minh, 2006.
- “Những biện pháp quản lý hoạt động dạy học của Trung tâm giáo dục từ xa trường
ĐHSP Hà Nội. Phùng Thị Lệ Hằng, 2007.
- “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở trường Trung học điện tử điện lạnh
Hà Nội.” Vũ Quốc Dũng, 1999.
- “Các biện pháp quản lý dạy học của Học viện Kỹ thuật quân sự theo hướng phát
huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học viên.” Trương Hữu Thông. Hà Nội, 1999.
- “Một số giải pháp tăng cường quản lý quá trình dạy - học trong trường trung học
kinh tế - kỹ thuật tỉnh Kiên Giang”. Nguyễn Văn Lâu. TP Hồ Chí Minh, 2000.
- “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường cao đẳng kinh tế tài
chính Thái Nguyên.” Phạm Trí Cường. Hà Nội, 2004.
- “Một số biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học của Khoa tự nhiên,

trường Cao đẳng sư phạm Quảng Ninh”. Võ Tiến Quang. Hà Nội, 2004.

6
- “Một số biện pháp cải tiến công tác giáo vụ ở khoa Sư phạm kỹ thuật trường ĐHSP
Hà Nội”. Nguyễn Thị Tự, 1999
Như vậy, việc nghiên cứu, đánh giá hoạt động dạy và học trong trường Đại học nói
chung và Trường ĐHSP nói riêng thông qua công tác giáo vụ thì hoàn toàn chưa được đề cập
đến. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu kể trên cũng là cơ sở, điều kiện để chúng tôi tiếp
tục nghiên cứu đề tài của mình.
1.2. Một số vấn đề lý luận về Quản lý
1.2.1. Khái niệm Quản lý
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội.
Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng
đã trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại
đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Nó là
một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Ở mỗi góc độ tiếp cận và hoạt
động, người ta có thể đưa ra một quan niệm và quản lý khác nhau.
Các Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ
thể khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự
điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [27].
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ phân công lao động của xã hội loài người nhằm đạt
mục đích, hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn. Đó chính là hoạt động giúp con người đứng
đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt mục
tiêu đề ra.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình xây dựng lý
luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận đưa ra, nó thường phụ thuộc vào
lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người. Chẳng hạn:
- Theo quan điểm triết học, quản lý được xem như một quá trình liên kết thống nhất

giữa chủ quan và khách quan để đạt mục tiêu đề ra.
- Theo quan điểm kinh tế học, nhà kinh tế học người Mỹ- Frederic Wiliam Taylor
(1856- 1915) cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm
cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất” [44].
Với nhà lý luận quản lý kinh tế Pháp A.Fayon (1841- 1925) thì: “Quản lý là đưa xí
nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật, lực) của nó” [20].

7
- Dưới góc độ điều khiển học, A.I.Beng cho rằng: “Quản lý là quá trình chuyển một hệ
động lực phức tạp từ trạng thái này sang trạng thái khác nhờ sự tác động vào các phần tử biến
thiên của nó [41].
- Nhà toán học A.N.Kolmogorov cho rằng: Quản lý là quá trình gia công thông tin
thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy móc hay cơ thể sống [40].
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Hersay và Ken Blanc
Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: “Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa
nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy
động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức [24].
- Theo quan điểm của hệ thống thế giới quan Mác-Lênin cho rằng: “Toàn bộ thế giới
vật chất đang tồn tại, mọi sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể, một hệ thống. Trong công tác
điều hành xã hội thì quản lý cũng vật, cũng là hệ thống. Theo quan điểm này thì quản lý một
đơn vị với tư cách là hệ thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào
từng thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong
điều kiện biến đổi của môi trường”.
- Quan niệm về quản lý của một số nhà khoa học Việt Nam
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá
trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định” [24].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo “Quản lý là quá trình tác động liên tục có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý ( S-O) về các mặt chính trị, xã hội,
kinh tế, văn hoá bằng một hệ thống các nguyên tắc pháp luật, chính sách, phương pháp và giải
pháp quản lý tạo ra những điều kiện cho sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín [12].

Tác giả Hồ Văn Vĩnh cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra” [42].
Theo quan điểm của Nguyễn Quang Toản- Trung tâm quản lý chất lượng quốc tế
(IQC) thì: Quản lý là các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một tổ chức
trong việc đạt mục đích đề ra [41].
Theo tác giả Nguyễn Đức Trí: “Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có
chủ đích), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về
tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho
nó phát triển tới mục tiêu đã định [40].
Nhìn chung các tác giả đã nêu quan niệm của mình về quản lý với những cách tiếp cận
khác nhau nhưng từ những quan niệm đó có thể thấy rõ được nội hàm khái niệm quản lý như
sau:

8
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động.
- Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý quan hệ với nhau
bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý chính là những quyết định quản lý, là
những nội dung và chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối tượng quản lý.
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội. Lao
động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành.
- Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác lập rằng
quản lý phải có một cấu trúc và vận động trong một môi trường xác định.
Hoạt động “quản lý” bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của con người và toàn
xã hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng sự vận động và phát triển của đối tượng
cần quản lý theo một mục đích nhất định. Khái niệm đó phải bao quản được tất cả mọi hoạt
động của con người. Đồng thời khái niệm “quản lý” cũng như bất kỳ một khái niệm nào khác
cũng phải xây dựng theo những quy tắc khái niệm và không phạm phải sai lầm có thể có khi
khái niệm sẽ thuộc loại khái niệm chính xác.
Trong các quan điểm về quản lý đã nêu trên chúng ta nhận thấy hầu như các quan điểm
đó chưa bao quát được mọi hoạt động của con người. Có định nghĩa chưa nêu được khuynh

hướng vận động của đối tượng quản lý theo mục đích hoạt động của con người. Để tài của
chúng tôi sử dụng quan niệm của Nguyễn Đức Trí về “quản lý” nêu trên:
Quản lý là một quá trình tác động có định hƣớng (có chủ đích), có tổ chức, có lựa
chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng và môi trƣờng,
nhằm giữ cho sự vận hành của đối tƣợng đƣợc ổn định và làm cho nó phát triển tới mục
tiêu đã định [40].
1.2.2. Chức năng của quản lý
Thứ nhất, chức năng kế hoạch hoá
Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý hàng đầu đương đại đã đề xuất
tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những việc “đúng”) và tính hiệu quả (tức
là khả năng làm đúng việc). Ông cho rằng tính hiệu nghiệm là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể
đạt được hiệu quả khi chọn sai mục tiêu. Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh
của kế hoạch: xác định những mục tiêu “đúng” và lựa chọn những giải pháp “đúng” để đạt
các mục tiêu này. Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình quản lý.
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng ta có thể định
nghĩa như sau: Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những
giải pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực chất của kế hoạch hoá là đưa toàn

9
bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hoá với mục đích, giải pháp rõ ràng, bước đi cụ
thể và ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Nhiều lý thuyết quản gia cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của mọi hoạt động,
mọi chức năng quản lý khác. Họ ví kế hoạch như một chiếc đầu tầu kéo theo các toa “tổ
chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, người quản lý, nếu không có kế hoạch thì không biết
phải tổ chức nhân lực và các nguồn nhân lực khác như thế nào, thậm chí học còn không rõ
phải tổ chức cái gì nữa. Không có kế hoạch, người quản lý không thể chỉ dẫn, lãnh đạo người
thuộc quyền hành động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết quả mong đạt tới.
Cũng vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác định được tổ chức hướng tới đúng hay
chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục tiêu và sự kiểm tra trở thành vô căn cứ.
Kế hoạch hoá là một chức năng quan trọng của quá trình quản lý vì trên cơ sở phân

tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã có và những khả năng sẽ có mà xác
định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động, các giải pháp cần thiếu để chỉ rõ trạng thái
mong muốn của đối tượng khi kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy
với bản thân nó có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chuẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và những phân tích về
trạng thái đó
Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu để suy ra những hướng
phát triển cơ bản, trong đó có tính tới nhu cầu bên ngoài và bên trong. Lựa chọn những hướng
ưu tiên, dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phát hiện các phương án chọn lựa có tính đến tiềm năng
của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
Thứ hai, chức năng tổ chức
Bamard định nghĩa tổ chức như là “hệ thống các hoạt động hay tác động có ý thức của
hai hay nhiều người”. Cuốn “Cơ sở khoa học của quản lý” đã xác định: “Tổ chức là hoạt động
hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các hệ
thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp hành) [12].
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho phép các cá nhân
góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý, đúng như
V.I.Lê-Nin đã khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng muốn quản lý tốt – còn phải biết tổ chức
về mặt thực tiễn nữa”. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con
người, giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ
chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
Thứ ba, chức năng chỉ đạo

10
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và thái độ của
những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể hiện quá trình ảnh hưởng qua
lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hoá các
mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực của

nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người
và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó do họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
Thứ tư, chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những giải pháp tốt nhất để đạt tới các mục
tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để hiện thực hoá các mục tiêu đó cần phải
tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét việc triển khai các quyết định trong thực tiễn,
từ đó có những điều chỉnh cần thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác
định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý như: Đổi
mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đối với cơ chế quản lý,
phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã hình thành nên
các chức năng quản lý. Đó là chức năng kế hoạch hoá, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo
và chức năng kiểm tra.
Qua phân tích các chức năng quản lý, chúng ta thấy rằng các chức năng này có mối
quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau tạo thành một thể thống nhất
của hoạt động quản lý. Mối quan hệ đó, chúng tôi thể hiện ở sơ đồ sau đây:


1.3. Một số vấn đề lý luận về quản lý giáo dục
Kế hoạ ch
hoá

Kiể m tra

Chỉ đạo

Tổ chức

11

1.3.1. Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách
hiệu quả nhất. Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là một hoạt động điều hành, phối hợp
giữa các lực lượng trong xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát
triển ngày càng cao của xã hội.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy học. Có tổ chức
được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam
xã hội chủ nghĩa mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối của Đảng và biến
đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [23].
Theo Nguyễn Quang Học, quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học.
Có thể nói rằng quản lý giáo dục chứa đựng những đặc trưng sau:
- Chủ thể quản lý ở tầm vĩ mô: Là quản lý của nhà nước mà cơ quan quản lý trực tiếp
là Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục.
- Chủ thể quản lý ở tầm vi mô: Là quản lý của Hiệu trưởng các trường dưới Hiệu
trưởng là các Chủ nhiệm khoa, Trưởng các phòng ban, Giám đốc các trung tâm, Viện trưởng
các viện nghiên cứu.
Quản lý giáo dục có tính chất xã hội cao bởi vì luôn luôn trong nó cần phải được tập
trung giải quyết các vấn đề có tính thời sự như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh
quốc phòng để phục vụ tốt cho công tác giáo dục.
- Khách thể quản lý giáo dục là đội ngũ giáo viên, sinh viên và học viên, có thể nói
trong giáo dục và đào tạo thì đây là đối tượng khách thể quan trọng nhất nhưng đồng thời ở
một lĩnh vực nào đó đội ngũ này cũng là chủ thể quản lý trực tiếp quản lý quá trình giáo dục.
Khách thể quản lý là những con người cụ thể, trong họ có rất nhiều mối quan hệ đan xen,
phức tạp, đa dạng mà người quản lý phải đối phó, xử lý khi thực hiện chức năng quản lý của
mình. Vì vậy người quản lý phải biết biến các mối quan hệ trên trở thành các yếu tố tích cực
tạo nên môi trường thuận lợi nhất để hướng tới hoàn thành mục tiêu chung.

Như vậy quản lý giáo dục là sự tác động có định hướng, có mục đích vào khách thể
quản lý. Đó là việc tổ chức, định hướng và duy trì các hoạt động giáo dục nhằm làm cho bộ
máy, cho cá nhân và tổ chức các cán bộ giảng viên và tập thể nhà trường, sinh viên và cả cộng
đồng xã hội thực hiện đầy đủ đúng đắn những đường lối, chủ trương và quan điểm giáo dục

12
của Đảng. Với phương pháp quản lý nghệ thuật, người quản lý giáo dục phải biết tổ chức các
hoạt động giáo dục đi đến mục đích bằng nhiều cách, ứng xử các tình huống trong quản lý
giáo dục một cách linh hoạt mau lẹ và tinh tế, biết tìm ra phương án tối ưu, biết cách huy động
mọi lực lượng cả về vật chất và tinh thần.
Quản lý giáo dục là một hoạt động khó khăn, phức tạp bởi vì sản phẩm giáo dục là
“con người”. Do vậy người cán bộ quản lý giáo dục cần phải có nhân cách quản lý vì con
người, cho con người và xuất phát từ con người. Quản lý giáo dục trong giai đoạn cách mạng
hiện nay, khi mà đất nước chúng ta đang tiến hành tiến trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Khái quát về vấn đề quản lý giáo dục Khuđôninski, trong cuốn “Quản lý giáo dục
quốc dân ở địa bàn huyện, quận” đã viết: “Quản lý khoa học hệ thống giáo dục có thể xác
định nhƣ là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hƣớng đích của chủ thể quản
lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến các Trƣờng, các
cơ sở giáo dục khác ) nhằm mục đích bảo đảm việc giáo dục- Xã hội chủ nghĩa cho thể
hệ trẻ, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của quá trình giáo dục,
của sự phát triển thể lực và tâm lý của trẻ em, thiếu niên và thanh niên”.
1.3.2 Quản lý nhà trường
Nhà trường là đối tượng cơ bản nhất của quản lý giáo dục trong đó đội ngũ giáo viên
và sinh viên là đối tượng quản lý và cũng là chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục. Thực
chất của quản lý giáo dục xét cho cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của nhà
trường được vận hành theo đúng mục tiêu. Trường học là những tế bào quan trọng của hệ
thống giáo dục, mà những tế bào này hoạt động có tốt thì hệ thống giáo dục mới thực hiện
được đúng mục tiêu mà xã hội giao phó.
Vì vậy quản lý nhà trường có thể coi như một bộ phận không thể thiếu của quản lý
giáo dục.

Quản lý nhà trường là quá trình thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi
quyển hạn và trách nhiệm của mình tức là phải đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo
dục để tiến tới mục tiêu giáo dục.
Quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong một phạm vi xác định của
một đơn vị giáo dục nền tảng đó là nhà trường. Vì thế quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả
các nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động củ nhà trường theo
mục tiêu đào tạo.
Tóm lại bản chất của quản lý nhà trường là quản lý mọi hoạt động dạy và hoạt động
học làm sao để đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới
mục tiêu giáo dục. Một nhà trường có tổ chức dạy và học tốt là nhà trường đã cụ thể hóa được

13
đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam thành hiện thực, đáp ứng được nhu
cầu học tập suốt đời của nhân dân. Tạo mọi điều kiện để mọi người dân đều được đến trường,
đều có cơ hội học tập như nhau, học tập suốt đời.
Ở đây chúng tôi lấy định nghĩa về quản lý nhà trường của tác giả Phạm Viết Vượng:
“Quản lý trường học là lao động của các cơ quan quản lý, nhằm tập hợp và tổ chức các lao
động của giáo viên, học sinh sinh viên và các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối
đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.
Quản lý nhà trường về cơ bản khác với quản lý ở các lĩnh vực khác, vì ở đây những
tác động của chủ thể quản lý là những tác động của công tác tổ chức sư phạm đến đối tượng
quản lý nhằm giải quyết những nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Đó là một hệ thống có tác
động, có phương hướng, có mục đích, có kế hoạch, có mối quan hệ qua lại lẫn nhau, phụ
thuộc vào nhau.
1.3.3. Quản lý hoạt động dạy và học
* Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho
người học lĩnh hội những tri thức khoa học, kỹ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát
triển các năng lực hoạt động sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất
nhân cách của người học theo mục tiêu giáo dục.
* Hoạt động dạy học: là hoạt động mà trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển, lãnh đạo

của người dạy làm cho người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
động nhận thức - học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
Trong nhà trường, hoạt động dạy học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. (Điều 2 Luật Giáo dục 2005) [31].
Hoạt động dạy học chiếm hầu hết thời gian trong các hoạt động giáo dục, nó chi phối
các hoạt động khác trong nhà trường. Trong hoạt động dạy học thầy và trò là hai yếu tố chính,
ngoài ra những yếu tố khác như cơ sở vật chất của nhà trường, thông tin phục vụ dạy học và
các lực lượng xã hội trong và ngoài trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động dạy học.
Muốn hoạt động dạy học đạt hiệu quả phải tác động quản lý đến tất cả các yếu tố trên.
Vậy quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của cán bộ quản lý tới các yếu tố tác động đến hoạt động dạy
học nhằm làm cho quá trình dạy học vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện

14
được mục tiêu đào tạo đặt ra cho nhà trường. Chính vì vậy, khi nói đến quản lý hoạt động dạy
và học, người ta thường nói ngay tới các biện pháp quản lý hoạt động đó như thế nào.
Theo định nghĩa triết học ngắn gọn thì: “Biện pháp là con đường chuyển tải nội dung”.
Như vậy, nội dung là thành tố có trước chi phối quyết định việc lựa chọn biện pháp.
Theo từ điển tiếng Việt của Minh Tâm (Nxb TH 1998) thì biện pháp là cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể.
Theo từ điển học sinh (Nxb GD 1971): Biện pháp là cách làm, cách giải quyết cụ thể
một vấn đề căn cứ vào những phương pháp nào đó.
Như vậy, khái niệm biện pháp có thể được hiểu một cách khái quát là cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể có căn cứ vào phương pháp để đạt được mục tiêu đã xác định.
Biện pháp có quan hệ chặt chẽ với phương pháp. Phương pháp thường mang tính định hướng,
biện pháp thường có tính cụ thể, song cũng có nhiều trường hợp người ta vận dụng khái niệm
phương pháp và biện pháp cùng một nghĩa.

Biện pháp quản lý chính là cách làm cụ thể của chủ thể quản lý tác động tới đối tượng
quản lý theo một phương pháp nhất định, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
Hiệu quả của công tác quản lý phụ thuộc vào tác dụng của các biện pháp quản lý đã
được áp dụng. Nếu chủ thể quản lý lựa chọn được các biện pháp quản lý đúng đắn, áp dụng
linh hoạt, đúng thời điểm, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của thực tế thì các biện pháp đó
sẽ phát huy tác dụng, công tác quản lý sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại.
Thực tiễn cho thấy, đối tượng quản lý luôn thay đổi và chứa đựng nhiều yếu tố phức
tạp, nên đòi hỏi các biện pháp quản lý cũng phải linh hoạt, đa dạng. Để thực hiện một mục
tiêu trong công tác quản lý ta phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp quản lý, các biện pháp
quản lý thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống các biện pháp.
Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học được hiểu là cách tác động của chủ thể quản
lý giáo dục tới đội ngũ cán bộ, giáo viên, sinh viên và các điều kiện về tài chính, cơ sở vật
chất nhằm đạt mục tiêu của nhà quản lý đã đề ra.
Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học bao gồm: việc xây dựng kế hoạch dạy học, tổ
chức, sắp xếp, sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực), chỉ đạo, kiểm tra, điều chỉnh các
hoạt động dạy và hoạt động học cụ thể, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Có đầy đủ các biện pháp quản lý hoạt động dạy học một cách khoa học, áp dụng đồng
bộ, linh hoạt sẽ mang lại hiệu quả của hoạt động quản lý, góp phần nâng cao chất lượng dạy
học.
1.3.4. Quản lý hoạt động dạy và học trong trường Đại học

15
Khái niệm: Quản lý Dạy- Học trong trường Đại học là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho quá trình dạy học
vận hành theo đường lối của Nhà nước, thực hiện được những yêu cầu của nền giáo dục
xã hội trong việc đào tạo con người theo mẫu người của thời đại, tập trung vào hoạt động
dạy - học, đưa hệ thống từ trạng thái ban đầu đến mục tiêu.
Để xây dựng công tác quản lý các hoạt động dạy và học nói chung và công tác quản lý
hoạt động dạy và học trong các trường Đại học nói riêng cần làm rõ những vấn đề sau:
- Đối tượng quản lý (quản lý ai, quản lý cái gì, quản lý hoạt động nào?)

- Mục tiêu và yêu cầu của quản lý (nhằm đạt được kết quả gì, chất lượng như thế
nào?)
- Nội dung quản lý là quản lý những yếu tố nào của đối tượng?
- Hệ thống tổ chức quản lý (quản lý dựa trên những tổ chức nào, cá nhân nào, chức
danh nào để tiến hành quản lý)
*Đối tượng của quản lý hoạt động dạy và học của trường Đại học
Là quản lý sự hoạt động của cán bộ giảng viên và sinh viên của khoa, trƣờng trong
việc thực hiện các kế hoạch, chƣơng trình dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học đã quy
định với chất lƣợng cao.
Có thể nói, đối tượng của Quản lý hoạt động Dạy và Học là quản lý tất cả các hoạt động
Dạy và Học của sinh viên (của giáo viên) ở trong khoa, trong trường. Vì thế khi nói đến quản
lý kế hoạch giảng dạy, nội dung chương trình đào tạo, ta cần hiểu đó là quản lý các hoạt động
của giảng viên và sinh viên trong việc thực hiện kế hoạch và nội dung chương trình dạy học
của nhà trường.
Đối tượng của quản lý hoạt động dạy học có thể được coi như một hệ thống xã hội bao
gồm 4 thành tố:
- Tư tưởng (quan điểm, chủ trương, chính sách, chế độ…).
- Con người (giảng viên, sinh viên).
- Quá trình hay công việc (việc học, việc dạy).
- Vật chất (phòng học, nhà xưởng, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu).
Trong cách nói thông dụng, khi nói đến quản lý con người (quản lý giảng viên, sinh
viên), quản lý quá trình (quản lý việc dạy, quản lý việc học) hay quản lý vật chất (quản lý máy
móc ) thì cần phải hiểu là quản lý nội dung các hoạt động tương ứng với từng nhiệm vụ quản
lý ở các đối tượng quản lý. Ví dụ, khi nói đến quản lý cơ sở vật chất thì cần xác định rõ quản
lý sự hoạt động của ai (giảng viên, sinh viên, hay bảo vệ) và về mặt nào đó với cơ sở vật chất
(bảo quản hay sử dụng) nói cách khác mặc dù đối tượng quản lý hoạt động dạy học theo cách

16
nói thông thường có thể là người, là việc, hay vật, nhưng thực chất của đối tượng quản lý
trong các trường học đó đều phải là sự hoạt động của một người hay tập thể với những đối

tượng và nhiệm vụ nhất định.
Nội dung của quản lý hoạt động dạy và học ở trường đại học
- Quản lý mục tiêu đào tạo, kế hoạch và chương trình giảng dạy (Thường nói
ngắn gọn là Quản lý mục tiêu, nội dung đào tạo) là quản lý hoạt động dạy của giáo viên sao
cho các kế hoạch và chương trình giảng dạy được thực hiện đúng nội dung, thời gian và quán
triệt được yêu cầu của mục tiêu đào tạo .
- Quản lý giáo viên, học sinh là: quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy của
giáo viên, các nhiệm vụ học tập, rèn luyện của học sinh.
- Quản lý nề nếp dạy học là quản lý việc chấp hành các quy định dạy học như các
nội quy, quy chế, chế độ một cách nề nếp ổn định, có kỷ cương phép tắc, nghiêm chỉnh, tự
giác và tình cảm trách nhiệm sâu sắc.
- Quản lý chất lượng dạy học là phát hiện kịp thời các nguyên nhân dẫn đến tình
trạng yếu kém, đề ra và tổ chức thực hiện các biện pháp khắc phục những yếu kém nhằm đảm
bảo đạt được chất lượng yêu cầu.
1.4. Công tác giáo vụ trong trƣờng Đại học
1.4.1. Khái niệm về giáo vụ: Theo từ điển Tiếng Việt “Giáo vụ là bộ phận trông nom việc
giảng dạy và học tập của một trường”.
Công tác giáo vụ trong một trường đại học được thể hiện theo mối liên kết sau:





Giảng viên Sinh viên







1.4.2. Những đặc trưng của công tác giáo vụ ở trường Đại học

Giáo vụ trường

Hoạ t động Dạ y và
Học
Giáo vụ
Khoa

17
Công tác giáo vụ của trường Đại học chính là quản lý hoạt động dạy và học. Tuy
nhiên, nó cũng có những đặc thù riêng. Việc quản lý hoạt động dạy và học trong trường Đại
học là nhiệm vụ chính của phòng Đào tạo nhà trường. Đây cũng là nơi quản lý, điều hành
công tác giáo vụ của toàn trường và từng khoa. Phòng Đào tạo có chức năng và nhiệm vụ sau:
* Quản lí công tác học sinh, sinh viên và công tác đào tạo của tất cả các hệ như đào tạo đại
học chính qui, chính qui theo địa chỉ, tại chức, chuyên tu.
* Tư vấn cho Ban Giám hiệu về các mặt liên quan đến công tác đào tạo đại học, quản lí sinh
viên, tổ chức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và thực tập sư phạm cho sinh viên.
* Tổ chức triển khai kế hoạch đào tạo hằng năm, xét lên lớp và xét tốt nghiệp cho sinh viên
đúng qui chế của Bộ.
* Thực hiện kế hoạch tuyển sinh hằng năm cho các hệ đào tạo, xây dựng chỉ tiêu, kế hoạch
tuyển sinh đại học, phổ thông chuyên phù hợp với yêu cầu của trường.
* Tư vấn cho Ban Giám hiệu về việc xin mở mã ngành đào tạo và hệ đào tạo theo nhu cầu
nhân lực của xã hội và phù hợp với tình hình của trường.
* Đầu mối thực hiện chủ trương và quản lí việc biên soạn chương trình đào tạo, sửa chữa
chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình. Tư vấn cho Ban Giám hiệu về việc tổ chức biên
soạn chương trình đào tạo hệ cử nhân chất lượng cao ở các ngành đào tạo góp phần bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ của trường và cung cung cấp cán bộ chất lượng cao cho các
cơ sở đào tạo khác.
* Tư vấn cho Ban Giám hiệu về việc đổi mới thi học phần, phương pháp dạy học, cách kiểm

tra đánh giá và xây dựng ngân hàng đề thi để đảm bảo kết quả thi khách quan và có tác dụng
tích cực đối với người học.
* Tư vấn cho Ban Giám hiệu về đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và thực tập sư
phạm nhằm tạo nên sự phối hợp tốt giữa trường và các cơ sở thực tập của sinh viên trong việc
đánh giá xếp loại thực tập sư phạm, nâng cao chất lượng thực tập và tiết kiệm kinh phí.
* Phối hợp với các khoa, phòng ban chức năng và kí túc xá quản lí số sinh viên chính qui nội
trú tại trường; kết hợp với chính quyền đoàn thể ở các khu dân cư để quản lí tốt số sinh viên
ngoại trú; thực hiện qui chế và chính sách đối với học sinh, sinh viên.
* Sử dụng công nghệ thông tin trong quản lí đào tạo và quản lí sinh viên.
1.4.3. Nhiệm vụ cụ thể của công tác giáo vụ ở trường Đại học
a. Quản lý kế hoạch đào tạo.
* Cụ thể hóa và triển khai thực hiện các văn bản, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
công tác đào tạo.
* Xây dựng kế hoạch đào tạo toàn Trường (bao gồm dự kiến số lượng đào tạo).

18
* Xây dựng chương trình đào tạo theo dõi thực hiện chương trình đào tạo.
* Xây dựng lịch học, lịch thi. Phối hợp các đơn vị tổ chức các kỳ thi: tuyển sinh, kết thúc học
kỳ, tốt nghiệp.
* Quản lý kết quả học tập, đánh giá chất lượng đào tạo trong Trường. Trên cơ sở chất lượng
đào tạo, thẩm định quy trình và đề xuất những thay đổi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Nghiên cứu và thực hiện các hình thức kiểm định chất lượng đào tạo.
* Chịu trách nhiệm phát hành những chứng nhận kết quả học tập của sinh viên; quản lý công
tác cấp Chứng chỉ, Văn bằng tốt nghiệp.
* Điều phối hoạt động giảng dạy và quản lý chất lượng tại nơi Trường liên kết đào tạo.
* Tổ chức quản lý việc biên soạn, in ấn giáo trình phục vụ giảng dạy và học tập.
b. Quản lý sinh viên.
* Lưu trữ hồ sơ sinh viên trong suốt quá trình đào tạo và hồ sơ sinh viên tốt nghiệp (bằng văn
bản và dữ liệu trong máy tính). Trích lục, chứng thực, sao y các văn bản, hồ sơ sinh viên theo
chức năng quản lý và theo quy định của pháp luật.

* Hoàn thành các thủ tục nhập học của sinh viên khóa mới, cho sinh viên thôi học, sinh viên
tốt nghiệp; cấp thẻ sinh viên đang đào tạo theo quy định của Bộ.
* Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước, những quy định của Trường liên quan đến
cấp học bổng, miễn giảm học phí, khen thưởng, kỷ luật sinh viên.
* Phối hợp với các đơn vị triển khai các chương trình học bổng tài trợ cho sinh viên, chương
trình tín dụng phục vụ cho học tập.
* Kết hợp với các đơn vị để quản lý sinh viên nội trú và ngoại trú.
Thực hiện công tác lưu trữ và bảo mật hồ sơ, dữ liệu và công tác thống kê theo quy định của
Nhà nước.
c. Vai trò của giáo vụ trong Quản lý hoạt động dạy và học
Công tác giáo vụ tại các trường đại học là công việc tưởng chừng như đơn giản nhưng
lại vô cùng phức tạp và đòi hỏi người quản lí phải có nghiệp vụ chuyên môn tốt. Bởi giáo vụ
là một mắt xích quan trọng trong việc liên kết sinh viên với sinh viên, sinh viên với nhà
trường. Nhờ có công tác giáo vụ các khâu trong đào tạo được vận hành, phát triển.
Việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức, quản
lý quá trình đào tạo nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực và môi trường để phát huy tiềm năng
tối đa của các nguồn lực này tạo ra hiệu quả mong muốn. Công tác giáo vụ tại các trường đại
học là công việc vô cùng phức tạp và đòi hỏi người làm việc này phải có nghiệp vụ chuyên
môn tốt để thực hiên chức năng là mắt xích quan trọng trong việc liên kết sinh viên với giáo

19
viên, sinh viên với nhau và với nhà trường cũng như liên kết với gia đình. Nhờ thực hiện tốt
công tác giáo vụ các khâu trong quá trình đào tạo được vận hành, phát triển. Cụ thể:
- Thứ nhất, với chức năng là tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch giảng dạy,
thời khoá biểu cho các hệ đào tạo, phối hợp với các đơn vị sử dụng hợp lý quỹ giảng đường,
duy trì nề nếp giảng dạy và học tập, công tác giáo vụ sẽ giúp cho việc tổ chức quá trình đào
tạo được triển khai dựa trên khả năng thực tế của từng trường về chương trình đào tạo, qui mô
đào tạo, điều kiện cơ sơ vật chất hiện có và lực lượng tham gia vào quá trình đào tạo (giáo
viên, cán bộ phòng ban…). Công việc này được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho mỗi giáo
viên và sinh viên dựa trên kế hoạch giảng dạy và thời khoá biểu để tự lập kế hoạch làm việc

riêng cho mình, đảm bảo cho họ trong cùng một thời gian có thể vừa giảng dạy (học tập), vừa
tự học nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học, tham gia nghiên cứu khoa
học…Những thuận lợi trên lại tạo điều kiện để dễ dàng duy trì nội qui, nề nếp giảng dạy và
học tập của giáo viên và tận dụng tối đa công xuất sử dụng phòng học, trang thiết bị đảm bảo
hiệu quả việc đầu tư trang thiết bị và tiết kiệm được thời gian, cơ sở vật chất trong điều kiện
nguồn kinh phí chi cho các trường đại học hiện nay còn nhiều thiếu thốn.
- Thứ hai, với chức năng là tổ chức quản lý kết quả học tập của sinh viên, giáo vụ
tham gia trực tiếp vào khâu đánh giá quá trình đào tạo – khâu rất quan trọng của việc đào tạo
vì nó chí phối toàn bộ quá trình đào tạo. Giáo vụ giúp cho việc tổ chức đánh giá được khách
quan, công bằng (bảo mật đề thi, tổ chức thi cử, tổng hợp kết quả và phân loại kết quả học tập
cho sinh viên). Đây là yếu tố tạo ra nội lực cho người học cố gắng học tập để đạt mục đích và
giúp cho việc nâng cao uy tín và vị thế của giáo viên trước sinh viên. Hơn nữa việc kịp thời
tổng kết, phân loại kết quả học tập của sinh viên còn giúp cho sinh viên biết được kết quả học
tập của mình để điều chỉnh kế hoạch học tập của bản thân, giáo viên biết được khả năng học
tập của sinh viên để sớm điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với khả năng tiếp thu
của sinh viên. Đánh giá đúng kết quả học tập của sinh viên còn là cơ sở để thực thi các chế độ
chính sách của Đảng và Nhà nước trong giáo dục, có tác dụng trực tiếp khuyến khích người
học, người dạy cũng như tạo dư luận xã hội lành mạnh cho công tác đánh giá giáo dục - điều
mà mọi người dân và các tổ chức xã hội, các cấp quản lý đều quan tâm.
Thứ ba, giáo vụ là người theo sát quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên từ khi
mới bước vào trường đến khi tốt nghiệp: bắt đầu bằng việc tiếp nhận sinh viên vào trường,
giúp đỡ sinh viên tổ chức cơ cấu nhân sự lớp, dõi theo họ trong cả quá trình đào tạo từng ngày
không chỉ riêng hoạt động học trên lớp mà còn các hoạt động phong trào khác, chăm lo đảm
bảo chế độ chính sách với các đối tượng ưu tiên, đảm bảo cho họ có điều kiện thuận lợi nhất
để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người học…Rõ ràng, nhiệm vụ của giáo vụ ở trường

20
đại học nặng nề hơn so với ở trường phổ thông ở điểm này vì họ đã phải thực thi một phần
công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp. Do vậy, họ cũng nắm bắt được tình hình hoạt động
của sinh viên cụ thể hơn, kịp thời hơn và nhiệm vụ của giáo vụ ở trường đại học cũng vì thể

mà nặng nề hơn. Có thể nói, để thực hiện tốt nhiệm vụ này giáo vụ phải là người đồng hành
cùng sinh viên, không chỉ nắm được công việc chuyên môn mà con phải hiểu hoàn cảch,
nguyện vọng điều kiện thực tế của sinh viên để tạo điều kiện cho sinh viên có thể thực thi
nhiệm vụ là người học của mình và khuyến khích động viên họ khi có khó khăn. Nếu làm tốt
công tác này sẽ tạo ra hiệu quả cộng hưởng của quá trình đào tạo, sinh viên không chỉ nỗ lực
cố gắng học tập, tự giác tuân thủ các qui chế, nội qui của nhà trường mà còn tích cực tự giác
rèn luyện, tham gia các phong trào đoàn thể, đoàn kết, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau tạo ra một
phong trào thi đua sôi nổi, lành mạnh, tạo áp lực cho những phần tử chậm tiến buộc họ phải
thay đổi cách nghĩ, thái độ hành vi không còn phù hợp nữa. Như vây, giáo vụ đã trực tiếp giúp
cho nhà trường thực thi quan điểm giáo dục bằng tập thể và thông qua tập thể, dùng sức mạnh
tập thể để điều chình hành vi cá nhân chậm tiến.
Thứ tư, là người giữ mối liên hệ giữa nhà trường với gia đình, giáo vụ là khâu trung
gian phản ánh thông tin 2 chiều về sinh viên cho gia đình và nhà trường. Việc học tập và rèn
luyện của sinh viên ở trường đại học được giáo vụ cung cấp thường xuyên cho gia đình qua
các kỳ học vào cuối năm học cũng như những tình hình đột xuất xảy ra có liên quan đến con
cái họ một cách kịp thời giúp gia đình nắm được tình hình thực tế của con minh mà đưa ra
những tác động giáo dục cho phù hợp. Đồng thời, đây cũng là địa chỉ thường trực để gia đình
có thể thực thi việc phối hợp giáo dục với nhà trường bất kỳ lúc nào khi họ có nhu cầu. Quan
điểm xã hội hoá giáo dục hiện nay ngày càng đề cao vai trò của giáo vụ trong việc liên kết các
lực lượng giáo dục để thống nhất tác động giáo dục đến người học nhằm khai thác tiềm năng
của các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục đào tạo.
1.4.4 Nhiệm vụ cụ thể của giáo vụ khoa
* Nắm vững các chủ trương, kế hoạch công tác chuyên môn của Khoa và Trường đối
với Khoa để giúp Trưởng khoa đôn đốc và theo dõi việc thực hiện.
* Đề xuất thời khóa biểu, lịch trình giảng dạy, lịch kiểm tra, thi, đi thực tế, thực tập để
Trưởng khoa duyệt.
* Giúp trưởng khoa tổ chức các kỳ thi, kiêm tra theo quy chế và kế hoạch của Trường.
* Giúp trưởng khoa đôn đốc, theo dõi, nắm tình hình thực hiện thời khóa biểu lên lớp
của cán bộ giảng dạy và việc thực hiện nội qui học tập, giờ lên lớp và tự học của sinh viên.
* Hàng tuần phải tập hợp tình hình giảng dạy và học tập cho trưởng khoa và đề xuất

những vấn đề cần phải giải quyết.

21
* Lập và theo dõi việc ghi chép các sổ sách chuyên môn như sổ đầu bài, sổ theo dõi học
tập để khi cần có thể báo ngay được.
* Lên sổ điểm, viết học bạ cho sinh viên từng học kỳ, từng năm học bao gồm phiếu
điểm, phiếu đánh giá, nhận xét (có sự phối hợp của giáo viên chủ nhiệm lớp), báo cáo để
Trưởng khoa duyệt.
* Lập danh sách, làm báo cáo thống kê tình hình học tập và rèn luyện của sinh viên theo
yêu cầu của Khoa và Trường.

22
Kết luận chƣơng 1
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý, quản lý nhà trường trong đó trọng tâm là quản
lý hoạt động dạy và học của giáo vụ khoa, trường được trình bày ở trên, tôi rút ra một số kết
luận sau đây:
Quản lý là một hiện tượng xã hội. Trong một tổ chức thì hoạt động quản lý là tất yếu.
Bản chất của hoạt động quản lý là tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý. Quản lý một tổ chức với tư cách là một hệ thống xã hội khoa học và là nghệ thuật tác động
vào hệ thống, từng thành tố của hệ thống bằng những phương pháp thích hợp nhằm đạt được
mục tiêu đề ra.
Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của
chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục đã đặt
ra. Nhà trường là tổ chức giáo dục chuyên nghiệp, vì vậy công tác quản lý nhà trường là công
tác trọng tâm của quản lý giáo dục. Trong nhà trường công tác quản lý hoạt động dạy và học
theo chức năng được giao cho phòng Đào tạo, đối với mỗi khoa, nhiệm vụ này được giao cho
cán bộ giáo vụ khoa .Vì vậy phòng Đào tạo là hạt nhân của hoạt động dạy học trong nhà
trường. Vì lẽ đó nội dung cơ bản nhất trong nhà trường chính là quản lý hoạt động dạy học.
Đối với trường Đại học quản lý hoạt động dạy và học nhằm thực hiện tốt các nhiệm
vụ dạy học, thực hiện mục tiêu, kế hoạch đào tạo, nội dung phương pháp dạy học, kết quả về

tri thức chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, định hướng giá trị, thái độ của người học
thông qua dạy học. Ngoài ra còn phải quản lý các hoạt động cần thiết phục vụ cho hoạt động
dạy và học.
Biện pháp quản lý hoạt động dạy và học là hệ thống các quyết định quản lý của chủ
thể quản lý (nhà quản lý) tác động lên các khâu của quá trình đào tạo đặc biệt là hoạt động
dạy và học nhằm đạt được mục tiêu đề ra, không ngừng nâng cao chất đào tạo của nhà trường.
Các luận cứ chủ yếu từ tổng quan vấn đề nghiên cứu, cơ sở lý luận, các khái niệm cơ
bản, một số vấn đề quản lý hoạt động dạy và học ở nhà trường nói chung, của cán bộ giáo vụ
nói riêng, chúng tôi trình bày trong chương này là các tri thức về mặt lý luận. Để đưa ra một
số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học của trường Đại học, cụ thể của công tác giáo vụ thì
cần phải có các luận cứ về thực tiễn công tác quản lý hoạt động dạy và học của nhà trường và
của một số khoa được lựa chọn. Vấn đề này chúng tôi tiếp tục trình bày ở chương 2 sau đây.

References
1. Bách khoa tri thức phổ thông. Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội, 2000

23
2. Đặng Quốc Bảo (1999). Khoa học tổ chức và quản lý, một số vấn đề lý luận thực tiễn. Nxb
Thống kê.
3. Đặng Quốc Bảo ( 2002), Mối quan hệ kinh tế- giáo dục trong quá trình phát triển cộng
đồng, Tài liệu phục vụ lớp cao học QLGD.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Các văn bản pháp luật hiện hành về Giáo dục- Đào tạo,
tập2, NXB Thống kê, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002): Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010. NXB chính trị
quốc gia.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Tài liệu hội thảo khoa học“đổi mới giáo dục Đại học Việt
Nam hội nhập và thách thức”, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Chính phủ (2003), Nghị định số 116/2003/NĐ-CP của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, Hà Nội.
8. Chính Phủ (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ về “Đổi mới cơ bản và

toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006- 2020”, Hà Nội .
9. Nguyễn Đức Chính (2002). Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
10. Đỗ Minh Cƣơng- Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực Giáo dục Đại
học Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Vũ Cao Đàm (1998). Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Nxb Khoa học và kỹ thuật
12. Nguyễn Minh Đạo (1997). Cơ sở khoa học của quản lý, Hà Nội.
13. Nguyễn Minh Đạo ( 1997), Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng Sản Việt Nam(1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB
Chính trị Quốc gia.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam ( 1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
16. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2000), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 13, Hà
Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX,, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam ( 2004), Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục, Hà Nội.

24
20. Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo (2006), Quản lý giáo dục, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm, Hà Nội
21. Hà Sỹ Hồ (1985), Những bài giảng về quản lý giáo dục, tập II, Nhà Xuất bản Giáo dục,
Hà Nội
22. Vũ Ngọc Hải(2004), Lý luận quản lý nhà nước về giáo dục. Tài liệu giảng dạy.
23. Phạm Minh Hạc (1986). Một số vấn đề về giáo dục và khoa học giáo dục. Nxb Giáo dục
Hà Nội.

24. Hà Thế Ngữ- Đặng Vũ Hoạt (2001). Giáo dục học. Nxb Sự thật Hà Nội.
25. Nguyễn Quang Toản (2002). Bài giảng về hệ thống quản lý chất lượng và từ vựng.

26. Trần Kiểm(2006), Khoa học quản lý và giáo dục, một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Giáo dục.
27. C.Mác- Ph.Ăng ghen (1993), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Lƣu Xuân Mới (2003), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
29. Lƣu Xuân Mới (2004), Thanh tra giáo dục, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
30. Lƣu Xuân Mới (2007), Giáo dục đại học trong kỷ nguyên kinh tế tri thức hiện nay, Tạp
chí Khoa học- số 6/2007, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
31. Lƣu Xuân Mới (2008), Thuật ứng xử tình huống trong quản lý giáo dục và đào tạo, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
32. Luật giáo dục. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998
33. Luật giáo dục và văn bản hướng dẫn thi hành.
Nxb chính trị Quốc gia HàNội, 2002
34. Quy chế công tác học sinh- sinh viên trong các trường đào tạo
Bộ giáo dục và đào tạo. Hà Nội 2006
35. Quyết định ban hành quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy (Số 25/2006/QĐ-
BGDDT).
36. Từ điển tiếng Việt- Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, 1998.
37. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 2005), Luật giáo dục, Nhà xuất bản
tư pháp, Hà Nội.
38. TS.Nguyễn Bá Sơn (2000), Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội
39. Trần Quốc Thành ( 2007), Khoa học quản lý đại cương, tập bài giảng cho học viên cao
học chuyên ngành quản lý giáo dục, Trường ĐHSP Hà Nội.

25
40. Từ điển tiếng Việt- Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, 1998.

41. Nguyễn Đức Trí (1999). Quản lý quá trình GD&ĐT- Giáo trình TC&QLCTVH-GD.
Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn Quang Toản (2002). Bài giảng về hệ thống quản lý chất lượng và từ vựng
43. Hồ Văn Vĩnh (2002). Giáo trình khoa học quản lý.
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội
44. Harold Koonzt Cyrill O’Donnell Heinz Weihrich (2002). Những vấn đề cốt yếu của
quản lý (bản tiếng Việt), Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
45. Paul Hersey- Ken Blanc Heard (1995). Quản lý nguồn nhân lực (sách tham khảo). Nxb
chính trị quốc gia Hà Nội.

×