Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

bai luan ve hoc tap trong dai hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.13 KB, 16 trang )

I.MỞ ĐẦU
Khi xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu đối với mỗi cá nhân ngày càng cao.Vai
trò của giáo dục và đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực có trình độ đại học cho đất nước,
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO và phấn đấu trở thành
đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để có thể nắm bắt toàn diện những kiến thức
chuyên môn ở bậc đại học đòi hỏi mỗi sinh viên phải có nhiều nỗ lực trong hoạt
động học tập, đặc biệt phải giành thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu. Vấn đề
tự học đóng vai trò quan trọng trong việc giúp sinh viên lĩnh hội kiến thức môn học
cũng như phát huy năng lực của bản thân trên cơ sở chính là sự hướng dẫn của
giảng viên.
Việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên là hoạt động vô cùng cần thiết, mặc dù
đã làm quen với hình thức tín chỉ, nhưng sinh viên vẫn gặp một số khó khăn do chưa
thực sự tìm ra phương pháp học tập hiệu quả nhất khi học theo hình thức này. Sinh
viên vẫn còn rất nhiều vướng mắc, khó khăn khi học tập, chưa thực sự dành nhiều thời
gian cho việc tự học, chưa xây dựng và rèn luyện kĩ năng tự học hợp lí. Do vậy, vấn đề
nghiên cứu các biện pháp phát huy tính tích cực của sinh viên khi học theo phương
thức tín chỉ ngay từ những năm đầu là vấn đề cần được quan tâm.
Chỉ có thể bằng con đường tự học sinh viên mới có thể học hỏi được điều gì đó. Nhiệm
vụ duy nhất của Nhà trường là tạo thuận lợi cho quá trình tự học. Nếu như không làm
được điều này, Nhà trường sẽ đánh mất ý nghĩa tồn tại của mình.
Isaac Asimov
II. NỘI DUNG
1. TỰ HỌC LÀ GÌ?
- 1 -
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc
để chiếm lĩnh kiến thức. Tự học phải là tự mình học ở mọi nơi, mọi lúc với điều kiện
nhất định. ở trên lớp, ở nhà, ở Thư viện hay khi “lướt sóng” trên mạng đều là quá trình
tiếp cận tri thức, xử lý thông tin để chắt lọc những thông tin có ích và biến thành tri
thức của mình. Tự học là việc con người phát huy những kiến thức, kĩ năng đã được
truyền lại bằng chính sức lực, khả năng của riêng mình. Bác Hồ đã từng dạy: “Học ở


trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”, Lê-nin đã khuyên: “Học,
học nữa, học mãi”. Vì thế, tự học là xác định được ý thức, học có mục đích và học một
cách tự giác.
Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng chính những lúng
túng đó lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy
mà thành thạo lên, và đã thành thạo thì hay đặt những dấu hỏi, phát hiện vấn đề và từ
đó đi đến có đề tài nghiên cứu.
Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, việc tự học của sinh viên với ý nghĩa có trách
nhiệm đối với chính bản thân họ phải được coi là mấu chốt, là động lực thôi thúc họ,
thậm chí trở thành vấn đề nóng bỏng trong học tập theo hệ thống tín chỉ hiện nay.
Tự học là vô cùng quan trọng vì nó khai thác triệt để thời gian nhàn rỗi trong
sinh viên và sinh viên có thể xoáy sâu nghiền ngẫm những điều thầy cô hướng dẫn,
giảng giải trên lớp. Điều đáng quan tâm là tự học sẽ rèn luyện khả năng nghiên cứu,
tiếp cận tri thức. Ngày nay, tiếp cận tri thức là phải xử lý thông tin. Xử lý thông tin
một cách đúng đắn, sáng tạo trong môi trường thông tin đa chiều xen lẫn sự phức tạp
và động cơ của người đưa tin là điều chẳng dễ dàng gì. Muốn có tri thức thì không thể
không tiếp cận thông tin.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo, một điều không thể quan tâm là sinh viên
phải chủ động tự học, coi tự học là vấn đề bức thiết, nếu có ý thức tự học thì sẽ tạo
thành thói quen cố hữu của con người trong suốt cuộc đời.
Suốt thời gian học tập ở trường đại học, nhà trường không thể trang bị đầy đủ
moi tri thức hành trang cho các sinh viên đi suốt cuộc đời mà chỉ trang bị những tri
thức cơ bản, những đường nét cơ bản để khi ra trường, nó trở thành nền tảng tri thức
chứ không hẳn đã là cẩm nang nhất thành bất biến trong suốt cuộc đời các sinh viên.
Phải coi tự học như là nhu cầu nội tại vươn lên làm chủ tri thức để làm việc và chủ
động hơn trong cuộc sống của sinh viên sau này - trong điều kiện nhiều môn học
- 2 -
không giảm số lượng và mức độ của tri thức, thậm chí tăng lên đồng thuận với yêu cầu
của xã hội ngày càng khắt khe đối với việc tuyển dụng nhân lực.
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường trung học

chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là
hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…)cùng các phẩm
chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những
kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân
người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái
niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh
nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình
huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử
nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào tháng 11
năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng
chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại
thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng
thực hành những tri thức ấy”.
Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn đi cùng,
gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá
nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các hoạt động tự
thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi SV phải tự thân tiếp nhận tri thức từ
nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở
mọi nơi mọi lúc.
2. VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA VIỆC TỰ HỌC
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học.
Trong quá trình hoạt động dạy học (DH) giảng viên (GV) không chỉ dừng lại ở việc
truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu sinh viên (SV) ghi nhớ mà quan
trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho SV tự mình khám phá ra những qui luật,
thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp SV không chỉ nắm bắt được tri thức mà
còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học

hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới
phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối
giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Bởi vì SV đại học không phải là những học sinh
cấp bốn. Họ cần có thói quen nghiên cứu khoa học, mà để có được thói quen ấy thì
không thể không thông qua con đường tự học. Muốn thành công trên bước đường học
tập và nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà
cuộc sống, khoa học đặt ra.
- 3 -
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ
cho quá trình học tập.
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ
động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo
dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào
tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động,
góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự
học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội
hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt
của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích
cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú
người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là
động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở
sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính
độc lập trong học tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng
định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi
biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ
không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những
tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ
môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng
tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng

ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự
học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm
tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.
3. KHÓ KHĂN CỦA VIỆC TỰ HỌC
Giáo trình học tập của sinh viên hiện nay cũng rất thiếu thốn và giáo trình kỹ
thuật khó hiểu. Đa số giáo trình do các trường tự viết, điều này gây khó khăn cho sinh
viên khi giáo trình mỗi trường lại mang một trường phái, quan điểm riêng. Hơn nữa,
kiến thức trong giáo trình đáng ra phải được cập nhật thường xuyên, tuy nhiên, hiện
các trường không thể có kinh phí để làm giáo trình mới nên đây là thiệt thòi của sinh
viên. Hiện giáo trình chung sử dụng quá nhiều, đây là một khó khăn cho sinh viên bởi
mỗi ngành học có một đặc thù, cần khối lượng kiến thức riêng nên sử dụng giáo trình
chung là chưa phù hợp. Giáo trình và tài liệu có vai trò đặc biệt, là điều kiện sống còn
trong đào tạo tín chỉ. Do vậy, các trường cần có giải pháp nâng cao chất lượng giáo
trình cũng như cung cấp đầy đủ cho sinh viên 3 loại sách là giáo trình, sách tham khảo
- 4 -
và sách chuyên khảo để sinh viên tự học thì mới có thể nâng cao được chất lượng đào
tạo trong các trường ĐH hiện nay.
Tính thụ động của sinh viên, lười đọc sách, ôn bài ở nhà, chỉ đợi đến giờ lên lớp
là học, không đầu tư kiến thức chuyên môn mặc dù đã có trang bị giáo trình, bài giảng
sẵn có trong tay. Chỉ học những gì giáo viên nêu ở lớp, nếu giáo viên tóm tắt vấn đề
thì sinh viên mới nắm được, đây là kiểu học ở bậc phổ thông, mang tính từ chương.
Chưa nắm được phương pháp tự học và cách học ở bậc đại học, nhất là bước
chuẩn bị nội dung ở nhà cho lần lên lớp kế tiếp. Thật ra lần lên lớp kế tiếp cách nhau
khoảng thời gian, không thể nói là không có thời gian chuẩn bị cho 1 môn học.
Một trở ngại lớn nữa là vấn đề mưu sinh, sinh viên gặp phải điều kiện kinh tế
khó khăn, phải đi làm thêm, đôi khi không dự lớp và không có thời gian tự học, vì thế
chất lượng học tập kém và không theo nổi việc học.
Vấn đề ngoại ngữ là một trở ngại lớn đối với việc sinh viên tự học. Khi đã bước
sang năm thứ 2 và 3, tất yếu là sinh viên cần phải đọc thêm nhiều tài liệu chuyên môn,

đa phần là sách nước ngoài, tài liệu tiếng Việt không nhiều, vì thế sinh viên không thể
tích lũy kiến thức chuyên ngành theo kiểu tự học qua sách, tài liệu chuyên môn ngoại
ngữ.
Vấn đề học ngành 2 là một trở ngại trong việc tự học vì phải mất khá nhiều thời
gian cho việc học trên lớp, sinh viên phải tự giải quyết việc trùng lịch học lý thuyết
hoặc lịch thực hành do đăng ký quá nhiều môn học trong cùng một học kỳ. Việc này
thường là do ý thích của sinh viên, mặc dù được Cố vấn học tập phân tích và hướng
dẫn kỹ lưỡng, nhưng sinh viên vẫn mắc phải.
Việc học nhóm gặp nhiều khó khăn do thời khóa biểu khác nhau.
Không có phòng cho sinh viên tự học đặc biệt là học nhóm.
Làm việc nhóm: đôi khi còn đùn đẩy cho nhau, chưa phát huy hết tính tự giác
trong học tập.

Để sinh viên (SV) tự học có hiệu quả, đòi hỏi nhà trường phải đáp ứng được các
nhu cầu rất lớn, đặc biệt là phòng ốc và thư viện Hiện nay nhìn chung thư viện và
phòng ốc của các trường đại học còn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và nghiên
cứu của sinh viên. Nhiều sách tham khảo giảng viên kê ra để SV tự học thì tìm tại thư
viện trường không có. Tại thư viện các trường nếu có mở cửa thì chỗ ngồi cũng hạn
chế lại nóng nực, nên SV thường ra sân trường tự học cho thoáng mát .Việc thư viện
mở cửa từ 7 giờ đến16 giờ 30 phút, trong khi nhu cầu tự học vào buổi tối rất cần thì
- 5 -
thư viện lại không mở cửa. Đây chính là những nguyên nhân không nhỏ gây khó khăn
cho SV trong việc tự học
4. CÁC HÌNH THỨC TỰ HỌC CƠ BẢN
Chủ yếu trên lớp và ngoài lớp.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có
sách và sự hướng dẫn của giáo viên
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá trình
nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây thể hiện

đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm
khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa
rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát
với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.Ở hình thức
tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy : Trường hợp này
người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó sẽ phát triển về tư
duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một
xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn : Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối
quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô
sơ hay hiện đại dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh
giá,
* Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau đó
sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc
tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của
quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập.
Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại
lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
- 6 -
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng
dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn
những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình thức này liên quan
trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung, phương
pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình
tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giáo viên và

quá trình tự học của sinh viên.
Theo Luật Giáo dục, học từ xa, vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn thuộc
phương thức giáo dục không chính quy (mục d- điều 41 Luật Giáo dục). Trong các
hình thức giáo dục này, người học chủ yếu phải tự học bằng sách giáo khoa, bằng các
loại học liệu, bằng kế hoạch và các điều kiện, phương tiện của mình để đạt được một
mục tiêu hay một chương trình đào tạo. Ví dụ: “Giáo dục từ xa là một tổng thể các
hoạt động do một cơ sở giáo dục đảm nhiệm nhằm khuyến khích sự học cho những
nguời không tới trường học hoặc không có điều kiện tới trường học”. (Đề án tổng thể
về phát triển giáo dục từ xa ở Việt Nam đến năm 2010 - Bộ Giáo dục và đào tạo 12 –
2002). Như vậy bản chất của việc học từ xa là tự học, người học phải biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo với sự trợ giúp của các cơ sở đào tạo.
5. KỸ NĂNG TỰ HỌC
A. Kỹ năng tự học cơ bản : Để đạt kết quả tốt trong tự học, người tự học cần nắm
vững những kỹ năng, phải rèn luyện để hình thành cho mình những kỹ năng. Căn cứ
vào chức năng của từng loại hoạt động có thể chia kỹ năng tự học làm bốn nhóm.
Thứ nhất : kỹ năng kế hoạch hóa việc tự học.
Kỹ năng này cần tuân thủ các nguyên tắt sau : Đảm bảo thời gian tự học tương
xứng với lượng thông tin của môn học; xen kẽ hợp lý giữa các hình thức tự học, giữa
các môn học, giữa giờ tự học, giờ nghỉ ngơi; thực hiện nghiêm túc kế hoạch tự học
như biết cách làm việc độc lập, biết tự kiểm tra.
Thứ hai : kỹ năng nghe và ghi bài trên lớp.
Quy trình nghe giảng gồm các khâu như ôn bài cũ, làm quen với bài sắp học,
hình dung các câu hỏi đối với bài mới. Khi nghe giảng cần tập trung theo dõi sự dẫn
dắt của thầy, liên hệ với kiến thức đang nghe, kiến thức đã có với các câu hỏi đã hình
- 7 -
dung trước. Cần lưu ý cách ghi bài khi nghe giảng như ghi một cách chọn lọc, sử dụng
kí hiệu riêng, ghi cả chính đề lẫn phản đề, ghi thắc mắc của chính mình.
Thứ ba: kỹ năng ôn tập.
Kỹ năng này được chia làm hai nhóm là kỹ năng ôn, kỹ năng tập luyện. Kỹ
năng ôn bài là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh kiến thức bài

giảng của thầy. Đó là hoạt động tái nhận bài giảng như xem lại bài ghi, mối quan hệ
giữa các đoạn rời rạc, bổ sung bài ghi bằng những thông tin nghiên cứu được ở các tài
liệu khác, nhận diện cấu trúc từng phần và toàn bài. Việc tái hiện bài giảng dựa vào
những biểu tượng, khái niệm, phán đoán được ghi nhận từ bài giảng của thầy, từ hoạt
động tái nhận bài giảng, dựng lại bài giảng của thầy bằng ngôn ngữ của chính mình,
đó là những mối liên hệ lô gic có thể có cả kiến thức cũ và mới.Kỹ năng tập luyện có
tác dụng trong việc hình thành kỹ năng tương ứng với những tri thức đã học. Từ việc
giải bài tập của thầy đến việc người học tự thiết kế những loại bài tập cho mình giải; từ
bài tập củng cố đơn vị kiến thức đến bài tập hệ thống hóa bài học, chương học, cũng
như những bài tập vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Thứ tư: kỹ năng đọc sách
Phải xác định rõ mục đích đọc sách, chọn cách đọc phù hợp như tìm hiểu nội
dung tổng quát của quyển sách, đọc thử một vài đoạn, đọc lướt qua nhưng có trọng
điểm, đọc kĩ có phân tích, nhận xét, đánh giá. Khi đọc sách cần phải tập trung chú ý,
tích cực suy nghĩ, khi đọc phải ghi chép.
Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo. Nó là con
đường tối ưu để sớm đưa sự nghiệp giáo dục và nền kinh tế nước ta tiến kịp các nước
trong khu vực và trên thế giới. Thực tế giảng dạy cho thấy dù giáo viên có dạy giỏi, có
kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ vững vàng đến mấy, nếu sinh viên (SV)
không chịu khó học tập, đào sâu nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học
tập độc lập thì chất lượng học tập cũng không thể cao.
Bản thân mỗi cá nhân đều tiềm ẩn một khả năng tự học, khả năng đó được tăng
cường hay không là nhờ vào cách thức học tập của họ. Lối học nhồi nhét sẽ làm người
học thui chột khả năng tự học; trái lại, lối học tự tìm tòi, nghiên cứu, chú trọng sự phát
triển óc tư duy, vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống sẽ tăng cường khả
năng tự học. Như vậy, cách học có tác dụng rõ ràng đến việc phát triển năng lực tự
học. Với lối dạy - tự học, mức độ, đặc điểm hành động của người học quyết đến hiệu
quả học tập. Hiệu quả của các hành động học tập tự học cao hay thấp tùy thuộc vào kỹ
năng thực hiện các hành động đó. Vì vậy việc hình thành kỹ năng trong học tập có vai
trò rất quan trọng trong quá trình dạy - tự học. Một số tác giả đã phân các kỹ năng tự

học ra làm hai nhóm chính:
* Nhóm kỹ năng chuyên môn khoa học:
- Kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức đã có để hình thành kiến thức mới;
- Kỹ năng đọc sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo;
- 8 -
- Kỹ năng ghi chép trên lớp;
- Kỹ năng khai thác kiến thức từ các phương tiện học tập;
- Kỹ năng giải quyết các bài tập nhận thức;
- Kỹ năng hình thành và giải quyết vấn đề;
- Kỹ năng lập kế hoạch tự học.
* Nhóm kỹ năng sư phạm:
- Kỹ năng làm việc trên lớp (kỹ năng nói, kỹ năng trình bày vấn đề, kỹ năng hướng
dẫn, kỹ năng tổ chức, kỹ năng viết vẽ trên bảng );
- Kỹ năng soạn giáo án;
- Kỹ năng tự kiểm tra đánh giá.
B. Một số kỹ năng tự học cần thiết cho sinh viên
1) Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học
Lập kế hoạch tự học là việc xây kế hoạch cho những hoạt động cụ thể nhằm
thực hiện được các nhiệm vụ mà mục tiêu đề ra. Mỗi cá nhân khi xây dựng kế hoạch
học tập cụ thể cần phải hiểu rõ mục tiêu và tính toán những bước đi thích hợp. Khi lập
kế hoạch cần phải suy nghĩ về những gì sẽ làm, chuẩn bị tốt nhất để đạt được hiệu quả
học tập cao và phải đặt câu hỏi là tại sao chúng ta phải làm như thế. Đây chính là quá
trình lập kế hoạch học tập, là quá trình lập học cách học, mỗi cá nhân phải tính toán
cách thức và thời gian để hoàn thành các công việc. Hiện nay, đa số sinh viên thực
hiện các nhiệm vụ học tập còn mang tính tùy tiện, gặp đâu học đó, chưa hình dung
được toàn bộ công việc mình đang và sẽ làm như thế nào. Trong khi đó một khối
lượng công việc lớn mà sinh viên phải hoàn thành lại chỉ thực hiện trong một thời gian
hạn chế. Vì vậy người học cần phải sử dụng thời gian một cách tiết kiệm và hiệu quả,
bằng cách phân phối công việc một cách khoa học, đặc biệt chú ý đến thời gian tự học.
Ở đây chúng tôi không đề cập đến kế hoạch tự học cho từng học kỳ, từng tháng

hay từng tuần mà chỉ chú ý đến kế hoạch tự học cho từng nội dung cụ thể trong một
học phần. Để sinh viên có thể lập được kế hoạch học tập cho những hoạt động cụ thể
thì giảng viên phải cung cấp một bảng kế hoạch giảng dạy cụ thể cho mỗi học phần.
Sinh viên dựa vào đó để định ra các công việc mình sẽ làm trong thời gian bao lâu và
làm như thế nào. Việc đặt kế hoạch cần chú ý cả những kế hoạch hoạt động trên lớp và
cả những hoạt động của sinh viên ngoài lớp (xem bảng) hướng dẫn đặt kế hoạch cho
hoạt động học tập.
Mẫu kế hoạch hoạt động học tập
Nội dung Mục tiêu Nhiệm vụ/ Bài tập Hoạt động cụ thể Thời gian
- 9 -
1.
2.
3.
….

2) Kỹ năng đọc giáo trình, tài liệu tham khảo
Để việc đọc sách có chất lượng và hiệu quả, cần đọc theo một quy trình nhất
định, nếu không chúng ta sẽ mất thời gian mà không thu được nhiều kết quả và không
lưu giữ được những thông tin cần thiết. Vì vậy, việc đọc sách cần được thực hiện
nghiêm túc và tuân theo các yêu cầu sau:
Đọc có suy nghĩ : Muốn hiểu những điều sách viết, người đọc phải hết sức tập trung tư
tưởng khi đọc, nhiều khi còn phải ngưng lại để ôn những đoạn cần biết, chưa nắm
vững, đến khi thông suốt rồi mới đọc tiếp.
Đọc sách để hiểu những điều tác giả nói và cả những điều tác giả không nói, mà
người đọc tự suy nghĩ, mở rộng đến những điều liên quan mà sách không đề cập đến.
Ở mức độ này, người đọc không chỉ tiếp thu kiến thức từ sách mà còn rèn luyện được
phương pháp tư duy.
Khi đọc và suy nghĩ mãi nhưng vẫn không hiểu được những gì sách viết, thì
phải tìm và đọc những sách khác có liên quan. Bởi lẽ, đôi khi cùng một kiến thức
nhưng với cách diễn giải của tác giả này ta chưa hiểu nhưng với cách trình bày khác ở

sách khác ta có thể hiểu được. Đọc nhiều sách cũng giống như đàm đạo giúp chúng ta
hiểu sâu thêm vấn đề, làm phong phú thêm vốn kiến thức.
Đọc có hệ thống : Khi đọc bất kỳ cuốn sách nào, ta thường đọc theo các bước sau:
- Đọc lướt nhanh toàn bộ phần tổng quát của sách để nắm sơ bộ nội dung cuốn
sách;
- Đọc kỹ, tùy theo mục đích đọc mà có thể đọc kỹ một lần hoặc nhiều lần. Khi
đọc kỹ các lần sau, chỉ cần đọc lại những điều cơ bản hoặc các nội dung mà lần đầu
chưa hiểu, chưa nắm vững. Những lần đọc sau sẽ làm người đọc nắm sâu hơn, hiểu kỹ
hơn;
- Đọc nhanh, cần tự rèn luyện cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự
suy nghĩ diễn ra liên tục và dễ dàng xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau
khiến ta dễ nắm được nội dung tài liệu.
Đọc có chọn lọc : Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý tưởng hay
nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán, làm tiền đề cho
năng lực giải quyết vấn đề sau này. Để rèn luyện kỹ năng đọc có chọn lọc, giảng viên
nên yêu cầu sinh viên tự đặt câu hỏi cho những nội dung cơ bản của những tài liệu đã
đọc; cố gắng tổng hợp và giải thích những gì họ đã đọc. Sinh viên phải hết sức tập
- 10 -
trung suy nghĩ và phải tinh lọc được những kiến thức cơ bản cần thiết cho mình, đồng
thời nêu được các vấn đề cũng như giải quyết được những vấn đề mà tài liệu đề cập.
Đọc có ghi nhớ
- Đọc sách là học tập tích cực nên cần kèm theo việc ghi chép để nhớ lâu;
- Đọc để tìm tài liệu bổ sung, cần ghi chép phần bổ sung đó ra, đồng thời đánh
dấu để tra cứu khu cần thiết;
- Đọc sách hoặc tài liệu giáo khoa cần ghi các dàn ý và diễn tiến nội dung. Các
ý chính cần ghi chép cẩn thận, gạch chân hoặc tô màu vì đó là ý cơ bản mà từ đó có
thể suy luận ra các ý khác liên quan. Những phần chưa hiểu hoặc chưa nắm vững cũng
cần đánh dấu để tiếp tục suy nghĩ, tìm người giải đáp.
Một biện pháp đọc để nhớ lâu là mô hình hóa các nội dung đã đọc bằng cách
sắp xếp chúng theo bản đồ trí tuệ (mind map). Khi xây dựng được bản đồ trí tuệ có

nghĩa là chúng ta đã hệ thống hóa toàn bộ nội dung đã đọc và giải thích được mối liên
hệ giữa chúng với nhau.
3) Kỹ năng chọn lọc, sử dụng vốn kiến thức cũ để học kiến thức mới
Muốn nhận thức kiến thức mới có hiệu quả bắt buộc phải liên hệ các kiến thức
cũ, các kiến thức khoa học liên ngành khác làm cơ sở cho hoạt động tư duy của sinh
viên. Kỹ năng này thúc đẩy quá trình nhận thức kiến thức mới cũng như việc tự học
của sinh viên. Để làm được điều này, có thể tiến hành theo các cách sau:
- Khi học các kiến thức mới cần phải tái hiện những kiến thức cũ có liên quan
để làm sáng tỏ các kiến thức mới;
- Kiến thức cũ có thể là những tình huống giáo dục thường gặp trong thực tế đã
nhận biết được. Dùng kiến thức này để chứng minh cho các kiến thức mới đang lĩnh
hội;
- Dùng kiến thức có trước kết hợp với các kiến thức mới tiếp theo để hình thành
những vấn đề nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đó.
***
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò
của người thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên phải có ý thức trách nhiệm cao trong
việc đào tạo thế hệ trẻ và cần lưu ý các điểm sau:
- Giáo dục cho sinh viên xác định động cơ học tập một cách đúng đắn;
- Hình thành phương pháp tự học là khâu cốt lõi để tạo nền tảng cho năng lực tự học.
Muốn vậy, giảng viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học, xem tự học như là một
tiêu chí hàng đầu trong quá trình đào tạo;
- 11 -
- Tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của
mình Muốn đạt được điều này buộc sinh viên phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ
xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh
luận để bảo vệ ý kiến của mình;
- Tự học được thực hiện cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp có hoặc không có sự hướng
dẫn của giảng viên. Quá trình tự học được tiến hành bằng nhiều phương tiện khác
nhau, đặc biệt là các phương tiện công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho quá trình tự

học và tạo nên chất lượng tự học cao;
- Giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học phần (hoặc từng chương),
cung cấp trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào
trong quá trình học tập bộ môn. Đây cũng là cơ sở để định hướng cho sinh viên vạch
ra kế hoạch tự học cá nhân. Kế hoạch dạy học một học phần cụ thể của giảng viên gồm
có 3 phần: nội dung, mục tiêu cần đạt được sau mỗi nội dung và cách thức làm việc
của sinh viên để đạt được những mục tiêu cần thiết. Để có ý tưởng xây dựng kế hoạch
dạy học của học phần, chúng tôi đã dựa trên phương pháp CIA (Content - Idea -
Action);
- Rèn luyện cho sinh viên thói quen viết nhật ký học tập, qua đó, sinh viên có thể nói
lên những suy nghĩ về những điều mình đã đọc, đã vận dụng những điều đã học vào
thực tế dạy học và cuộc sống như thế nào, giới thiệu cho bạn bè những tài liệu tham
khảo mình thấy tâm đắc nhất hoặc những điều thu thập được những gì qua các cuộc
trao đổi, thảo luận.
6.TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN VÀ NGƯỜI HƯỚNG DẪN
1. Trách nhiệm
Để hoạt động tự học thật sự mang lại hiệu quả, bên cạnh giáo dục ý thức tự học
của người học, thì vai trò của giáo viên, người hướng dẫn là không nhỏ. Tổ chức tốt
việc tự học cho học viên là một giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cho các
trường Đại học trong đó đặc biệt là trách nhiệm của người giảng viên và người hướng
dẫn cũng mang tính quyết định chất lượng đào tạo.
Những công việc chuẩn bị của giáo viên và người hướng dẫn cũng chính là
định hướng cho SV tự học, theo dõi, giải đáp và kiểm tra đánh giá kết quả tự học
của SV. Như vậy GV không những cần có kiến thức sâu rộng mà còn phải tâm huyết
với nghề nghiệp với SV đồng thời cần phải chương trình hóa việc tự học của SV,
nghĩa là GV cần có sự chủ động thực hiện một quy trình tương tác với SV như sau:
- Chuẩn bị đề cương môn học thật chi tiết , ngoài việc bám vào giáo trình chính,
GV hướng dẫn SV đọc nội dung gì, tìm hiểu vấn đề nào, đặc biệt việc hướng dẫn SV
nghiên cứu tài liệu tham khảo
- Đưa ra các vấn đề để buộc SV phải nghiên cứu, tự khám phá, đưa ra nhiều

tình huống hoặc bài tập để giải quyết:
- 12 -
- Tạo hứng thú và dần dần tạo thói quen đọc tài liệu để giải bài tập hay giải
quyết các tình huống.
- Tăng cường những tình huống cần có sự trao đổi của nhóm bởi vì khi học theo
nhóm, người biết giảng cho người chưa biết thì sẽ giỏi hơn, người chưa biết hỏi người
biết sẽ hiểu được vấn đề, điều này sẽ làm cho học tập chất lượng hơn.
- Hướng dẫn SV làm các bài tập nghiên cứu, đây là một việc làm có thể phát
huy cao nhất ý thức tự học của SV, bài tập nghiên cứu thường được tiến hành trong cả
quá trình học một học phần. vì vậy GV lựa chọn nội dung, vấn đề chỉ rõ mục đích, yêu
cầu nghiên cứu, Theo dõi bằng cách công khai các tiêu chí đánh giá, thời hạn hoàn
thành, hướng dẫn cách thức tìm kiếm, thu thập, xử lý thông tin
- Theo dõi, kiểm soát và sẵn sàng giúp đỡ SV khi họ gặp khó khăn hoặc yêu
cầu, đưa ra các điều chỉnh khi cần thiết.
- Đánh giá chính xác kết quả của SV, có chính sách động viên khen thưởng
đúng đắn, kịp thời.
- Đánh giá qua kiểm tra, thi :
Tự học là một hoạt động tự giác, tự lập của SV. Nhưng để SV tự giác, tự lập
được thì cần phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của GV để tự học trở thành một thói quen,
một nhu cầu của họ. Mỗi GV phải là người giác ngộ họ tinh thần tự học và cho họ thấy
sự cần thiết của tự học. Đồng thời, Nhà trường cần cung cấp đầy đủ tài liệu giáo trình
cho SV để SV thuận lợi trong quá trình tự học thúc đẩy, nâng cao chất lượng đào tạo
nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực cho xã hội.
2. Dạy phương pháp tự học cho sinh viên
Ngoài những nội dung và phương pháp chung được trình bày ở trên mỗi môn học,
mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Và, với GV cũng vậy, cũng với những
phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời điểm cũng
có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể cho từng lĩnh
vực là công việc rất có ý nghĩa. Từ đặc thù của lĩnh vực chuyên ngành xã hội, qua
nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng dạy nhiều năm các

nhà nghiên cứu đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học
cho SV. Đó là:
a/ Dạy cách lập kế hoạch học tập
Trên cơ sở đề cương môn học, vào đầu mỗi học phần GV cần hướng dẫn SV lập kế
hoạch học tập sao cho kế hoạch đó phải ở trong tầm với của mình, phù hợp với điều
kiện của mình. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. Quán triệt để SV
hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn
phấn đấu thực hiện được. Trong đó có sự phân biệt rõ việc chính việc phụ, việc làm
ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp nhặt tri thức tích lũy kết quả học
tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt
ra để không phải bị động trước khối lượng các môn học cũng như áp lực công việc.
- 13 -
b/ Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học.
Nghe giảng và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong quá trình
học tập. Trình độ nghe và ghi chép của người học không giống nhau ở những môn học
khác nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy nhiên đây là vấn đề mà
xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện thói quen ghi
chép để có thể có được những thông tin cần thiết về môn học. Điều quan trọng trước
tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc chính của hoạt động nghe – ghi
chép. Thực tế đó đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng cao độ để có khả năng lĩnh
hội vấn đề một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử
dụng tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ
đồ hình vẽ những ý chính, các luận điểm quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều
lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn đề
nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến
thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần lớn SV
không quan tâm rèn luyện để có được.
Muốn tạo điều kiện cho SV nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý:
- Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những tình
huống giả định yêu cầu SV suy nghĩ phản biện (d/c).

- Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng, tập trung
vào trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho SV xác định nội dung chính.
- Đưa vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động lấy từ
thực tế có liên quan trực tiếp đến đời sống hay lĩnh vực chuyên ngành của từng đối
tượng SV để gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học. (d/c)
- Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu SV tự đặt ra những câu hỏi, tình
huống sát với nội dung bài học để thay đổi không khí, tăng cường sự chú ý của cả lớp.
- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự chú ý
của người học.
Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp nhàng ăn
ý của cả thầy và trò. Trong đó thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn tổ chức
còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả trong lĩnh hội tri thức lẫn
rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ.
c/ Dạy cách học bài
Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV cần
giới thiệu và hướng dẫn cho SV tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của
Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng tình
huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên cạnh đó
còn phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo để tìm ra
những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.
Việc đưa ra các tình huống vấn đề gắn với thực tiễn đời sống xã hội là ưu thế của
các học phần thuộc lĩnh vực XHNV. GV cần cho những tình huống sau mỗi bài/
- 14 -
chương/ mục và yêu cầu SV chuẩn bị trước. Sau đó tùy tình hình để cho từng cá nhân
hay từng nhóm (cả lớp) thảo luận, giải quyết.
Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội cho các em
diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề, giải thích, phản
biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng thuật một sự kiện, một
vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một hiện tượng. Thông
qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của SV để có sự bổ sung

điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ giảng luôn được cải thiện theo
hướng tích cực.
d/ Dạy cách nghiên cứu
Trước hết là dạy cách xác định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với
sở trường năng lực của mình và yêu cầu của chuyên ngành đào tạo. Tiếp đến là dạy
cách lựa chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin trong khuôn khổ
thời gian cho phép. Cơ sở lí luận của các môn KHXH&NV thường mang tính hàn lâm,
tính kế thừa cao. Trong lúc trên thực tế các vấn đề xã hội lại thay đổi từng giây. Vì thế
việc xác định nguồn tài liệu, điều tra, thực nghiệm cũng đòi hỏi mỗi người phấn đấu
nắm bắt kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi cũng là một thách thức lớn.
Tài liệu sẽ lấy từ nguồn nào, giới hạn phạm vi bao nhiêu, cách viện dẫn những thông
tin ra sao cho chính xác, trích dẫn những vấn đề điển hình nào cho có tính thuyết
phục… là những vấn đề cần được hướng dẫn kĩ lưỡng chu đáo từ phía GV. Một đề
cương nghiên cứu chuẩn mực, khoa học trong cấu trúc chung từ tổng quan của vấn đề
nghiên cứu, các cấp độ nội dung cần triển khai và cách xác định phương pháp nghiên
cứu phản ánh rất rõ năng lực của mỗi SV. Cần hình thành và rèn luyện cho các em
sớm có được kĩ năng ấy. Ngoài ra, việc tự kiểm tra đánh giá kết quả nghiên cứu trên
cơ sở tranh thủ ý kiến của bạn bè thầy cô cũng đem lại lợi ích thiết dụng cho người
nghiên cứu, nhất là những SV bước đầu làm quen với khoa học.
Bốn vấn đề cốt lõi nêu trên chỉ là những chỉ dẫn cần thiết, mang tính định
hướng. Còn việc vận dụng ra sao còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Sự cố gắng đầy ý chí
nghị lực của người học, sự mẫn cán tận tâm và chu toàn của người dạy cùng những
điều kiện tiên quyết khác. Duy có một điều không cần bàn cãi là phương pháp dạy học
ở bậc học đại học hiện nay không thể thiếu việc dạy cách học.
Để đảm bảo chất lượng dạy học phải đảm bảo ba khâu thống nhất với nhau đó
là: nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy của giáo viên và tự học của sinh
viên. Vì vậy, một trong những thiếu xót của giáo viên dạy đại học là khi tìm cách nâng
cao chất lượng giảng dạy lại không chú ý nghiên cứu xem sinh viên học như thế nào.
Người giáo viên có hai nhiệm vụ chủ yếu gắn chặt với nhau: Một là bồi dưỡng cho
sinh viên các phương pháp nắm tri thức phù hợp với mục đích và đặc điểm của môn

- 15 -
học, hai là giúp sinh viên nắm được nội dung tri thức phù hợp với yêu cầu của chương
trình. Còn sự thành công trong quá trình giảng dạy là sinh viên biết cách tự học.
III. KẾT LUẬN
Hiện nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn SV còn thụ động
trong việc tiếp nhận tri thức. Phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học luôn là
bài toán khó cho không ít SV kể cả SV năm cuối. Thế nhưng vấn đề này vẫn chưa
được quan tâm đúng mức. Do áp lực của khối lượng công việc luôn quá tải nên GV chỉ
mãi lo thực hiện chức năng của mình mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn diện
trong đó tự học cho SV trong đó kĩ năng tự học. Vì vậy, mỗi trường đại học hiện đại
cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu đào tạo. Bởi lẽ, nó không chỉ cần thiết cho
SV khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi ra trường hòa nhập với xã hội, trong
suốt cuộc đời.
Khi tự học, mỗi SV hoàn toàn có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề
nảy sinh trong học tập theo một phong cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích
hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân SV nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền
vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn
là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm
chất mà chỉ có chính bản thân SV tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có
thể cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của
SV trên con đường học tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ
động, đối phó, chờ thời.
Hiện nay, nhìn chung ở các trường đại học ở Việt Nam, vấn đề tự học đạt kết
quả cao của sinh viên là một vấn đề mang tính thời sự, đòi hỏi nhiều yếu tố. Chẳng hạn
như xây dựng những giải pháp về đổi mới phương pháp dạy học, được nhiều nhà giáo
dục quan tâm trong định hướng đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục
Từ đó, dễ nhận thấy rằng: cùng với đòi hỏi của xu thế hội nhập toàn cầu trên tất
cả các lĩnh vực và với một xã hội đầy biến động như xã hội nước ta về sử dụng lao
động, tiền lương, sự đãi ngộ và quá trình đào tạo ngày càng đi vào chiều sâu thực chất
thì hoạt động dạy học, đặc biệt là dạy cách học chắc chắn sẽ tìm được sự đồng thuận

cao của cộng đồng và là mảnh đất tốt cho bất kì ai có khát vọng học tập suốt đời.
- 16 -

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×