1
Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp
11 trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp
Teaching style language newspapers in grade 11 high school point communication
NXB H. : ĐHGD, 2012 Số trang 123 tr. +
Nguyễn Văn Lƣơng
Trƣờng Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học bộ môn Ngữ văn;
Mã số: 60 14 10
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS.Nguyễn Quang Ninh
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ sở ngôn ngữ học; tâm lý ngôn ngữ;
giáo dục học; hoạt động giao tiếp; nội dung chƣơng trình trong sách giáo khoa ngữ văn 11;
những kiên thức, kỹ năng cũng nhƣ thực trạng dạy và học bài theo phong cách ngôn ngữ
báo chí nói riêng và phân môn tiếng Việt lớp 11 trung học phổ thông nói chung. Nghiên
cứu về dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 phổ thông trung học theo quan
điểm giao tiếp, từ đó đƣa ra những ƣu thế và tính khả thi của hƣớng đi này trong việc vận
dụng vào thực tế dạy học Tiếng Việt hiện nay. Đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt
động dạy học theo quan điểm giao tiếp và thử nghiệm vận dụng vào thực tế khi tiến hành
dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí thuộc phần Tiếng Việt ở lớp 11 trung học phổ
thông theo quan điểm giao tiếp.
Keywords: Ngữ văn; Phƣơng pháp dạy học; Ngôn ngữ báo chí; Lớp 11; Giao tiếp.
Content
1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là nội dung đƣợc dạy từ tiểu học đến trung học phổ thông hiện nay. Về phƣơng
pháp, nếu nhƣ ở tiểu học, việc dạy theo quan điểm giao tiếp đã đƣợc xác định, đƣợc thể hiện khá
rõ và nhất quán từ chƣơng trình đến sách giáo khoa (SGK), sách giáo viên (SGV), tài liệu dạy học
và phƣơng pháp, hình thức tổ chức dạy học thì ở trung học cơ sở và trung học phổ thông việc dạy
học Tiếng Việt vẫn còn nặng về cấu trúc; quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt chƣa đƣợc
chú ý khai thác một cách triệt để đúng vai trò và thế mạnh của nó. Nhiều giáo viên chƣa thật quan
tâm đến việc hƣớng học sinh học Tiếng Việt để giao tiếp và giao tiếp có hiệu quả; cũng có những
giáo viên quan tâm đến việc dạy Tiếng Việt theo định hƣớng giao tiếp nhƣng gặp khó khăn trong
quá trình giảng dạy. Giáo viên trung học phổ thông hầu nhƣ chỉ quan tâm đến dạy văn, chƣa chú ý
đến dạy Tiếng Việt; suốt thời gian dài trƣớc đây, dạy học tiếng theo quan điểm cấu trúc nên học
sinh khó tránh khỏi khó khăn khi nắm bắt và vận dụng quan điểm giao tiếp.
Từ thực tế giao tiếp với học sinh, cũng nhƣ qua các bài kiểm tra, bài viết của các em, thầy
cô giáo đều có chung nhận xét: “kỹ năng trình bày, diễn đạt của học sinh phần nhiều chƣa tốt”; có
em có ý tƣởng nhƣng “không biết trình bày”, “lúng túng khi diễn đạt, nói (viết) vụng về, sơ sài”
2
hoặc “lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu logic”, khiến ngƣời nghe khó nắm bắt đƣợc vấn đề các em
muốn trình bày,…
Đây cũng là sự gợi ý cho những ai quan tâm đến việc dạy học Tiếng Việt, nghiên cứu về
phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt.
Nếu việc học của học sinh chỉ dừng lại ở những kiến thức về Tiếng Việt trong nhà trƣờng
thì chƣa đủ, kiến thức chỉ hoàn chỉnh và vững chắc khi học sinh đã thực sự vận dụng vào hoạt động
giao tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ”. Chỉ có đặt trong hoạt động giao tiếp, thì
giá trị của các phƣơng tiện ngôn ngữ mới đƣợc xác định. Và cũng chỉ có trong hoạt động giao tiếp,
trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ với các yếu tố giao tiếp nằm ngoài ngôn ngữ thì học sinh mới có
điều kiện để hiểu chắc, hiểu sâu Tiếng Việt và biết cách sử dụng phù hợp, hiệu quả.
Việc dạy học Tiếng Việt chỉ thật sự có ý nghĩa khi học sinh rèn luyện đƣợc kĩ năng và nâng
cao đƣợc khả năng giao tiếp. Bởi vậy, nghiên cứu để nâng cao chất lƣợng dạy học Tiếng Việt là
điều cần quan tâm và thực hiện. Để góp phần cải tiến phƣơng pháp dạy học, nâng cao hiệu quả
dạy học Tiếng Việt ở bậc trung học phổ thông, chúng tôi chọn đề tài: Dạy học bài phong cách
ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các nhà nghiên cứu theo khuynh hƣớng chức năng đề cao chức năng giao tiếp của ngôn ngữ.
Họ cho rằng cần tập trung vào việc phát triển năng lực giao tiếp hơn là chỉ dạy cho ngƣời học
cách nắm vững cấu trúc. Các học giả đầu tiên chủ trƣơng quan điểm này là Widdowson H.G
(1972), Wilkins D.A (1972), Candlin C.N (1976), Brumfit C.J và Johnsonk (1979). Họ đã dựa vào
công trình nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học chức năng Anh (John Firth M.A.K. Halliday (1970)),
công trình nghiên cứu về xã hội học của các nhà nghiên cứu Mĩ (Hymes D. và Gumperz J.J
(1972), Labov W. (1972) và các kết quả nghiên cứu ngữ dụng học của Austin J.L (1962) và Searle
J.R (1969), để đề ra cơ sở lí luận cho đƣờng hƣớng dạy học tiếng theo quan điểm chức năng hay
còn gọi là quan điểm giao tiếp. Từ giữa những năm 70 đƣờng hƣớng dạy học theo quan điểm này
đƣợc phát triển rộng rãi ở Anh và Mĩ. Mục đích chính của nó là làm cho năng lực giao tiếp trở
thành mục tiêu chính của việc dạy và học tiếng.
Khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên quan đến việc dạy và học ngôn
ngữ, Trƣơng Dĩnh đã đề cao quan điểm dạy học bản ngữ dựa trên lí thuyết hoạt động lời nói. Ông
khẳng định: “Trên quan điểm coi hoạt động lời nói trong giao tiếp như mục đích dạy học, dạy
ngôn ngữ, đặc biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho
học sinh phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan sát hành vi lời nói giao tiếp trong
thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để nâng cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản
ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã có ý thức về năng lực giao tiếp, tổ chức cho học sinh sáng tạo các
hành vi lời nói trong giao tiếp, […], tức là dạy cho học sinh ứng xử sáng tạo trong giao tiếp ở môi
trường có tính thực tiễn nhất của đời sống”( Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học Tiếng
Việt ở trường trung học, Tp. HCM, 1998) [13, tr.17-26]. Đồng thời tác giả cũng coi trọng việc
3
xây dựng các bài tập tình huống để rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh. Đây cũng là một
trong những cơ sở góp phần định hƣớng cho việc dạy và học Tiếng Việt đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt (tập 2, Nxb Giáo dục, 2010) [26, tr.1-25] do nhóm tác
giả: Nguyễn Trí- Lê A- Lê Phƣơng Nga biên soạn có tất cả tám chƣơng, trong đó các tác giả dành hẳn
một chƣơng để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt. Trong chƣơng này (chƣơng một)
các tác giả nói khá rõ về: Giao tiếp và hoạt động giao tiếp. Những cơ sở của quan điểm giao tiếp trong
dạy học Tiếng Việt. Sự thể hiện của quan điểm giao tiếp trong việc dạy học Tiếng Việt. Nội dung của
chƣơng này là một trong những cơ sở khoa học cho đề tài nghiên cứu “Dạy học bài phong cách ngôn
ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp” của chúng tôi.
Hai vấn đề: Dạy cái gì? Dạy như thế nào? Đƣợc Lê A bàn đến trong bài viết Dạy Tiếng
Việt là một hoạt động và bằng hoạt động (Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001) [1, tr.57-65]. Tác giả chú
ý đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy học Tiếng Việt cùng với một số thao
tác cơ bản khi dạy học (Thao tác phân tích- phát hiện; Thao tác phân tích - chứng minh; Thao tác
phân tích- phán đoán); Giới thiệu về phƣơng tiện dạy học Grap (sơ đồ mạng để trình bày những
vấn đề cần truyền đạt). Sau khi trình bày về các vấn đề trên, tác giả nhấn mạnh: “Tri thức về
Tiếng Việt chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã thực sự vận dụng vào các hoạt động giao
tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ”. Có thể nói bài viết này là một gợi ý tốt
cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, lựa chọn sử dụng các phƣơng pháp, phƣơng tiện dạy học
Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.
Cũng trong tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001, Nguyễn Minh Thuyết trao đổi về Mấy quan điểm
cơ bản trong việc biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt (thử nghiệm) bậc tiểu học và bậc trung
học cơ sở: Bài viết này giới thiệu một số quan điểm cơ bản trong việc biên soạn hai bộ sách trên:
Quan điểm dạy giao tiếp; Quan điểm tích hợp; Quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh. Mặc dù bài viết trên đã đƣợc công bố cách đây mƣời năm, nhƣng những quan điểm ấy vẫn
còn có giá trị và có thể áp dụng vào việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ Văn (phân môn Tiếng
Việt), định hƣớng cho việc giảng dạy Tiếng Việt đúng với mục tiêu của môn Tiếng Việt.
Vấn đề giao tiếp cũng đƣợc Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập trong giáo trình
Tiếng Việt (tập 3, Nxb Giáo dục, 2002) với các nội dung cụ thể nhƣ: Các chức năng của ngôn
ngữ- chức năng giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ
trong hoạt động giao tiếp: những sự biến đổi và chuyển hóa. Vai trò của các mối quan hệ hệ
thống trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc hệ thống và quan điểm giao tiếp trong dạy học - học
Tiếng Việt. Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San khẳng định: “Quan điểm giao tiếp trong việc
dạy - học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng.
[…] Ngôn ngữ […] cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao
tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp”.
Bàn về “độ phổ biến” của quan điểm giao tiếp, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Thị Ly
Kha cho rằng: “Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương
4
pháp dạy học”. Về nội dung dạy học, quan điểm giáo tiếp được thể hiện ở “cách bố trí thời lượng,
sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều không tập trung vào việc nhận diện các hiện
tượng ngôn ngữ mà chú trọng rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ phục vụ cho hoạt động giao
tiếp”. Về phƣơng pháp dạy học, quan điểm giao tiếp đƣợc thể hiện ở điểm: “Các kiến thức và kĩ năng
trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập gắn với yêu cầu về tập làm văn
ở lớp 5 hoặc với các tình huống giao tiếp tự nhiên”. Kèm theo những nội dung trình bày là những ví dụ
sinh động. Do trình bày dƣới dạng câu hỏi – đáp, nên tài liệu này chỉ dừng ở giới hạn cung cấp những
gợi ý có tính chất định hƣớng cơ bản về nội dung, hình thức tổ chức dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 5
theo quan điểm giao tiếp. Mặt khác, do tính chất đồng tâm và phổ quát của vấn đề, những gợi ý có tính
định hƣớng đó không chỉ dừng ở giới hạn cho một lớp và một bậc học cụ thể mà còn tác dụng định
hƣớng cho việc dạy học Tiếng Việt ở phổ thông nói chung theo quan điểm giao tiếp. (Hỏi – đáp về dạy
học Tiếng Việt 5, Nxb Giáo dục, 2006) [25, tr.1-28].
Trong bài viết Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và học Tiếng Việt trong
nhà trường phổ thông hiện nay (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/2006) [18, tr.1-12] Vũ Thị Thanh
Hƣơng đã đề cập và phân tích khá sâu khái niệm “năng lực giao tiếp”, đã dẫn ra những ý kiến khác
nhau của các học giả (Chomsky, Campbell và Wales, Hymes, Murby, Canale và Swain, Bachman)
xoay quanh khái niệm “năng lực giao tiếp”. Tác giả bài viết so sánh đối chiếu các nội dung kiến thức
Tiếng Việt đƣợc trình bày trong các chƣơng trình Tiếng Việt hiện hành (của Bộ Giáo dục và Đào tạo)
với các nội dung của mô hình lí thuyết về “năng lực giao tiếp”. Từ khái niệm “năng lực giao tiếp”,
ngƣời viết tìm hiểu chƣơng trình dạy Tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông đầu thế kỉ 21 và nhận xét:
“Có thể nói, trong tất cả các tài liệu về chương trình mà chúng tôi được tiếp cận cho đến bây giờ,
quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ mục tiêu giảng dạy Tiếng Việt ở tất cả các cấp
trong nhà trường phổ thông hiện nay”. Tác giả bài viết tiến hành khảo sát chƣơng trình Tiếng Việt ở
các cấp học để làm rõ vấn đề: “liệu nội dung của chương trình có thực sự đảm bảo cung cấp đủ kiến
thức để giúp các em hình thành và rèn luyện tốt năng lực giao tiếp?”. Tác giả có trình bày kết quả
khảo sát và kết thúc bài viết với vài lời nhận xét ngắn gọn.
Một trong số những ngƣời nghiên cứu về dạy học Tiếng Việt trung học phổ thông theo
tình huống giao tiếp – Lê Thị Bích Hồng – đã khẳng định sự cần thiết phải sử dụng tình huống
giao tiếp trong dạy học: “Trong dạy học, để giúp học sinh tích cực chủ động, huy động mọi vốn
sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giái quyết các tình
huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận thức, lời
nói và hành vi, giáo viên cần xây dựng các tình huống giao tiếp” (Dạy học Nghĩa của câu ở
trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp, Giáo dục, số 175, kì 2 – 10/2007) [17, tr.16-27].
Trong bài viết, tác giả đã đƣa ra những định nghĩa tƣơng đối đầy đủ về tình huống giao tiếp, đồng
thời xác định các đặc điểm cơ bản cũng nhƣ những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp
trong giờ học tiếng; từ cơ sở đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống giao
tiếp trong giờ dạy Tiếng Việt.
5
Giáo trình Ngữ nghĩa học (dùng cho giáo viên và sinh viên ngành giáo dục tiểu học) (Nguyễn
Thị Ly Kha, Vũ Thị Ân, Nxb Giáo dục, 2008) [21, tr.1-37] có đề cập đến vấn đề dạy học nghĩa
của từ, câu, đoạn văn, văn bản theo quan điểm giao tiếp. Do mục đích và giới hạn của giáo trình,
những vấn đề dạy nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản ở đây chỉ dừng lại ở giới hạn dạy học cho
học sinh tiểu học. Tuy nhiên, ngƣời quan tâm vẫn có thể tìm thấy ở đây những định hƣớng, những
gợi ý cho việc dạy học các đơn vị mang nghĩa theo quan điểm giao tiếp cho học sinh trung học.
Hoạt động giao tiếp với dạy học Tiếng Việt ở tiểu học (Nxb Đại học Sƣ Phạm, 2009) là
một giáo trình có ích cho những giáo viên, những ngƣời nghiên cứu quan tâm đến việc dạy học
Tiếng Việt trong nhà trƣờng nhƣ thế nào để có hiệu quả. Phan Dƣơng Dung và Đặng Kim Nga đã
nghiên cứu khá sâu và rõ ràng những vấn đề về hoạt động giao tiếp trong việc dạy học Tiếng Việt
ở tiểu học. Giáo trình gồm ba chƣơng: Chƣơng một đề cập đến vấn đề giao tiếp và hoạt động giao
tiếp; chƣơng hai xoáy sâu vào từ và câu trong hoạt động giao tiếp; chƣơng ba - phần trọng tâm, có
ý nghĩa thực tiễn - Dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Giáo trình đã vạch ra hƣớng cụ
thể cho hoạt động dạy học Tiếng Việt trong nhà trƣờng theo quan điểm giao tiếp: từ việc lựa chọn
các tri thức Tiếng Việt, xác lập các quy tắc sử dụng Tiếng Việt đến việc xác định kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt cần rèn luyện cho học sinh. Và việc lựa chọn, sử dụng các phƣơng pháp, hình thức tổ
chức nào trong dạy học Tiếng Việt,… giáo trình đều nêu rõ. Tuy giáo trình chỉ giới hạn trong việc
dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học nhƣng đối với các giáo viên dạy Tiếng Việt ở Trung học cơ sở hay
ở Trung học phổ thông thì đều tìm thấy ở giáo trình này những định hƣớng làm cơ sở cho việc dạy
Tiếng Việt một cách có hiệu quả theo quan điểm giao tiếp.
Trịnh Thị Lan có bài viết khá hay về Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập Tiếng Việt dưới
ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp: “Theo quan điểm dạy học Tiếng Việt hướng vào hoạt
động giao tiếp, việc thiết kế bài tập Tiếng Việt phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng
giao tiếp cho học sinh. Dạy học Tiếng Việt sử dụng phương pháp giao tiếp như là phương pháp tổ
chức dạy học quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng dẫn học sinh vận
dụng lí thuyết được học vào thực tiễn các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm
và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp”. () [24, tr.1-17]
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có những nghiên cứu đi sâu vào việc dạy học một Tiếng
Việt theo quan điểm giao tiếp ở một bài trong một khối lớp cụ thể nói riêng và toàn bộ bậc trung
học phổ thông nói chung, vẫn chƣa có một công trình nào cung cấp cho ta một bức tranh toàn
cảnh về dạy học Tiếng Việt ở phổ thông theo quan điểm giao tiếp. Vì thế, việc triển khai đề tài:
Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao
tiếp, theo chúng tôi là cấp thiết.
Mặc dù các giáo trình, các tài liệu và các bài viết trên không đề cập trực tiếp đến vấn đề
mà đề tài này quan tâm nhƣng chính các công trình trên là những định hƣớng, những gợi ý quý
báu giúp ngƣời thực hiện đề tài Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ
6
thông theo quan điểm giao tiếp triển khai thực hiện các nội dung, phƣơng pháp, hình thức tổ chức
dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông
theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi muốn góp phần giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm
của việc đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn hiện nay: tổ chức dạy học Tiếng Việt trong
chƣơng trình trung học phổ thông (đặc biệt là ở lớp 11) theo quan điểm giao tiếp.
Để đạt đƣợc mục đích trên, nghiên cứu về dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp
11 phổ thông trung học theo quan điểm giao tiếp, tác giả luận văn sẽ chú ý đến những ƣu thế và
tính khả thi của hƣớng đi này trong việc vận dụng vào thực tế dạy học Tiếng Việt hiện nay. Từ đó,
luận văn sẽ đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy học theo quan điểm giao tiếp và
thử nghiệm vận dụng vào thực tế khi tiến hành dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí thuộc
phần Tiếng Việt ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài: Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông
theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi tập trung nghiên cứu về quá trình hoạt động dạy và học bài
phong cách ngôn ngữ báo chí theo hƣớng giao tiếp ở giáo viên và học sinh.
Do điều kiện thời gian có hạn và trong khả năng cho phép, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát
đối tƣợng giáo viên và học sinh khối 11 ở ba trƣờng: trung học phổ thông Ngô Quyền (Thành phố
Nam Định – Nam Định), trƣờng trung học phổ thông Nguyễn Huệ (Thành phố Nam Định – Nam
Định) và trƣờng trung học phổ thông Mỹ Lộc (Huyện Mỹ Lộc – Nam Định).
Đề tài giới hạn ở phạm vi khảo sát về hoạt động dạy bài phong cách ngôn ngữ báo chí của
giáo viên và hoạt động học của học sinh. Bao gồm các khía cạnh sau: (1) Mức độ truyền đạt nội
dung lí thuyết, nội dung thực hành bài học của giáo viên trên lớp và mức độ hiểu, vận dụng lí
thuyết vào thực hành Tiếng Việt của học sinh. (2) Khả năng học sinh vận dụng những kiến thức
Tiếng Việt đã biết vào trong sinh hoạt hàng ngày: khả năng sử dụng linh hoạt Tiếng Việt vào từng
hoàn cảnh và đối tƣợng giao tiếp cụ thể.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu vấn đề mà luận văn đặt ra, ngƣời viết kết hợp, vận dụng tổng hợp các
phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu thực nghiệm, cụ thể nhƣ sau:
5.1. Phương pháp phân tích tổng hợp đƣợc sử dụng để nghiên cứu lịch sử vấn đề và phát hiện,
rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua việc tìm hiểu các tƣ liệu, tạp chí, giáo
trình, các bài nghiêu cứu thuộc các lĩnh vực Giáo dục học, Ngôn ngữ học, Tâm lí học, Lí luận và
phƣơng pháp dạy học Văn… có liên quan trực tiếp đến phạm vi đề tài.
5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát đƣợc sử dụng để thu thập những tƣ liệu thực tế về tình hình
dạy và học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 nói riêng và phần Tiếng Việt nói chung
7
đang diễn ra ở trƣờng trung học phổ thông Ngô Quyền và một số trƣờng trung học phổ thông khác
trên địa bàn tỉnh Nam Định.
5.3. Phương pháp thực nghiệm, ở đề tài này, do mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, việc thực
nghiệm sẽ đƣợc thực hiện ở phạm vi tổ chức dạy thực nghiệm giáo án đề xuất trong sự đối chứng
với các giáo án thông thƣờng để kiểm nghiệm khả năng ứng dụng và tính hiệu quả của hƣớng dạy
học một bài cụ thể thuộc phân môn Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Từ đó giáo viên có thể áp
dụng vào quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung ở nhà trƣờng phổ thông.
5.4. Phương pháp thống kê đƣợc sử dụng để xử lí các số liệu thu thập trong quá trình khảo sát,
thực nghiệm, bổ trợ cho phƣơng pháp phân tích, tổng hợp nhằm đạt tới những kết luận chính xác,
khách quan.
5.5. Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm đƣợc dùng vào việc xem xét lại những thành quả cuả hoạt
động thực tiễn trong quá khứ để từ đó rút ra những kết luận bổ ích cho thực tiễn và cho khoa học.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn đƣợc trình bày theo 3
chƣơng:
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Chƣơng 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGŨ BÁO CHÍ Ở LỚP 11
THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
CHƢƠNG 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cở sở lý luận
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Theo những luận điểm của cơ sở ngôn ngữ học thì dạy – học ngôn ngữ là đi theo con đƣờng
từ nội dung đến hình thức ngôn ngữ để biểu đạt. Ngôn ngữ là phƣơng tiện để thực hiện những
phát ngôn cụ thể. Dạy hoạt động ngôn ngữ (tức là dạy năng lực giao tiếp) chứ không phải dạy hệ
thống ngôn ngữ thuần túy. Tuy nhiên, trong quá trình dạy – học hai mặt năng lực ngôn ngữ và
năng lực giao tiếp thống nhất biện chứng với nhau. Dạy năng lực giao tiếp không thể tách rời các
hiện tƣợng ngôn ngữ, ngƣợc lại những kiến thức của hệ thống ngôn ngữ chỉ đƣợc xây dựng và
củng cố trên cơ sở nắm đƣợc các kĩ năng lời nói.
1.1.2. Cơ sở tâm lí – ngôn ngữ
Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng rất nhiều thành tựu của Tâm lí học. Đó là các
quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Giáo viên cần biết, sản phẩm lời nói đƣợc sản
sinh ra nhƣ thế nào, quá trình học đƣợc thiết lập từ những yếu tố nào, khái niệm ngữ pháp đƣợc
hình thành ở học sinh ra sao, vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển tƣ duy ra sao, kỹ năng nói,
8
viết đƣợc hình thành nhƣ thế nào? Những nghiên cứu Tâm lí học cho phép chúng ta xác định mức
độ vừa sức của tài liệu học tập.
Mặt khác, Tâm lí ngôn ngữ học đem lại cho phƣơng pháp những số liệu về lời nói nhƣ một
hoạt động, ví dụ nhƣ việc xác định tình huống nói năng, các giai đoạn sản sinh lời nói, tính hiệu
quả, sự tác động của lời nói trong giao tiếp giữa các cá thể với nhiều ngƣời.
Quan hệ của phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt và Tâm lí học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có
kiến thức về quá trình tâm lí ngƣời nói chung và tâm lí học sinh trung học phông nói riêng thì
không thể giảng dạy tốt và phát triển ngôn ngữ cho các em.
1.1.3. Cơ sở giáo dục học
Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng những nguyên tắc của giáo dục học theo đặc
trƣng riêng của mình. Ví dụ nguyên tắc gắn liền lí thuyết và thực hành trong phƣơng pháp dạy học
Tiếng Việt đòi hỏi một hoạt động lời nói thƣờng xuyên, biểu hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết, cùng
với việc thƣờng xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết trong bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời
nói đã quy định việc xây dựng chƣơng trình Tiếng Việt mà tất cả các phân môn đều có mục phát
triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thực hiện nguyên tắc trực quan trong giờ Tiếng Việt không
chỉ là việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu, dùng chữ viết sẵn, phim ảnh mà còn là “trực quan lời nói”,
bao gồm từ việc quan sát ngôn ngữ sống động đến việc dựa vào bài khóa trong khi nghiên cứu về
ngữ âm, từ vựng, chính tả, ngữ pháp. Tài liệu trực quan cơ bản trong giờ học Tiếng Việt là Tiếng
Việt văn hóa, Tiếng Việt trong những mẫu tốt nhất của nó: văn học dân gian, tác phẩm văn học
Việt Nam và thế giới.
Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt chọn ở Giáo dục học các hình thức tổ chức dạy học nhƣ
bài học và các hình thức khác. Các phƣơng pháp dạy học cơ bản – phƣơng pháp dạy học bằng lời,
bài tập, dạy học nêu vấn đề… đều có mặt trong giờ Tiếng Việt.
1.1.4. Lí thuyết về hoạt động giao tiếp
1.1.4.1.Giao tiếp và các hình thức giao tiếp
Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay truyền đạt thông báo
nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao tiếp là hoạt động giữa hai ngƣời hay hơn
hai ngƣời nhằm bày tỏ với nhau một thông tin trí tuệ hoặc cảm xúc, một ý muốn hành động hay
một nhận xét về sự vật, hiện tƣợng nào đó.
Hoạt động giao tiếp có thể đƣợc thực hiện bằng nhiều cách thức, bằng những phƣơng tiện
khác nhau nhƣ hội họa, âm nhạc, điêu khắc, điện ảnh, cử chỉ… Nhƣng ngôn ngữ là phƣơng tiện
giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của xã hội loài ngƣời.
Giao tiếp ngôn ngữ có thể thực hiện bằng lời (giao tiếp miệng) hoặc bằng văn tự (giao tiếp
viết). Trong hai dạng giao tiếp vừa nêu, giao tiếp miệng là cơ sở.
1.1.4.2. Chức năng của giao tiếp
- Chức năng thông tin
- Chức năng tạo lập quan hệ
9
- Chức năng tự biểu hiện
- Chức năng giải trí
- Chức năng hành động
1.1.4.3. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp
- Nhân vật giao tiếp
- Hiện thực đƣợc nói tới
- Hoàn cảnh giao tiếp
- Mục đích giao tiếp
- Phƣơng tiện và cách thức giao tiếp
1.1.4.4. Các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp
Căn cứ hình thức và phƣơng tiện biểu đạt, có thể chia ngôn ngữ (lời nói) thành hai dạng:
khẩu ngữ (ngôn ngữ nói) và bút ngữ (ngôn ngữ viết). Hai dạng này có sự khác nhau đáng kể về
phƣơng tiện biểu đạt, cách lựa chọn từ ngữ, hoàn cảnh sử dụng…
1.1.4.5. Quá trình sản sinh và quá trình tiếp nhận lời nói trong hoạt động giao tiếp
- Quá trình sản sinh lời nói
- Quá trình tiếp nhận lời nói
1.1.4.6. Bản chất của quan điểm giao tiếp
Quan điểm giao tiếp đƣợc thể hiện trên cả hai phƣơng diện nội dung và phương pháp dạy
học. Về nội dung, phân môn Tiếng Việt tạo ra những môi trƣờng giao tiếp có chọn lọc để học sinh
mở rộng vốn từ theo định hƣớng, trang bị những tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng
Tiếng Việt trong giao tiếp. Về phƣơng pháp dạy học, các kĩ năng đƣợc hình thành thông qua nhiều
bài tập mang tính tình huống, phù hợp với tình huống giao tiếp tự nhiên.
Dạy học Tiếng Việt theo quan điểm tiếp thực chất là dạy học vì mục đích giao tiếp. Dạy về
giao tiếp và dạy trong giao tiếp.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung chƣơng trình trong sách giáo khoa Ngữ văn 11
Lớp
Số tiết/tuần
Số tuần
Số tiết/năm
11(Cơ bản)
3,5
35
122,5
11 (Nâng cao)
4
35
140
Nhìn chung, các bài học Tiếng Việt ở sách giáo khoa Ngữ văn 11 còn ít và thiếu những bài
học hƣớng học sinh đến hoạt động giao tiếp; hình thành kĩ năng giao tiếp. Các tiết Tiếng Việt có
chú trọng đến thực hành, nhƣng chỉ có số ít bài luyện tập có chú trọng đến tính thực tiễn, hƣớng
học sinh đến hoạt động giao tiếp; còn lại phần lớn các bài luyện tập Tiếng Việt dùng để thực hành
cho phần lý thuyết mà học sinh vừa đƣợc học. Do đó, có trƣờng hợp học sinh làm đúng các bài tập
trong sách giáo khoa nhƣng thiếu kĩ năng giao tiếp trong thực tiễn. Đây là điều mà giáo viên cần
quan tâm khi dạy Tiếng Việt ở trƣờng trung học phổ thông hiện nay.
10
1.2.2. Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng
Về kiến thức: Yêu cầu học sinh phải nhớ, nắm vững, hiểu rõ các kiến thức cơ bản trong
chƣơng trình, sách giáo khoa, đó là nền tảng vững vàng để có thể phát triển năng lực nhận thức ở
cấp cao hơn. Mức độ cần đạt đƣợc về kiến thức đƣợc xác định theo sáu mức độ: nhận biết, thông
hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo.
Về kĩ năng: Biết vận dụng các kiến thức đã học để trả lời câu hỏi, giải bài tập, làm bài thực
hành; có kĩ năng tính toán, vẽ hình, dựng biểu đồ,… Kiến thức, kĩ năng phải dựa trên cơ sở phát
triển năng lực, trí tuệ học sinh ở các mức độ, từ đơn giản đến phức tạp; nội dung bao hàm các mức
độ khác nhau của nhận thức.
BÀI HỌC
TIẾNG
VIỆT
MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
Phong cách
ngôn ngữ
báo chí
-Hiểu đặc điểm của phong cách ngôn ngữ báo chí với các phong cách
ngôn ngữ khác đã học (nêu đƣợc các đặc điểm, lấy ví dụ minh họa).
-Biết cách phân tích, lĩnh hội các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ
báo chí.
-Biết viết một số văn bản báo chí thông tin: tin tức, quảng cáo
1.2.3. Thực trạng dạy và học bài phong cách ngôn ngữ báo chí nói riêng và phần Tiếng Việt
lớp 11 trung học phổ thông nói chung
Chúng tôi dạy thực nghiệm và dự giờ một số lớp ở các trƣờng trung học phổ thông của tỉnh
Nam Định và nhận thấy hầu hết học sinh không có hứng thú trong các giờ học Tiếng Việt, trong
đó có bài phong cách ngôn ngữ báo chí. Một số học sinh lại không chú tâm tìm hiểu, học hỏi;
thậm chí chỉ thích đọc những loại sách báo mang chức năng giải trí, thỏa mãn sự tò mò là chính.
Một số học sinh bị mất kiến thức cơ bản mà chƣa đƣợc bồi dƣỡng kịp thời, không hiểu, thậm
chí rất ngô nghê về Tiếng Việt.
Đa phần học sinh và một số giáo viên ngán ngại dạy học phần Tiếng Việt hơn phần Văn học.
Tiếng Việt không nằm trong cấu trúc chƣơng trình thi tốt nghiệp Trung học phổ thông nên cả
ngƣời dạy lẫn ngƣời học đều mang tâm lý qua loa, dạy cho có và học cho xong.
CHƢƠNG 2
TỔ CHỨC DẠY HỌC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Ở LỚP 11 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
2.1. Quan điểm giao tiếp với nội dung dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11
trung học phổ thông
11
2.1.1. Quan điểm giao tiếp với việc xác lập các phương tiện diễn đạt của phong cách ngôn ngữ
báo chí
2.1.1.1. Đặc điểm về từ vựng trong phong cách ngôn ngữ báo chí
2.1.1.2. Đặc điểm về ngữ pháp trong phong cách ngôn ngữ báo chí
2.1.2. Quan điểm giao tiếp với việc xác định các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cần rèn luyện cho
học sinh khi dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí
2.1.2.1. Kĩ năng tiếp nhận lời nói
- Kĩ năng nghe
- Kĩ năng đọc
2.1.2.2. Kĩ năng sản sinh lời nói
Có hai hình thức sản sinh lời nói: nói và viết. Dù nói hay viết, dù tạo một ngôn bản hoàn
chỉnh hay một vài phát ngôn, hoạt động sản sinh lời nói vẫn thực hiện qua bốn giai đoạn:
- Kĩ năng định hướng
- Kĩ năng lập chương trình
- Kĩ năng hiện thực hoá chương trình
- Kĩ năng kiểm tra-điều chỉnh
2.2. Tổ chức dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông
2.2.1. Lựa chọn sử dụng các phương pháp dạy học
2.2.1.1. Phương pháp thảo luận nhóm
2.2.1.2. Phương pháp phản ứng nhanh
2.2.1.3. Phương pháp đóng vai
2.2.1.4. Phương pháp xử lí tình huống
2.2.1.5. Phương pháp ứng dụng
2.2.2. Lựa chọn sử dụng các hình thức tố chức dạy học
2.2.2.1. Tổ chức cho học sinh thuyết trình nội dung bài học tại lớp
2.2.2.2. Tổ chức vừa chơi vừa học ở lớp
2.2.2.3. Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp
2.3. Hƣớng khai thác theo quan điểm giao tiếp
2.3.1. Định hướng chung việc triển khai dạy học
2.3.2. Hướng khai thác cụ thể
Đối với bài học Tiếng Việt này, giáo viên cần dạy cho học sinh có đƣợc kĩ năng: (1) Nhận
diện một số thể loại báo chí chủ yếu (bản tin, phóng sự, phỏng vấn, quảng cáo, tiểu phẩm) và các
loại báo khác nhau về phƣơng tiện, định kỳ, lĩnh vực, đối tƣợng. (2) Nhận biết và phân tích những
biểu hiện về ba đặc trƣng cơ bản của phong cách ngôn ngữ báo chí phân biệt với các phong cách
ngôn ngữ khác. (3) Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ báo chí về từ ngữ, câu văn, biện pháp tu từ.
(4) Bƣớc đầu biết viết một tin ngắn, một thông báo, một bài phỏng vấn đơn giản.
12
2.4. Kiểm tra, đánh giá theo quan điểm giao tiếp
2.4.1. Mục đích kiểm tra, đánh giá
2.4.2. Nội dung kiểm tra, đánh giá
2.4.3. Hình thức kiểm tra, đánh giá
2.4.4. Xử lý kết quả kiểm tra, đánh giá
CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung, phƣơng pháp thực nghiệm
3.1.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm
3.1.2. Nội dung, phương pháp thực nghiệm
3.2. Tổ chức thực nghiệm
3.2.1. Giao nhiệm vụ thực nghiệm
3.2.2. Mô tả tiến trình giờ dạy học thực nghiệm
3.3. Đánh giá thực nghiệm
3.3.1. Nhận xét quá trình học tập của lớp thực nghiệm
Qua các tiết dạy thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy đa số học sinh đều tham gia vào hoạt
động học tập. Tất nhiên có lớp, học sinh còn hơi thụ động do đã quen với cách học cũ. Ở các tiết
dự giờ, vẫn có một vài học sinh thể hiện thái độ không tốt trong giờ học ( không thích học, làm
việc riêng, phát biểu không đúng trọng tâm )
3.3.2. Xử lí số liệu thực nghiệm
Bảng 3.1. So sánh điểm trung bình của các nhóm thực nghiệm
NHÓM
1
2
3
TN
4,54
6,72
7,32
ĐC
3,05
5,39
6,23
Bảng 3.2. Bảng so sánh độ lệch chuẩn của lớp thực nghiệm và đối chứng
NHÓM
1
2
3
S
TN
1,35
1,97
1,19
S
ĐC
1,36
2,07
1,52
Bảng 3.3. Độ phân tán của kết quả các lớp tham gia thực nghiệm
NHÓM
1
2
3
CV
TN
29,73%
29,31%
16,25%
CV
ĐC
44,59%
38,40%
24,39%
13
Bảng 3.4. Bảng tổng hợp kết quả thực nghiệm
Nhóm
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
Độ phân tán
TN
ĐC
TN
ĐC
TN
ĐC
1
4,54
3,05
1,35
1,36
29,73%
44,59%
2
6,72
5,39
1,97
2,07
29,31%
38,40%
3
7,32
6,23
1,19
1,52
16,25%
24,39%
Bảng 3.5. Hệ số t của các lớp thực nghiệm và đối chứng
NHÓM
1
2
3
Giá trị t
9,44
5,7
6,93
Bảng 3.6. Tổng hợp chung so sánh các số liệu thực nghiệm
Nhóm
SỐ HS
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Độ phân tán
Hệ số
t
TN
ĐC
TN
ĐC
TN
ĐC
TN
ĐC
1
148
149
4,54
3,05
1,35
1,36
29,73%
44,59%
9,44
2
153
149
6,72
5,39
1,97
2,07
29,31%
38,40%
5,7
3
153
149
7,32
6,23
1,19
1,52
16,25%
24,39%
6,93
3.3.3. Kết quả thu nhận được từ phiếu tham khảo ý kiến giáo viên và học sinh
3.4. Kết luận chung về thực nghiệm
Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 theo quan điểm giao tiếp sẽ giúp cho
học sinh thêm khôn ngoan, linh hoạt trong giao tiếp với mọi ngƣời. Học tốt bài Phong cách ngôn
ngữ báo chí sẽ giúp các em xác định đúng từng thể loại của văn bản báo chí, biết rõ đặc trƣng của
từng thể loại và có thể viết đƣợc các loại văn bản đó khi các em làm báo tƣờng, khi các em muốn
gửi bài cho các báo, đài Dạy Tiếng Việt cho học sinh và học sinh ứng dụng tốt vào trong thực tế
cuộc sống nhƣ thế mới đạt yêu cầu.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu, vận dụng quan điểm giao tiếp vào việc tổ chức dạy học bài Phong các
ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông và hƣớng triển khai các bài học Tiếng Việt trong
chƣơng trình Ngữ Văn 11 theo quan điểm giao tiếp, ngƣời thực hiện đề tài rút ra một số nhận xét
và đề xuất sau:
1. Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao
tiếp là một cách thức dạy học không hoàn toàn mới nhƣng ở trung học phổ thông thì hầu nhƣ rất ít
14
giáo viên vận dụng quan điểm giao tiếp vào việc dạy bài học này một cách triệt để; thƣờng do
giáo viên THPT chƣa chú ý với việc dạy học Tiếng Việt nói chung nên thiếu sự đầu tƣ cần thiết.
2. Qua thực tế vận dụng quan điểm giao tiếp vào việc tổ chức dạy học một bài Tiếng Việt cụ thể
và hƣớng triển khai các bài học Tiếng Việt trong chƣơng trình Ngữ văn 11 theo quan điểm giao
tiếp, ngƣời thực hiện nhận thấy học sinh nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của Tiếng Việt và mục
đích của việc học Tiếng Việt, học hứng thú hơn và đạt kết quả cao hơn; Giáo viên thực sự trở
thành ngƣời hƣớng dẫn học sinh tìm đến tri thức và ứng dụng tri thức vào trong sinh hoạt hàng
ngày (thông qua các bài tập tình huống).
3. Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao
tiếp không chỉ giúp học sinh học Tiếng Việt tốt hơn mà còn giúp các em cải thiện mối quan hệ với
bạn bè và thầy cô thông quan các hoạt động giao tiếp trong lớp và ngoài giờ lên lớp.
4. Không khí giờ học bài Phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 theo quan điểm giao tiếp thực sự
sinh động, học sinh học tập với tâm lí thoải mái. Mỗi học sinh trong lớp vừa là nhân vật giao tiếp
vừa là đối tƣợng giao tiếp. Các em vừa học vừa thực hành tại lớp thông qua các bài tập tình huống
do giáo viên đặt ra. Mỗi học sinh là một chủ thể năng động và sáng tạo, giờ học Tiếng Việt thực
sự hiệu quả
5. Dù là một hƣớng đổi mới cách dạy và học nhƣng dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp
11 trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp vẫn dựa trên những phƣơng pháp cơ bản, truyền
thống của việc dạy học Tiếng Việt nhƣ một thể thống nhất, hài hòa, bổ sung cho nhau. Cần triển khai
bài học Tiếng Việt theo cách dạy và học nhƣ thế nào (song song với các cách dạy và học tích cực
khác) để nâng cao chất lƣợng dạy học Tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông hiện nay.
6. Dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí ở lớp 11 trung học phổ thông theo quan điểm giao tiếp là
một giải pháp hữu hiệu cho phép góp phần nâng cao hiệu quả chất lƣợng học tập, tạo điều kiện để học
sinh tự hiện thực hóa, tự khẳng định nhân cách cá nhân của mình, vạch ra tiềm năng sáng tạo của cá
nhân, hình thành những phƣơng châm giá trị và phẩm chất đạo đức cần thiết cho những chặng đƣờng
học tập và làm việc tiếp theo, góp phần đáp ứng mục tiêu giáo dục đã đƣợc đặt ra.
7. Điều cần đổi mới về phƣơng pháp dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng và đổi mới phƣơng pháp dạy
học nói chung trƣớc tiên chính là tƣ duy. Có thay đổi về tƣ duy, về nhận thức thì mới thay đổi hành
động, có hành động tích cực thì hành động đó mới có thể đạt hiệu quả. Để đạt đƣợc chất lƣợng giáo dục
thì những ngƣời làm công tác giáo dục phải có sự đầu tƣ công sức và tiền bạc, thực tiễn đồng bộ. Mục
tiêu, quan điểm giáo dục phải đƣợc triển khai sâu rộng và thực hiện triệt để. Với tình hình học sinh học
Ngữ Văn nói chung và Tiếng Việt nói riêng ngày càng yếu kém thì đòi hỏi giáo viên, phụ huynh học
sinh, ban giám hiệu nhà trƣờng cần có biện pháp để nâng cao năng lực học tập của học sinh, tạo điều
kiện cho giáo viên nâng cao năng lực giảng dạy và trình độ chuyên môn.
15
References
1. Lê A (2001), “Dạy Tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt động”,Tạp chí Ngôn ngữ,
(4), tr.57-65.
2. Lê A - Nguyễn Quang Ninh - Bùi Minh Toán (2001), Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nhà
xuất bản Giáo dục.
3. Phạm Thị Anh (2010), “Ngữ liệu trong dạy học Tiếng Việt ở trường phổ thông”, Tạp chí Giáo
dục, (236), tr. 17-19.
4. Nguyễn Thị Thanh Bình (2006), “Một số xu hướng lí thuyết của việc dạy tiếng mẹ đẻ trong
nhà trường”, Tạp chí Ngôn ngữ, (4), tr.13-24.
5. Diệp Quang Ban (2000), “Thử bàn về một số vấn đề liên quan đến môn ngữ pháp Tiếng Việt
trong nhà trường”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11), tr.55-58.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Tiếng Việt 11, Nhà xuất bản Giáo dục.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ Văn 11, tập1, Nhà xuất bản Giáo dục.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ Văn 11, tập2, Nhà xuất bản Giáo dục.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách Giáo Viên Ngữ Văn 11, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách Giáo Viên Ngữ Văn 11, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ Văn
lớp 11, Nhà xuất bản Giáo dục.
12. Nguyễn Phúc Châu (2010), “Học để dạy và dạy để học: Vấn đề cần quan tâm của nhà giáo
trong thời đại ngày nay”, Tạp chí Giáo dục, (239), tr.6-7.
13. Trƣơng Dĩnh (1998), Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học Tiếng Việt trong nhà
trường phổ thông hiện nay, TPHCM.
14. Đinh Văn Đức, Lê Xuân Thọ (2005), “Trạng ngữ ngữ dụng – một thành tố cú pháp giao tiếp
của phát ngôn Tiếng Việt ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8), tr.13-22.
15. Dƣơng Tuyết Hạnh (2006), “Hành vi chủ hướng hàm ẩn trong tham thoại”, Tạp chí Ngôn
ngữ, (6), tr.1-6.
16. Đỗ Kim Hồi, Bùi Minh Toán (2007), Tài liệu Ngữ văn 11, Nhà xuất bản Giáo dục.
17. Lê Thị Bích Hồng (2007), “Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo tình huống
giao tiếp”, Giáo dục (175), kì 2 – 10/2007.
18. Vũ Thị Thanh Hƣơng (2006), “Từ khái niệm “năng lực giao tiếp” đến vấn đề dạy và học
Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ, (4), tr. 1-12.
19. Đỗ Thị Thu Hƣơng (2008), “Những nhân tố làm chuyển hướng, lệch hướng đề tài trong hội
thoại thường ngày”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.18-28.
20. Kiều Thị Thu Hƣơng (2006), “Cách đáp lại lời khen trong Tiếng Anh và Tiếng Việt: Bình
diện phân tích hội thoại”,Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr.32-43.
21. Nguyễn Thị Ly Kha, Vũ Thị Ân (2008), Ngữ nghĩa học (dùng cho GV, sinh viên ngành giáo
dục tiểu học), Nhà xuất bản Giáo dục.
16
22. Nguyễn Thị Ly Kha (2009), Ngữ pháp văn bản và luyện tập làm văn, Nhà xuất bản Giáo dục.
23. Nguyễn Thị Ly Kha (2009), “Việc dạy học ngữ pháp Tiếng Việt cho học sinh tiểu học – nhìn
từ Sách giáo khoa”, Tạp chí Ngôn ngữ, (6), tr.54-56.
24. Trịnh Thị Lan, “Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập Tiếng Việt dưới ánh sáng của lí thuyết
hoạt động giao tiếp” (
25. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên, 2006), “Hỏi-đáp dạy học Tiếng việt 5”, Nhà xuất bản Giáo
dục.
26. Nguyễn Trí, Lê A, Lê Phƣơng Nga (2001), Phương pháp dạy học Tiếng việt, Nhà xuất bản
Giáo dục.