Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Giáo dục tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1919 1945, lớp 12 trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.39 KB, 33 trang )

Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và giải phóng dân tộc trong dạy học lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945, lớp 12 trung
học phổ thông (Chương trình chuẩn)

Trần Thị Bích Thủy

Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lí luận và phương pháp dạy học; Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trịnh Đình Tùng
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc, nội dung cơ bản của Lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1919 - 1945 một số về lý luận dạy học hiện đại. Điều tra khảo sát
thực tiễn dạy học lịch sử hiện nay tại trường THPT đặc biệt là việc giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trong dạy học bộ
môn. Xác định những yêu cầu phải thực hiện cũng như những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng
dân tộc cho học sinh THPT.

Keywords: Hồ, Chí Minh, 1890-1969; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Phương pháp dạy
học; Lịch sử; Giải phóng dân tộc

Content
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thời đại của nền "kinh tế tri thức" và đầu tư cho giáo dục là vấn đề
được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Ngay trong định hướng của hệ thống giáo dục
quốc dân Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định: Giáo dục là quốc sách hàng
đầu; và đây là sự nghiệp của Đảng, nhà nước và toàn dân. Trong đó việc giáo dục thế hệ
trẻ là một điều kiện quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, là


mối quan tâm của mỗi quốc gia và toàn xã hội. Ở Việt Nam, công việc đó lại ngày càng
trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Để đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mĩ, trung thành với lí tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách con người; có thể hội nhập với tri thức nhân loại thì trong quá trình giáo
dục, việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong nhà trường là điều cần thiết.
Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, quá trình đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam ta vẫn gặp nhiều khó khăn. Ngoài những yếu tố bản thân, những khó khăn trong nền
kinh tế, cơ sở trong nước… thì chúng ta còn vấp phải âm mưu "diễn biến hoà bình, bạo
loạn lật đổ" của những kẻ chống phá cách mạng, nguy cơ tranh chấp lãnh thổ… Do đó, vấn
đề bảo vệ chủ quyền đất nước, hoà bình dân tộc hiện nay là một vấn đề to lớn, được Đảng
và nhà nước tiến hành song song với quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới
tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn vấn đề "Giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919 – 1945, lớp 12 trung học phổ thông (Chương trình chuẩn)" làm đề tài luận văn thạc sĩ
sư phạm lịch sử chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước hết, để trình bày tổng hợp tư tưởng Hồ Chí Minh đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu và biên soạn, được phổ cập ở rất nhiều các cấp, các ngành và trình độ học, như:
Hội đồng trung ƣơng chỉ đạo biên soạn, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003; Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tập bài giảng tư
tưởng Hồ Chí Minh (Hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003;
GS.Phan Ngọc Liên (chủ biên), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2001; TS Lê Văn Yên (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb
Lao động, 2003, Võ Nguyên Giáp, Một số vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Công an nhân dân, 2005 Đây là những công trình biên soạn công phu, cho cái nhìn
nhiều chiều và toàn diện về cuộc đời hoạt động của Bác, về tư tưởng của Người. Mỗi cuốn
sách có đề cập cụ thể những vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều khía cạnh như: tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân

tộc; tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Đặc biệt trong các công trình nghiên cứu chuyên biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề giải phóng dân tộc là tác phẩm của TS. Nguyễn Đình Thuận, Sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (1911-1945), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002 là một trong số những tác phẩm đề cập cụ thể đến sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong một quá trình lịch sử từ năm
1911-1945. Trình bày cụ thể những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc. Từ đó khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ
Chí Minh. .
Trong quá trình nghiên cứu, không thể không kể đến nguồn những công trình
nghiên cứu về tác dụng, ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách
dạy học sinh ở các cấp, đồng thời hướng dẫn về những cách thức vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh phù hợp với các cấp học. Đề cập đến vấn đề này có các bài viết, các tác phẩm
như: bài viết của GS. Phan Ngọc Liên, Về việc giảng dạy, học tập cuộc đời và sự nghiệp
cách mạng của Bác Hồ trong trường phổ thông, Thông báo khoa học số 2, 1985; Đoàn
Thế Hanh, Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay, Tạp chí cộng sản, số 777, 2007; Đề
tài nghiên cứu của tập thể giảng viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội do GS Phan
Ngọc Liên (chủ biên), Sử dụng tư liệu Hồ Chí Minh trong nghiên cứu và giảng dạy lịch
sử, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, ĐHSPHN, 2002, Hà Nội; hay như bài viết của PGS.TS
Trần Bá Đệ, Một vài suy nghĩ về tấm gương Bác Hồ thời trẻ đối với giáo dục thanh niên
và Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc bồi dưỡng các thế hệ cách mạng thông qua giáo dục
bằng gương người thực, việc thực được in trong thông báo khoa học số 2/1985 ,…
2.2. Tài liệu nghiên cứu về giáo dục học, phương pháp dạy học
a/ Tài liệu nghiên cứu nước ngoài
Tiến sĩ N.G.Đairi, Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào, NXB giáo dục, Hà Nội,
1973; N.V.Savin, Giáo dục học, tập 1, NXB giáo dục, 1983; B.P.Êxipôp, Những cơ sở
của lý luận dạy học, Tập 3, NXB giáo dục, 1971; I.Ia.Lécne, Dạy học nêu vấn đề, NXB
giáo dục, Hà Nội, 1977 các tác giả đã khẳng định hoạt động nhận thức tích cực độc lập

của học sinh là một điều kiện bắt buộc đối với giờ học được tổ chức một cách khoa học và
có hiệu quả. Đồng thời cũng đã nêu ra vấn đề làm thế nào để khởi gợi được hoạt động nhận
thức tích cực của học sinh để các em nắm được những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Đồng thời
tác giả cũng chỉ rõ những biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy học trong học tập.
b/ Tài liệu nghiên cứu trong nước
Bộ giáo trình do Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi biên soạn,
cuốn Phương pháp dạy học lịch sử tập I, II , Nxb Đại học Sư Phạm, 2010; Cuốn sách do
PGS.TS Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Hệ thống các phương pháp dạy học ở trường trung
học cơ sở, Nxb Đại học Sư phạm, 2005. Đây là cuốn giáo trình về phương pháp dạy học
lịch sử, cung cấp lượng kiến thức về cách thức tổ chức dạy học; những cơ sở để xác định,
lựa chọn hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS; nêu ra hệ thống các
phương pháp, phương tiện dạy học lịch sử ở trường THCS. Những kỹ năng, biện pháp sử
dụng các phương pháp trong thực tiễn dạy học lịch sử. Cuốn sách còn đề cập đến phương
hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh.
Ngoài ra còn phải kể đến các công trình nghiên cứu khác của các tác giả Thái Duy
Tuyên, Phương pháp dạy học - Truyền thống và đổi mới, Nxb Giáo dục, 2008; Nguyễn Thị
Côi (Chủ biên), Các hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường phổ thông, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2005; Đặng Thành Hƣng, Dạy học hiện đại – Lí luận, biện pháp, kĩ thuật,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002; Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng… Phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1999;… Đây là những bộ sách giúp cung cấp phần đáng kể kiến thức về phương pháp dạy
học bộ môn, các hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh và
lấy học sinh làm trung tâm. Kết hợp nhuần nhuyễn những mặt tích cực của phương pháp dạy
học truyền thống với phương pháp dạy học hiện đại, kết hợp phù hợp dựa trên những hiểu
biết sâu sắc về tâm lí lứa tuổi học sinh.
3. Đối tƣợng nghiên cứu: Là quá trình giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và giải phóng dân tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1945,
lớp 12 trường THPT.
4. Phạm vi nghiên cứu

4.1. Phạm vi nội dung: Do hạn chế về thời gian và trong phạm vi giới hạn của đề tài,
chúng tôi không đi sâu trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng
dân tộc mà chỉ tập trung vào việc nghiên cứu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc cho học sinh THPT.
4.2. Phạm vi địa bàn thực nghiệm: trường THPT Hùng Vương và trường THPT Lý Bôn
(Huyện Vũ Thư, Thái Bình).
5. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam mà còn góp
phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và giải phóng dân tộc, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 một số
vấn đề về lý luận dạy học hiện đại, …
- Điều tra khảo sát thực tiễn dạy học lịch sử hiện nay tại trường THPT đặc biệt là
việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trong dạy
học bộ môn.
- Xác định những yêu cầu phải thực hiện cũng như những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cho học
sinh THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm kiểm chứng.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phƣơng pháp luận
- Đề tài dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng, nhà nước về công tác giáo dục và đổi
mới giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của thế hệ trẻ, đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ, trung thành với con đường đi lên XHCN.
- Những nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc
trong giai đoạn 1919 - 1945.
- Đề tài còn dựa vào quan điểm dạy học một số nước trên thế giới và trong khu vực

hiện nay; những quan điểm của lý luận dạy học hiện đại, giáo dục học, tâm lý học,
phương pháp dạy học bộ môn có liên quan.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Dựa trên nghiên cứu các tài liệu từ các nguồn: sách, báo, tạp chí, internet…
nghiên cứu tổng quát về các vấn đề liên quan:
- Nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 và tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc giai đoạn này.
- Chức năng giáo dục nói chung của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông và giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc nói riêng đối với học
sinh THPT hiện nay.
- Những yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp sư phạm và một số biện pháp
được đưa ra nhằm giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc cho học sinh THPT.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phỏng vấn, tiến hành điều tra bằng phiếu đối với giáo viên dạy bộ môn lịch sử, học
sinh trường THPT Hùng Vương và trường THPT Lý Bôn (Thái Bình) và học viên lớp
cao học chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học lịch sử khoá 4, 5, 6 (2009 -
2012). Tất cả nhằm bổ sung thêm các luận cứ đưa ra trong đề tài một cách xác đáng và
trung thực nhất.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu thực hiện tốt các đề xuất được đưa ra trong luận văn thì sẽ góp phần không chỉ
nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam mà còn nhằm nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn lịch sử trường phổ thông.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về phương pháp dạy học nói
chung và phương pháp dạy học môn lịch sử nói riêng; đồng thời nhằm nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn tại các trường phổ thông.
- Nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu tham khảo với sinh viên trường sư phạm, các

bạn đồng nghiệp và đặc biệt những giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử tại các trường phổ
thông.
9. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài gồm có 2 chương lớn:
Chương 1. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường trung học phổ thông - Lý luận
và thực tiễn.
Chương 2. Các biện pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
giải phóng dân tộc trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1945, lớp 12 trung
học phổ thông. Thực nghiệm sư phạm.
CHƢƠNG 1
GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc
1.1.1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và giải phóng dân tộc
a/ Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Với sự xâm lược
của thực dân Pháp đã đẩy Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến với mâu
thuẫn chính yếu là mâu thuẫn dân tộc.
b/ Sự bế tắc con đường cứu nước
Sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan, những phong trào đấu tranh của nhân dân Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tuy có diễn ra sôi nổi nhưng tất cả đều thất bại do chưa
có đường lối lãnh đạo đúng đắn, xác định lực lượng cách mạng chưa đúng, Tất cả đòi hỏi
cần phải có một một con đường giải phóng dân tộc đúng đắn.
c/ Những nhân tố chính ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc

Nhân tố đầu tiên: Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa
yêu nước.
Nhân tố thứ hai: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin và Quốc tế
cộng sản
Nhân tố thứ ba: Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
Nhân tố thứ tư: Tài năng và phẩm chất của Hồ Chí Minh
1.1.1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
* Thứ nhất: Ở Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc được đề cập là vấn đề dân tộc thuộc
địa và thực chất của vấn đề đó là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa
nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá bỏ ách áp bức, bóc
lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Thứ hai: Tuyệt đối tôn trọng quyền dân tộc tự quyết, đấu tranh cho độc lập của
dân tộc Việt Nam, đồng thời đấu tranh cho độc lập của các tất cả các dân tộc
Thứ ba: Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất đất nước.

b/ Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản. Đây là con đường dẫn tới thắng lợi triệt để của sự nghiệp cứu nước giải phóng
dân tộc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành được thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược và sách lược trong cách mạng giải phóng
dân tộc
- Lực lượng tham gia cách mạng và hình thức cách mạng phải thích hợp.
1.1.2. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông với việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Vị trí, mục tiêu của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông
Về kiến thức: giúp học sinh nắm vững được những kiến thức cơ bản về các sự kiện
lịch sử tiêu biểu của thế giới và dân tộc trên cơ sở củng cố, phát triển nội dung kiến thức
lịch sử ở bậc THCS, hợp thành hệ thống kiến thức về sự phát triển của lịch sử từ thời

nguyên thuỷ cho đến nay.
Như vậy, nhiệm vụ giáo dưỡng trong mục tiêu của môn lịch sử ở trườg THPT là cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, bao gồm: sự kiện lịch sử cơ bản, nhân vật tiêu
biểu, thời gian, không gian, các khái niệm, thuật ngữ, những hiểu biết về quan điểm lý luận
sơ giản, những vấn đề về phương pháp nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và trình
độ học sinh.
Về kỹ năng: tiếp tục hoàn thành các kỹ năng cần thiết cho học tập lịch sử đươc rèn
luyện ở tiểu học, THCS như có quan điểm lịch sử khi xem xét sự kiện và nhân vật lịch
sử, làm việc với sách giáo khoa và các nguồn sử liệu, biết phân tích, so sánh, tổng hợp,
khái quát…. Có năng lực tự học, phát hiện, đề xuất giải quyết vấn đề học sinh nâng cao
hơn năng lực tư duy và thực hành.
Về thái độ, tình cảm, tƣ tƣởng: bộ môn lịch sử có ưu thế trong việc giáo dục tư
tưởng, đạo đức, thái độ, tình cảm cho học sinh, góp phần vào việc đào tạo con người Việt
Nam toàn diện:
+ Giáo dục lòng yêu XHCN, lòng yêu quê hương đất nước - một biểu hiện của
lòng yêu nước, trong lao động sản xuất cũng như trong tranh đấu giành độc lập dân tộc,
bảo vệ tổ quốc.
+ Bồi dưỡng tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh cho
độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hoà bình, dân chủ.
+ Củng cố niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người và dân tộc
dù trong tiến trình lịch sử có những bước quanh co, khúc khủy, tạm thời thụt lùi hay dừng
lại.
+ Có ý thức làm nghĩa vụ công dân, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
1.1.2.2. Bộ môn lịch sử với việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải
phóng dân tộc
Về kiến thức: Lịch sử Việt Nam là lịch sử của cả một quá trình dựng nước và giữ
nước, trong suốt chiều dài lịch sử, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc đã trở thành vấn đề
trọng tâm và cốt lõi. Đặc biệt, nội dung lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 có nội dung
xoay xung quanh vấn đề chủ yếu là vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc.
Song song với đó, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1919 - 1945 cũng

xoay quanh vấn đề chủ yếu là vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Qúa trình đó được
Nguyễn Ái Quốc tiến hành trải nghiệm, tìm tòi, so sánh và lựa chọn và hoàn thiện suốt
từ những năm 1911-1930. Với sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và đưa ra
"Cương lĩnh chính trị đầu tiên" của Đảng vào năm 1930 đã chính thức bước đầu khẳng
định trước đông đảo đồng chí của mình về chiến lược và sách lược giải phóng dân tộc.
Từ năm 1930 - 1945 là quá trình khó khăn và có nhiều chuyển biến của cách mạng
Việt Nam nhưng cũng chính trong giai đoạn này, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và giải phóng dân tộc mới được kiểm nghiệm và chứng tỏ tính đúng đắn của nó
trong bối cảnh của Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến - và một lần nữa
lịch sử lại chọn con đường cứu nước mà Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, với những chủ
trương chiến lược, sách lược rất quyết đoán cho cách mạng Việt Nam bằng hội nghị
BCH TW Đảng cộng sản Đông Dương lần VI (11/1939) và hoàn thiện vào hội nghị
BCH TW Đảng cộng sản Đông Dương lần VIII (5/1941). Chính việc lựa chọn và
quyết định sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã
đi tới thắng lợi cuối cùng với cách mạng tháng Tám 1945 thành công, chấm dứt hơn
tám mươi năm chế độ cai trị của thực dân Pháp, gần năm đô hộ của phát xít Nhật và
hàng nghìn năm của chế độ phong kiến Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên: độc lập - tự do - hạnh phúc.
Về kỹ năng: Thông qua quá trình tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 ở lớp 12 THPT (Chương trình chuẩn) sẽ góp phần rèn luyện
cho học sinh những kỹ năng phù hợp với đặc trưng bộ môn như: kỹ năng nhận biết, tái hiện
kiến thức lịch sử, kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh, đối chiếu các sự kiện hiện
tượng… đặc biệt là khả năng vận dụng kiến thức lịch sử để nhận biết kiến thức mới và vận
dụng trong thực tiễn. Kiến thức lịch sử giai đoạn 1919 - 1945 hết sức phong phú và phức
tạp. Nó đề cập đến một loạt những vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giai cấp, đấu tranh
giai cấp. Để làm sáng tỏ những sự kiện, hiện tượng của lịch sử Việt Nam giai đoạn này, đòi
hỏi học sinh phải có những kỹ năng phù hợp với đặc trưng bộ môn.
Về thái độ: Với những ưu thế nhất định của bộ môn, lịch sử có vai trò giáo dục học
sinh trong việc hình thành và phát triển hầu hết những giá trị nhân cách con người. Đồng
thời lịch sử còn có tác dụng giáo dục những truyền thống tốt đẹp của lịch sử dân tộc. Trong

giai đoạn 1919 - 1945, học sinh sẽ thấy được tình cảnh nhân dân Việt Nam dưới ách cai trị
của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phát xít, từ đó hiểu rõ được khát khao cháy bỏng của
dân tộc là độc lập, giải phóng dân tộc và càng hiểu rõ về tinh thần đoàn kết dân tộc, lòng
yêu nước nồng nàn. Thông qua quá trình giảng dạy, học sinh sẽ càng được củng cố lòng
biết ơn những người có công với Tổ quốc, từ đó, các em sẽ có những nhận thức đúng đắn
và vững vàng về những người anh hùng Việt Nam.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Để hiểu rõ thực tiễn sử dụng các biện pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc và giải phóng dân tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn
1919-1945 ở trường THPT, chúng tôi đã tiến hành điều tra thực tế tại trường THPT Hùng
Vương (Huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) thông qua việc phát phiếu điều tra, phỏng vấn trực
tiếp, dự giờ tham lớp đối với học sinh trường THPT Hùng Vương và trường THPT Lý Bôn
(Thái Bình) khối 12.
Đồng thời, để phục vụ tốt hơn cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
bằng phiếu câu hỏi trắc nghiệm với tập thể học viên cao học môn lịch sử khoá 4, 5, 6 (2010-
2012) và giáo viên giảng dạy bộ môn lịch sử trường THPT Hùng Vương và trường THPT Lý
Bôn (Huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình).
Kết quả khảo sát cho thấy nhiều vấn đề còn tồn tại trong khâu tiến hành giảng
dạy ở phía giáo viên và việc thực hiện học tập ở học sinh:
- Cả giáo viên và học sinh đều thấy được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc nhưng kết quả thực hiện còn khá hạn chế.
- Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thực tế trên nhưng chủ yếu do: biên soạn
chương trình dàn trải, chưa tập trung gây khó khăn chủ yếu cho nhận thức của học sinh;
tuy được đánh giá cao trong các nội dung trọng tâm nhưng phần về Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh lại được trình bày lồng ghép, đan xen với các nội dung kiến thức khác khiến
kiến thức chưa trở thành đơn vị hoàn chỉnh; công tác tiến hành giảng dạy còn mang tính
lồng ghép, chưa có sự đầu tư cao về chất lượng. Vấn đề "ngại" đổi mới của giáo viên; suy
nghĩ môn chính - phụ chi phối…

* *

*
Thông qua những phân tích trên đây, có thể thấy nội dung nổi bật của lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1919 - 1945 là về vấn đề đấu tranh để giải phóng dân tộc, và tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn 1919 - 1945 cũng chủ yếu là về vấn đề dân tộc và giải phóng
dân tộc. Tư tưởng trên đã thể hiện tính đúng đắn, khoa học và sự vận dụng linh hoạt chủ
nghĩa Mac-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Mặc dù trải qua quá trình đấu tranh lâu dài
nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn trong tư tưởng về vấn đề giải phóng
dân tộc của Hồ Chí Minh. Đặt trong bối cảnh hiện nay, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề giải phóng dân tộc cho học sinh THPT không chỉ nhằm góp phần đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ mà còn trung thành với lý
tưởng cộng sản và là con người Việt Nam XHCN, có trách nhiệm trong việc bảo vệ nền
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Tuy nhiên, trên thực tế, qua khảo sát điều tra có thể thấy việc dạy và học tư tưởng
Hồ Chí Minh trong nhà trường phổ thông thực sự chưa có hiệu quả và được đánh giá cao.
Những cuộc vận động như "Học tập là làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
thực sự chưa đi sâu và có hiệu quả cao vào trong các trường học phổ thông. Điều này đã
gây một rào cản lớn đối với việc thực hiện mục tiêu đào tạo con người Việt Nam. Chính
vì thế, đòi hỏi cần phải có những biện pháp khả thi, có tính hiệu quả cao đối với công tác
giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở bậc THPT.

CHƢƠNG 2 CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1945, LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

2.1. Mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945
2.1.1. Mục tiêu
a/ Về kiến thức
- Trình bày được tình hình thế giới nói chung và tình hình đế quốc Pháp nói riêng đã
tác động đến nước ta. Biến đổi của Việt Nam dưới chương trình khai thác thuộc địa lần 2 của

Pháp, đặc biệt là về mặt xã hội. Mâu thuẫn chính trong xã hội là mâu thuẫn dân tộc. Đây
chính là nguyên nhân chính dẫn tới các phong trào đấu tranh của nhân dân ta đầu thế kỷ XX.
- Những năm 1919 - 1930, phong trào cách mạng Việt Nam diễn ra sôi nổi với
các hoạt động đấu tranh ở trong nước của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản và đặc biệt là phong
trào đấu tranh của công nhân Việt Nam. Bên cạnh phong trào sôi nổi ở trong nước là
những hoạt động của những người Việt Nam ở nước ngoài, tiêu biểu nhất là hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Với quá trình hoạt động và tìm ra con đường cứu nước
từ năm 1919 - 1920 và sự chuẩn bị tất yếu về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra
đời của chính Đảng Cộng Sản ở Việt Nam sau này.
- Từ năm 1925 - 1930, phong trào cách mạng Việt Nam phát triển sôi nổi với sự
xuất hiện cả 3 tổ chức cách mạng và sau đó là 3 tổ chức cộng sản. Điều này đặt ra yêu
cầu bức thiết là phải có sự hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính Đảng duy nhất.
Ngày 6/1/1930, tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành chính Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt
Nam.Tại hội nghị cũng chính thức thông qua “Cương lĩnh chính trị” đầu tiên của Đảng
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, vạch ra phương hướng chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam và khẳng định con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô
sản.
- Từ năm 1930 - 1945 là quá trình cách mạng ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, lần
lượt trải qua ba lần tập dượt cao trào 1930 - 1931, cao trào 1936 - 1939. Đặc biệt là giai
đoạn 1939 - 1945 với sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược kịp thời, sáng suốt qua hai hội
nghị BCH TW Đảng lần VI (9/1939) và lần VIII (5/1941) phù hợp với những biến
chuyển mau lẹ của tình hình thế giới va trong nước. Với sự chuyển hướng này và những
biện pháp cụ thể sau đó đã đưa tới thành công của đất nước ta trong tổng khởi nghĩa cách
mạng tháng 8 năm 1945, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: độc lập, tự do,
hạnh phúc.
b/ Về kỹ năng
Học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945, học sinh sẽ phát triển các năng
lực của nhận thức như tri giác, tưởng tượng, trí nhớ và đặc biệt là tư duy. Bên cạnh đó,
còn phát triển các thành phần nhân cách riêng như niềm hứng thú, say mê với công việc

học tập, nghiên cứu và đặc biệt là phát triển các kỹ năng, kỹ xảo trong học tập bộ môn
như sử dụng bản đồ, tranh ảnh, tài liệu
Hơn nữa còn giúp học sinh nâng cao phương pháp học tập lịch sử qua việc phát huy
tính tích cực học tập, nắm vững kiến thức cơ bản, tìm hiểu mối liên hệ, so sánh giữa nội dung
kiến thức lịch sử giai đoạn này với giai đoạn trước đó và giai đoạn sau, từ đó nâng cao khả
năng so sánh, phân tích, tổng hợp vấn đề, rút ra quy luật về các sự kiện đang học. Đồng thời,
các em sẽ được nâng cao, tăng cường các kỹ năng thực hành bộ môn, kiểm tra,đánh giá.
c/ Về thái độ, tư tưởng, tình cảm
Có lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tin vào sức mạnh của nhân dân ta cùng
với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, giải
phóng dân tộc. Có tinh thần đoàn kết quốc tế. Niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn đối với
những anh hùng, chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập tổ quốc. Từ đó, có trách nhiệm đối với quê
hương, đất nước, xác định động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ
quốc. Đồng thời, bồi dưỡng cho các em niềm say mê học tập và cống hiến cho Tổ quốc,
phát huy tinh thần của người công dân tương lai trong thời hiện đại. Bồi dưỡng thế giới
quan và nhân sinh quan cách mạng, hình thành tư tưởng chính trị và đạo đức cho học
sinh.
2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945 (Chương trình
chuẩn)
Giai đoạn 1919 - 1930: Phong trào yêu nước cách mạng ở nước ta từ sau chiến tranh
thế giới I - Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời
Cuộc khai thác thuộc địa lần 2 (1919-1929) của thực dân Pháp đã làm nền kinh tế và
xã hội Việt Nam biến chuyển sâu sắc, tạo cơ sở xã hội, điều kiện chính trị để tiếp thu
luồng tư tưởng cách mạng vô sản từ bên ngoài truyền bá vào Việt Nam. Trong bối cảnh đó,
Nguyễn Ái Quốc và một số nhà yêu nước khác đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, truyền bá về
Việt Nam, làm chuyển biến phong trào yêu nước chống Pháp từ lập trường tư sản sang lập
trường vô sản. Đặc biệt trong phong trào công nhân Việt Nam thời kỳ này do sự tiếp thu tư
tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin đã có sự chuyển biến về chất, từ lập trường yêu nước sang lập
trường cộng sản, từ một nhóm người tổ chức lỏng lẻo, tự phát chuyển sang một tổ chức có
đường lối lãnh đạo rõ ràng, đúng đắn. Sự phát triển của phong trào công nhân, phong trào

yêu nước Việt Nam dẫn tới sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản đầu tiên ở nước ta Đông
Dương cộng sản Đảng (6/1929), An Nam cộng sản Đảng (8/1929), Đông Dương cộng sản
liên đoàn (9/1929). Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản chứng tỏ phong trào cách mạng ở
Việt Nam phát triển vượt bậc, tuy nhiên gây những hạn chế nhất định cho cách mạng bởi
sự tranh chấp thành viên, phạm vi ảnh hưởng khiến nội bộ cách mạng suy yếu. Trước tình
hình trên, với cương vị là phái viên Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu
tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc)
ngày 6/1/1930. Hội nghị đã hợp nhất các tổ chức thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Các văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua trở thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt
Nam những năm 20 của thế kỷ XX, là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, Đảng ra đời là điều kiện tiên quyết, là vấn đề cốt tử, quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn 1930 - 1945: phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Ngay khi mới ra đời, trong cao trào cách mạng 1930-1931 với 2 khẩu hiệu chiến
lược "Độc lập dân tộc", "Người cày có ruộng", Đảng đã tập hợp được giai cấp nông dân
và công nhân hình thành khối liên minh công - nông, đội quân chủ lực của cách mạng. Kẻ
thù đã dìm phong trào trong biển máu nhưng nhờ quần chúng mà Đảng đã vượt qua
"khủng bố trắng", phục hồi lực lượng cách mạng từ năm 1932-1935, để tiếp tục xây dựng
về chính trị, phát triển về tổ chức, trở thành lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam.
Đây là cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng nhân dân chuẩn bị cho cách mạng
tháng 8/1945.
Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 là thời kỳ đấu tranh rộng lớn của quần chúng chống lại
bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi quyền tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo, hoà bình. Đây là
cuộc tập dượt lần thứ hai của Đảng và quần chúng nhân dân chuẩn bị cho cách mạng tháng 8 năm
1945 thắng lợi.
Bước sang giai đoạn 1939-1945, chiến tranh thế giới lần 2 bùng nổ. Ngày
22/9/1940, Nhật nhảy vào Việt Nam, Pháp - Nhật câu kết với nhau cùng đô hộ nhân dân

ta, đẩy nhân dân ta rơi vào tình trạng "một cổ đôi tròng". Trước bối cảnh mới, Đảng ta đã
có sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được đề ra đầu tiên ở hội nghị trung
ương Đảng lần VI (11/1939) dưới sự chủ trì trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Cừ; hội
nghị trung ương Đảng lần VII (11/1940) và hoàn chỉnh ở hội nghị trung ương Đảng lần
VIII (5/1941) dưới sự chủ trì trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Qua các hội nghị
đã xác định và nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đề ra những biện pháp,
chủ trương đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt để thực hiện được nhiệm vụ trên. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chính phủ và Mặt trận Việt minh, ta đã tiến hành chuẩn bị xây dựng lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng cho cách mạng tháng 8/1945.
Khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), thời cơ cho cách mạng Việt Nam đã tới nhưng chưa
chín muồi, Đảng đã ra bản chỉ thị "Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta",
đồng thời vận động quần chúng nhân dân tiến hành cao trào kháng Nhật cứu nước. Đây là
cuộc tập dượt cuối cùng cho Đảng và quần chúng trước cách mạng tháng 8/1945, có tác
dụng khiến cho địch rệu rã ở từng bộ phận, là tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa cách
mạng tháng 8 diễn ra thuận lợi. Chiến tranh thế giới 2 đang bước vào giai đoạn cuối
cùng. Phát xít Đức, Italia đã bị quân đồng minh đánh bại hoàn toàn, phát xít Nhật đang
trong cơn hấp hối. Với sự tham chiến của Liên Xô tại Trung Quốc vào ngày 8/8/1945 và
2 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản tại Hirôshima và Nagaxaki vào ngày 6/8
và 9/8 đã quyết định số phận của tên phát xít cuối cùng. Ngày 15/8/1945, Nhật Bản tuyên
bố đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc. Lúc này bọn Nhật ở Đông Dương như rắn
mất đầu, chính phủ bù nhìn thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang, rệu rã. Về phía ta,
Đảng và quần chúng nhân dân đã trải qua 3 cuộc tập dượt, rút ra được nhiều bài học kinh
nghiệm, lực lượng của ta đã được chuẩn bị chu đáo; thời cơ ngàn năm có một cho cách
mạng nước ta đã đến. Trung ương Đảng, chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động
quần chúng tiến hành tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8. Từ nông thôn đến thành thị, các
đội tự vệ vũ trang kết hợp với lực lượng chính trị, quần chúng nhân dân tiến hành giành
chính quyền mau lẹ, khẩn trương. Cách mạng tháng 8 thành công là một quá trình chuẩn bị
trong suốt 15 năm nhưng giành được thắng lợi chỉ trong 15 ngày. Ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình, trước hàng nghìn đồng bào, Hồ Chủ Tịch đã đọc bản "Tuyên ngôn độc
lập", khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chính thức mở ra trang sử mới trong

lịch sử dân tộc Việt Nam.
2.2. Những yêu cầu cơ bản khi xác định các biện pháp giáo dục tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc.
2.2.1. Khai thác triệt để nội dung lịch sử để giáo dục học sinh
Sách giáo khoa không phải là "pháp lệnh" với giáo viên dạy nhưng lại là loại tài
liệu phổ biến nhất và gần gũi nhất đối với cả giáo viên và học sinh, do đó bám sát nội
dung sách giáo khoa, yêu cầu của chương trình là một trong những yêu cầu căn bản đầu
tiên mà người giáo viên cần quan tâm. Việc bám sát những yêu cầu và nội dung lịch sử
được đề cập trong khoá trình sẽ giúp giáo viên xác định dạy cái gì, dạy như thế nào, học
sinh học cái gì và học như thế nào, từ đó giúp giáo viên thực hiện được những mục tiêu
bộ môn và mục tiêu bài học hướng tới.
Tuy nhiên, sách giáo khoa thường là "tĩnh" bởi nó chỉ dừng ở một giai đoạn lịch sử
nhất định và thường chậm hơn so với sự phát triển của thế giới. Do đó, trong quá trình
giảng dạy, bên cạnh việc bám sát những nội dung cơ bản và sử dụng, khai thác triệt để
những nội dung đó để làm nổi bật "bản chất" vấn đề thì để phản ánh kịp thời tính hiện đại
của kiến thức lịch sử cần truyền thụ cho học sinh, người giáo viên cần không bao giờ thoả
mãn với việc chỉ nắm nội dung sách giáo khoa mà phải luôn luôn nghiên cứu, học tập thêm
các tài liệu mới để nâng cao trình độ khoa học của mình nhằm làm bài học phong phú, sâu
sắc, phản ánh kịp thời sự thay đổi thời đại. Đó chính là yêu câu cần đổi mới không ngừng
của người giáo viên giỏi.
2.2.2. Đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng đồng thời phải tôn trọng sự thật lịch sử
Tính tư tưởng trong dạy học lịch sử cũng như trong nghiên cứu sử học mác xít
lêninnít thể hiện ở việc đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quan điểm chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; ở việc góp phần đào tạo thế hệ trẻ theo mục
tiêu đã xác định.
Tính tư tưởng thống nhất với tính khoa học trong nghiên cứu cũng như dạy học
lịch sử đòi hỏi chúng ta phải bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện quan điểm
tư tưởng, phẩm chất đạo đức của người giáo viên lịch sử. Hai mặt tính tư tưởng và tính
khoa học không mâu thuẫn với nhau nhưng cần tránh bệnh "công thức", "giáo điều". Do
đó, trong dạy học lịch sử nói chung và giảng dạy về Hồ Chí Minh nói riêng, muốn khắc

sâu những hình ảnh về Bác, đạo đức, tư tưởng của Bác trong thế hệ trẻ thì điều đầu tiên
cần phải tuân thủ là tôn trọng sự thực khách quan, dù là chi tiết nhỏ nhất. Vì nếu không
có sự kiện chính xác thì sẽ không có hình ảnh chân thật. Cần để học sinh thấy khâm phục
Bác nhưng không thấy xa cách và khó học tập, tránh cường điệu hoá chi tiết ít có ý nghĩa
quan trọng khiên học sinh có thái độ hiếu kỳ. Tạo dựng lòng nhiệt huyết của thanh niên
về nguyện vọng tha thiết muốn được sống, chiến đấu và học tập theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; ước vọng muốn được cống hiến công sức cho sự nghiệp dựng xây đất
nước…
Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng bậc nhất của nhận thức lịch sử
2.2.3. Sự kiện, hiện tượng lịch sử phải được trình bày cụ thể, sinh động hấp dẫn
Một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong quá trình tiến hành là
các sự kiện, hiện tượng lịch sử phải được trình bày cụ thể, sinh động hấp dẫn. Thông qua
lời nói của giáo viên với ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh, sẽ dẫn dắt học
sinh trở về với quá khứ của lịch sử, tạo được biểu tượng rõ ràng, cụ thể về một nhân vật,
một biến cố, hiện tượng lịch sử….; việc sử dụng tài liệu sách giáo khoa và các tài liệu
tham khảo khác như tài liệu lịch sử, văn kiện Đảng và nhà nước, tài liệu văn học
Thông qua đó, giúp cho những sự kiện, hiện tượng lịch sử trở nên ấn tượng hơn, khơi gợi
được những cảm xúc của học sinh và từ đó, các em có những nhận xét và ấn tượng về bài
học lịch sử đang đề cập. Đó là những vấn đề quan trọng trong quá trình dạy học đồng thời
cũng là cách thức, là biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn.
2.2.4. Phát huy tính tích cực của học sinh
Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,
về lịch sử, xuất phát từ tình hình nhiệm vụ cách mạng nước ta, Đảng đã đề ra phương
châm, nguyên lý giáo dục được tập trung ở ba điểm: "học đi đôi với hành, giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với
gia đình và giáo dục xã hội". Trên cơ sở đó, Luật giải phóng dân tộc nước ta cũng xác
định yêu cầu đối với phương pháp giáo dục được xem là nguyên tắc chỉ đạo việc dạy học
đó là phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi,
là nguyên tắc được quán triệt trong mọi hoạt động, mọi khâu của qúa trình giáo dục. Điều
này phù hợp với phương pháp dạy học mới của chúng ta bây giờ - lấy học sinh làm trung

tâm, học sinh là chủ thể của nhận thức (quá trình học tập) dưới sự hướng dẫn, giáo dục
của giáo viên, trong khuôn khổ nhà trường,theo chương trình mục tiêu đã quy định.
2.2.5. Phải dựa trên tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
Việc giảng dạy và học tập ở trường phổ thông hiện nay đã cố gắng đưa vào nội dung
các môn học những hiểu biết cần thiết về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ,
song do cải cách giáo dục, do đặc trưng của từng khối về mục tiêu kiến thức, kỹ năng,
thái độ đòi hỏi với môn học và do nhận thức của từng lứa tuổi mà công việc này cần
được tiến hành cẩn thận, chu đáo và phải có những yêu cầu cơ bản để đạt được mục tiêu
giáo dục đã đặt ra.
2.3. Các biện pháp giáo dục tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng
dân tộc
2.3.1. Các biện pháp trong bài nội khoá
2.3.1.1. Khai thác triệt để những nội dung liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc
a/ Những nội dung liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải
phóng dân tộc trong giai đoạn 1919 - 1945
Trong giới hạn, đề tài chỉ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
giải phóng dân tộc trong giai đoạn 1919 - 1945. Theo như biên soạn của sách giáo khoa,
nội dung lịch sử giai đoạn này được trình bày theo 2 chương, 5 bài. Bên cạnh những nội
dung lịch sử khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được
trình bày đan xen.
b/ Những yêu cầu sư phạm khi tiến hành khai thác các nội dung liên quan đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc
Thứ nhất: Giáo viên cần nắm vững và chủ động được nội dung kiến thức trong
giai đoạn lịch sử mình giảng dạy.
Thứ hai: Cần khai thác triệt để tất cả những nội dung có liên quan trình bày tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc và hệ thống hoá những nội dung đó
thành đơn vị kiến thức hoàn chỉnh với nội dung, tiêu đề cụ thể.
Thứ ba: Với đặc trưng về bộ môn và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đang được
bố trí trong sách giáo khoa là những chủ đề nhỏ, đan xen với nội dung lịch sử khác, do

đó, trong quá trình tiến hành, trong giai đoạn 1919 -1945, ngoài những nội dung đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc, người giáo viên cần liên hệ kiến
thức một cách nhuần nhuyễn với các nội dung kiến thức còn lại được trình bày trong sách
giáo khoa có liên quan đến yêu cầu chương trình và những ảnh hưởng, tác động của sự
kiện, hiện tượng lịch sử đó đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân
tộc
Thứ tư: Cần hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu, nắm được nội dung bài viết cũng
như phần tư liệu học tập.
2.3.1.2. Sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh như một nguồn sử liệu trong quá trình dạy học
Tài liệu tham khảo là phương tiện cần thiết để học sinh hiểu rõ hơn nội dung sách
giáo khoa và bài giảng trên lớp của giáo viên, giúp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ
môn. Bên cạnh việc khai thác những nội dung chính về tư tưởng Hồ Chí Minh trong sách
giáo khoa thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh khai thác thêm nguồn thông tin về Hồ
Chí Minh để làm sáng tỏ vấn đề, phong phú hơn nội dung kiến thức. Nói về những tài
liệu về Hồ Chí Minh rất phong phú, được trình bày dưới nhiều dạng tài liệu khác nhau
như: những bộ phim tư liệu; những mẩu chuyện nhỏ, những công trình nghiên cứu về
cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh…. Đây là những nguồn tư liệu bổ ích và quý giá,
phục vụ hiệu quả trong quá trình dạy và học, có sức minh chứng sống động và cụ thể về
vị lãnh tụ vĩ đại. Do đặc điểm là nguồn tài liệu về Hồ Chí Minh nói chung và tài liệu Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc nói riêng rất phong phú và đa dạng, do
đó trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần chú ý những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Sử dụng tài liệu tham khảo phải đáp ứng mục tiêu dạy học.
Thứ hai: Sử dụng tài liệu tham khảo nói chung và tài liệu về Hồ Chí Minh nói riêng
phải làm nổi bật nội dung cơ bản của bài học
Thứ ba: Việc sử dụng tài liệu lịch sử cần góp phần phát triển các năng lực nhận thức
của học sinh
Thứ tư: Biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh.
2.3.1.3. Trình bày sự kiện cụ thể thông qua lời nói, câu chuyện về Hồ Chí Minh để khắc
sâu hình ảnh, sự kiện cho học sinh
Trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, việc trình bày bằng miệng có ý

nghĩa rất quan trọng vì lời nói giữ vai trò chủ đạo trong quá trình giảng dạy của giáo viên
và học sinh. Việc trình bày miệng không chỉ để thực hiện phương pháp thông tin - tái
hiện nhằm khôi phục những hình ảnh quá khứ mà còn giúp học sinh nhận thực sâu sắc
các sự kiện, trình bày được những suy nghĩ, hiểu biết trong tìm tòi.
2.3.1.4. Tích hợp sử dụng công nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, xu thế toàn cầu hóa đặt ra nhiều thách
thức trong đào tạo nguồn nhân lực ở tất cả các nước trên thế giới. Môi trường dạy học,
vai trò của người dạy – người học có nhiều thay đổi đáng kể. Nếu như trước đây, phương
pháp dạy học chủ yếu là thuyết trình, “thầy đọc – trò chép”, thì ngày nay, các nhà giáo
dục đặc biệt là các nhà giáo dục lịch sử đã đưa ra một số phương pháp, quan điểm dạy
học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, tiến tới một phương pháp dạy
học mới, đạt được mục tiêu dạy học không phải chỉ cung cấp kiến thức khoa học mà còn
rèn luyện, phát triển kỹ năng, nhân cách cho người học. Phổ biến hơn cả trong những biện
pháp có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin mà giáo viên lựa chọn đó là việc thiết kế bài
giảng điện tử (sử dụng phần mềm Microsoft powerpoint). Việc dựa trên nền kiến thức cơ
bản trong sách giáo khoa, giáo viên tiến hành tích hợp sử dụng công nghệ thông tin trong
quá trình giảng dạy nhằm đổi mới phương pháp dạy học, đồng thời mang lại những hiệu
quả nhất định trong quá trình truyền thụ với những hiệu ứng, cách trình bày mà quá trình
sử dụng lời nói khó có thể thực hiện. Trên cơ sở bài soạn, giáo viên xây dựng bài trình bày
đa phương tiện trên PowerPoint thể hiện những nội dung cơ bản của bài học. Thiết kế bài
giảng trên chương trình này cho thấy những ưu điểm nổi bật.
2.3.1.5. Kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại
Không có phương pháp dạy học nào là vạn năng do đó việc lựa chọn phương pháp
phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học là một yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công
của việc dạy học. Trong một giờ học, giáo viên không chỉ sử dụng một phương pháp từ
đầu đến cuối mà cần có những phương pháp thích hợp cho từng phần. Do đó, trong quá
trình dạy học, bên cạnh những phương pháp dạy học như dùng lời nói nhằm khắc sâu
những hình ảnh, biểu tượng cho học sinh, thì giáo viên còn sử dụng kết hợp nhuần
nhuyễn những phương pháp khác, phù hợp với nội dung giảng dạy của bài đó như:
Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học (sử dụng bản đồ, sơ đồ, biểu đồ,

niên biểu…, sử dụng tranh ảnh lịch sử; sử dụng phim tư liệu lịch sử; sử dụng sa bàn, hiện
vật lịch sử …). Với những phương pháp dạy học phong phú trên, bài giảng sẽ trở nên
sinh động hơn rất nhiều, thể hiện được những ý tưởng của bài, đồng thời kích thích được
sự hứng thú học tập của học sinh.
2.3.2. Thực nghiệm sư phạm
2.3.2.1. Mục đích
Nhằm kiểm nghiệm tính thực tế và khả thi mà luận văn đã đề xuất.
Thông qua thực tiễn thực nghiệm sư phạm sẽ khẳng định vị trí, ý nghĩa, tác dụng
của việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc cho học sinh
THPT là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với mục tiêu đào tạo con người Việt Nam hiện nay
và cũng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
2.3.2.2. Nội dung và phương pháp thực nghiệm
Để bài thực nghiệm đạt kết quả cao, khẳng định tính khả thi mà đề tài nghiên cứu,
chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở trường THPT Hùng Vương, Vũ Thư, Thái Bình qua
bài:
Phần lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 2000
Chương II: Việt Nam từ 1919 đến 1930
Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945 và cách mạng tháng Tám năm
1945. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập (Tiết 2).
Nội dung thực nghiệm gồm một số công việc cơ bản sau:
- Chuẩn bị 2 giáo án:
+ Kiểu 1: Giáo án thực nghiệm như dự kiến của Luận văn: giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1919 - 1945 trường THPT (Chương trình chuẩn).
+ Kiểu 2: Giáo án đối chứng do giáo viên của trường chuẩn bị được soạn và dạy bình
thường.
- Kiểm tra chất lượng dạy học bằng cách cho học sinh cả lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm làm bài kiểm tra, đánh giá trong 10 phút cuối tiết học đó.
2.3.2.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm
- Tiến hành theo đúng phân phối chương trình và thời gian biểu do nhà trường đề ra

trong năm học 2011 - 2012, phù hợp với kế hoạch giảng dạy của Bộ giáo dục và Đào tạo.
- Chúng tôi chọn một lớp thực nghiệm và một lớp đối chứng:
+ Lớp thực nghiệm: Sử dụng giáo án kiểu 1, bài giảng được soạn theo phương pháp
dạy học mới, nhấn mạnh trọng tâm vào vấn đề giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh cho học sinh THPT .
+ Lớp đối chứng: Sử dụng giáo án kiểu 2, bài giảng được tiến hành thep
phương pháp dạy học truyền thống, nội dung được trình bày theo sách giáo khoa, không
đi tập trung vào vấn đề giải phóng dân tộc.
- Yêu cầu: Học sinh được chọn làm lớp đối chứng và thực nghiệm có sức học ngang
nhau, số lượng học sinh như nhau, điều kiện học tương đương nhau. Giáo viên tham gia
giảng dạy là những người giảng dạy lâu năm, có nhiều kinh nghiệm và tâm huyết với
nghề.
2.3.2.4. Tổ chức tiến hành thực nghiệm
- Địa bàn thực nghiệm: để tiến hành thực nghiệm sư phạm thuận lợi, chúng tôi chọn
trường THPT Hùng Vương (Huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình).
- Lớp thực nghiệm và đối chứng: chúng tôi lựa chọn 2 lớp 12A2 là lớp thực nghiệm và
12A3 là lớp đối chứng. Số lượng và trình độ nhận thức của học sinh 2 lớp ngang nhau, với
những học sinh có học lực khá, trung bình, yếu tương đồng nhau. Lớp 12A2 và 12A3 đều có
54 học sinh. Đây là một điều kiện thuận lợi cho chúng tôi khi tiến hành kiểm chứng tính khả
thi của đề tài.
Sau khi giảng xong, để đánh giá được kết quả cuối cùng của bài học, chúng tôi tiến
hành kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh hai lớp bằng bài kiểm tra nhanh 10 phút
ngay cuối tiết dạy đó. Câu hỏi kiểm tra hoạt động nhận thức giữa 2 lớp có nội dung hoàn
toàn giống nhau, bám sát vào nội dung bài học và có cụ thể đáp án cũng như barem chấm
điểm.

2.3.3.5. Kết quả
Trên cơ sở trên, chúng tôi đã tiến hành chấm bài, đánh giá kết quả của hai lớp thực
nghiệm và đối chứng. Sau khi chấm bài kiểm tra theo đúng thang điểm đã quy định, xếp
loại học sinh qua các mức giỏi, khá, trung bình, yếu – kém, chúng tôi thu được kết quả

thực nghiệm như sau:

Lớp
Số
học
sinh
Kết quả thực nghiệm
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
12 A2
Thực
nghiệm

54

10

18,5

30


55,6

12

22,2

2

3,7
12A3
Đối
chứng

54

5

9,3

17

31,4

27

50

5


9,3
Kết quả thực nghiệm trên cho thấy sự chênh lệch giữa lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm như sau:
- Điểm khá – giỏi: ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng là 33,4 %
- Điểm trung bình: ở lớp thực nghiệm thấp hơn lớp đối chứng là 27,8 %
- Điểm yếu kém: ở lớp thực nghiệm thấp hơn lớp đối chứng là 5,6%
Chất lượng dạy học lớp thực nghiệm luôn cao hơn lớp đối chứng. Điều đó chứng
tỏ học sinh lớp thực nghiệm với giáo án được soạn theo phương pháp dạy và hình thức tổ
chức dạy học phù hợp, kiến thức có trọng tâm, rõ ràng đã nắm vững kiến thức hơn lớp
đối chứng. Kết quả trên khẳng định tính khả thi cuả các biện pháp chúng tôi đề xuất trong luận
văn.
2.3.3. Các biện pháp trong bài ngoại khoá
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu bộ môn nói riêng, công tác
giảng dạy không chỉ được tiến hành trong những bài nội khoá mà còn được tiến hành qua
những hoạt động ngoại khoá. Việc tiến hành ngoại khoá có mối quan hệ chặt chẽ với các
hình thức tổ chức dạy học khác. Trong công tác ngoại khoá, hoạt động của thày và trò
được tiến hành chủ yếu ngoài giờ học trên lớp, nhưng nội dung và chủ đề hoạt động phải
sát với nội dung và học chính khoá và được quy định trong chương trình môn học.Hoạt
động ngoại khoá phải đạt được mục đích giáo dưỡng, giáo dục và phát triển như ở bài nội
khoá nhưng được thể hiện trên cơ sở và phương tiện khác. Ở đây, luận văn đề cập đến 2
hoạt động chủ yếu trong hoạt động ngoại khoá và giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
đọc tài liệu lịch sử để chuẩn bị cho những hoạt động dưới đậy:
- Hướng dẫn học sinh đọc tài liệu lịch sử để chuẩn bị và tham gia kể chuyện lịch
sử và trao đổi, thảo luận
- Hướng dẫn học sinh đọc tài liệu lịch sử để chuẩn bị và tham gia dạ hội lịch sử.
Trong chương trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1945, giáo viên có thể tổ chức
cho học sinh tiến hành một buổi dạ hội lịch sử về Hồ Chí Minh, để các em có thể hiểu rõ hơn
về Bác, cuộc đời và tư tưởng của Người.
* *
*

Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1945 có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong tiến
trình lịch sử Việt Nam. Nội dung về tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn này chủ yếu là .
Đây cũng là nội dung cơ bản của lịch sử giai đoạn này. Việc tiến hành giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cho học sinh là việc cần thiết vì nó
không chỉ phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, mà đây còn là phần làm sáng tỏ những
vấn đề liên quan đến trọng tâm kỳ thi. Và để tiến hành việc giảng dạy, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cho học sinh thuận lợi thì cần thiết
phải áp dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt các biện pháp khác nhau để đạt được hiệu quả giáo
dục cao nhất.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Mục tiêu giáo dục Việt Nam hướng tới đào tạo một thế hệ trẻ phát triển toàn diện
về đức, trí, thể, mỹ, có tinh thần cách mạng và trung thành với lý tưởng XHCN. Để thực
hiện mục tiêu trên, bên cạnh những thay đổi mang tính tích cực trong biên soạn sách giáo
khoa, chương trình học, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh thì một biện pháp không thể thiếu song song với đó là tiến hành
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT đặc biệt là về vấn đề dân tộc và giải
phóng dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta tuy đang trong quá trình đi lên xây
dựng XHCN, xây dựng đời sống mới nhưng bên cạnh đó, nhà nước ta vẫn vấp phải sự
chống phá của các lực lượng thù địch trong và ngoài nước trong âm mưu “diễn biến hòa
bình,bạo loạn lật đổ”, những tranh chấp xung quanh về vấn đề chủ quyền Tổ quốc ngày
càng trở nên căng thẳng việc phát huy và bảo tồn, gìn giữ những giá trị truyền thống,
tinh thần yêu nước, lòng tư tôn, tự hào dân tộc đang có chiều hướng suy giảm Trong
bối cảnh đó, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc
cho học sinh chứng tỏ khả năng thiết thực, hữu ích của mình.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, do nhiều hạn chế ở các mặt: biên soạn chương
trình, hạn chế trong trình độ giáo viên, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, trang thiết bị trong
việc dạy và học còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu, tâm lý môn chính và môn phụ điều này
khiến cho việc dạy và học bộ môn lịch sử nói chung và giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh

về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc càng trở nên khó khăn.
Nhưng những khó khăn, hạn chế trên phần nào có thể khắc phục được và việc giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc là hoàn toàn khả thi
khi phía giáo viên và các cấp ngành giải quyết được những yêu cầu cơ bản. Trên cơ sở
đó, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất: Chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 12 (Chương trình cơ bản) tuy đã
nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, giảm tải để phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong việc dạy và
học lịch sử và đã nhận được nhiều sự đồng thuận. Tuy nhiên, trong phần lịch sử Việt Nam,

×