Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 11 trung học phổ thông vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.52 KB, 14 trang )

Hướng dẫn học sinh lớp 11-Trung học phổ
thông vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào
việc lĩnh hội và tạo lập văn bản


Mai Thị Thùy


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Đỗ Việt Hùng
Năm bảo vệ: 2010


Abstract. Hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về văn bản, nghĩa của câu trong lì
thuyết ngôn ngữ học. Chứng minh tình đúng đắn của việc tìch hợp dạy học nghĩa
của câu với việc lĩnh hội và tạo lập văn bản trong chương trính lớp 11-Trung học
phổ thông (THPT) qua việc nghiên cứu thực trạng dạy học nghĩa của câu và ứng
dụng của nó trong việc lĩnh hội và tạo lập văn bản trong chương trính lớp 11 hiện
nay. Đề xuất các thao tác tổ chức cho học sinh lớp 11 hính thành kiến thức và tổ
chức hoạt động dạy học giúp học sinh lớp 11 rèn luyện kĩ năng vận dụng hiểu biết
về nghĩa của câu để lĩnh hội và tạo lập các loại văn bản trong chương trính Ngữ văn
11. Thực nghiệm sư phạm nhằm xác nhận tình khả thi và hiệu quả của đề tài.

Keywords. Phương pháp giảng dạy; Ngữ văn; Văn bản; Câu; Lớp 11


Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Xuất phát từ các lì do khách quan và chủ quan sau đây:
1.1. Vai trò quan trọng của nghĩa trong học tập và đời sống
Trong quá trính giao tiếp bằng ngôn ngữ, điều kiện mang tình tiên quyết nhằm đạt được
hiệu quả giao tiếp là người phát phải sử dụng ngôn ngữ để truyền tải đầy đủ nội dung giao
tiếp, người nhận phải lĩnh hội trọn vẹn nội dung mà người phát đã phát.
Hiểu đúng, hiểu đầy đủ nghĩa ( nội dung giao tiếp) luôn là nhu cầu tất yếu của con người
trong đời sống. Trong xã hội bùng nổ thông tin như ngày nay, giáo dục không chỉ còn là
truyền tin- nhận tin. Quan niệm dạy học đang thay đổi theo xu hướng phát huy tình tìch cực
chủ động của người học. Qúa trính dạy học phải tác động đến các kĩ năng mềm cho người
học, các kĩ năng góp phần hính thành năng lực giải quyết các vấn đề ngoài cuộc sống, đặc
biệt là kĩ năng thu nhận và xử lì thông tin, bao gồm kĩ năng lĩnh hội và tạo lập văn bản.
Học sinh lớp 11- THPT là đối tượng HS đang được trang bị kiến thức và hoàn thiện các
kĩ năng sống. Đây là thời gian lì tưởng để các em luyện tập các thao tác tư duy để từ đó hính
thành các năng lực sống. Một phần không nhỏ trong số các em sau khi tốt nghiệp THPT tham
gia trực tiếp vào đời sống lao động xã hội. Các em rất cần được trang bị kiến thức về ngữ
nghĩa và được rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đó để lĩnh hội và tạo lập các loại văn
bản. Từ đó có thể thìch ứng với xã hội thông tin như hiện nay. Đây là một nhiệm vụ của bộ
môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
1.2. Hiện nay, nghiên cứu về ngữ nghĩa nói chung và nghĩa của câu tiếng Việt nói riêng
đã đạt được những thành tựu nhất định. Song lại chưa có công trính nghiên cứu ứng dụng
những thành tựu đó trong dạy học Ngữ văn ở bậc THPT.
1.3. Việc vận dụng những hiểu biết về nghĩa của câu trong giảng dạy Ngữ văn theo hướng
tích hợp chưa được quan tâm đúng mức
Trong quá trính dạy học, người giáo viên Ngữ văn ở phổ thông hiện nay gặp phải nhiều
vấn đề:
- Sự xuất hiện tràn lan của các loại giáo án mẫu “ theo hướng tìch hợp”, nhưng đa số giáo
án này không hoặc đã quên không tìch hợp một phương pháp tư duy sư phạm cho người giáo
viên, vô hính chung, tìch hợp khoa học đã đổi thành sự lắp ghép thiếu hệ thống.
-Yêu cầu của chương trính hầu như bài nào, giờ nào cũng có vận dụng kiến thức, hoặc kĩ
năng A vào kiến thức kĩ năng B hoặc vào thực tiễn đời sống làm cho giáo viên rất lúng túng.

Yêu cầu này làm cho giáo viên phải lựa chọn và xây dựng một tư duy sư phạm đa chiều.
Vừa tư duy phương pháp, hính thức tổ chức dạy học cho học sinh, vừa tư duy hệ thống kĩ
năng cần vận dụng hợp lì nhất, hiệu quả nhất để rèn luyện cho học sinh.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên đã gợi cho chúng tôi ý tưởng chọn lựa một cách tổ
chức dạy học tìch hợp trên cơ sở giúp cho học sinh có khả năng tìch hợp kiến thức và kĩ năng
đã học để tiếp nhận các kiến thức và kĩ năng khác. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Hướng dẫn học
sinh lớp 11- trung học phổ thông vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo
lập văn bản” để nghiên cứu với mong muốn sẽ góp phần lì giải nhiều vấn đề đặt ra trong việc
vận dụng dạy học tìch hợp trong dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay.
2. Ý nghĩa của luận văn
2.1 Ý nghĩa lí luận
Đề tài được nghiên cứu sẽ góp phần sáng ỏ khái niệm tìch hợp dạy học, vận dụng thành tựu
nghiên cứu của tiếng Việt vào dạy học Ngữ văn nói chung và vận dụng hiểu biết về nghĩa của
câu vào lĩnh hội và tạo lập văn bản nói riêng.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có tác dụng thiết thực đối với giáo viên dạy ngữ văn ở
bậc THPT hiện nay khi dạy học chương trính Ngữ văn lớp 11. Những ứng dụng được trính
bày có thể là tư liệu tham khảo cho giáo viên áp dụng trong thực tế dạy häc Ng÷ v¨n lớp 11-
THPT ë ViÖt Nam hiÖn nay.
3. Lịch sử nghiên cứu
Chương trính giáo dục THPT hiện hành đã tìch hợp ba phân môn: văn học, làm văn và
Tiếng Việt trước đây thành bộ môn duy nhất: Ngữ văn. Trên quan điểm dạy học tìch hợp ở ba
phân môn này, nhiều nghiên cứu về phương pháp dạy học tìch hợp trong bộ môn ngữ văn ở
nhà trường phổ thông đã có những thành tựu nổi bật.
Đầu tiên phải kể đến cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt” do Lê A chủ biên. Đây là
cuốn sách bám sát yêu cầu đổi mới dạy học tiếng Việt trong mối tương quan với các phân môn
Làm văn và văn học. Các tác giả đã xác định rất rõ về vai trò và tình ứng dụng của dạy học
tiếng Việt nói chung và phần nghĩa của câu với các tri thức về lĩnh hội và tạo lập văn bản.
Công trính thứ hai có ý nghĩa lớn trong việc dạy và học câu là công trính “ Câu tiếng
Việt” của tác giả Nguyễn Thị Lương. Trong đó, tác giả đã đề cập đến việc giảng dạy câu theo

ngữ pháp chức năng và việc tìch hợp dạy học gắn ngữ với văn. Tác giả đã sử dụng nhiều ngữ
liệu trong chương trính ngữ văn phổ thông để phân tìch các bính diện của câu. Nhưng tác giả
chưa đề cập đến việc vận dụng lì thuyết về câu như một công cụ tư duy hỗ trợ việc lĩnh hội và
tạo lập văn bản cho học sinh trong nhà trường phổ thông.
Qua khảo sát các tài liệu dạy học Ngữ văn hiện hành trong nhà trường Việt Nam( tài liệu
tiếng Việt), người viết nhận thấy có các công trính nghiên cứu việc ứng dụng ngôn ngữ học
trong dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông như sau:
Cuốn “ Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ” của Nguyễn
Trọng Khánh; “ Ngôn ngữ học một số phương diện nghiên cứu liên ngành’’ Nguyễn Huy Cẩn
chủ biên, “ Tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học” của Mai Thị Bìch Phượng…
Nhín chung, các tác giả đều đề cập đến việc ứng dụng ngôn ngữ học trong tiếp nhận
văn học. Nhưng vấn đề dạy học tiếng Việt, đặc biệt là dạy học nghĩa của câu để giúp học sinh
hính thành một vốn kiến thức để từ đó có thể lĩnh hội và tạo lập văn bản từ góc độ khoa học
giáo dục thí chưa có tài liệu nào chuyên sâu.
Trong luận văn này, chúng tôi kế thừa những kết quả nghiên cứu nói trên và đưa ra
một giải pháp cho việc tìch hợp dạy học trong môn Ngữ văn và trường hợp cụ thể là tổ chức
hướng dẫn học sinh lớp 11 vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập
văn bản
4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1 Mục tiêu chung:
Tím và đề xuất những thao tác tổ chức và hướng dẫn học sinh lớp 11 THPT vận dụng hiểu
biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản.
4.2 Mục tiêu cụ thể:
Trong quá trính nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các vấn đề sau đây:
- Hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về văn bản, nghĩa của câu trong lì thuyết ngôn
ngữ học
- Chứng minh tình đúng đắn của việc tìch hợp dạy học nghĩa của câu với việc lĩnh hội và
tạo lập văn bản trong chương trính lớp 11-THPT
- Đề xuất các thao tác tổ chức cho học sinh lớp 11 hính thành kiến thức về nghĩa của câu
- Đề xuất các thao tác tổ chức hoạt động dạy học giúp HS lớp 11 rèn luyện kĩ năng vận

dụng hiểu biết về nghĩa của câu để lĩnh hội và tạo lập các loại văn bản trong chương trính
Ngữ văn 11
- Thực nghiệm sư phạm nhằm xác nhận tình khả thi và hiệu quả của đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu theo mục tiêu đã đề xuất tại mục 4.
6. Mẫu khảo sát
- Khảo sát các tài liệu dạy học Ngữ văn hiện hành.
- Khảo sát thực tế dạy học tại trường THPT B Hải Hậu, Nam Định và trường THPT
Ngọc Hồi, Hà Nội.
7. Vấn đề nghiên cứu
Luận văn này xem xét những vấn đề sau đây:
- Tại sao học sinh có thể vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn
bản?
- Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh như thế nào để giúp các em có khả năng vận dụng
hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đã đặt ra, người viết sơ bộ đưa ra một số giả thuyết sau:
- Kiến thức về nghĩa của câu mà học sinh được trang bị không chỉ là kiến thức ngữ pháp về
câu mà còn là lì luận, là phương pháp tư duy giúp học sinh có thể vận dụng để lĩnh hội và tạo
lập văn bản.
- Giáo viên cần tổ chức hướng dẫn học sinh hính thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng hiểu
biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản thường xuyên, liên tục trong các
giờ dạy và theo một quy trính khoa học như sau:
+/ Tổ chức các hoạt động dạy học nhằm trang bị kiến thức về nghĩa của câu cho học sinh
theo hướng tìch hợp dạy học giữa tiếng Việt với Văn học và Làm văn.
+/ Tổ chức các hoạt động dạy học thực hành, luyện tập cho học sinh nhằm giúp học sinh
hính thành kĩ năng vận dụng kiến thức về nghĩa của câu.
+/ Tổ chức các hoạt động dạy học văn học và làm văn theo hướng tìch hợp, tạo cơ hội và
điều kiện cho học sinh vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phân tìch các tài liệu về phương pháp dạy học, các thiết kế bài học Ngữ văn bậc THPT, các
tài liệu nghiên cứu ứng dụng của ngôn ngữ học và văn học…
- Phương pháp quan sát, tổng kết thực tiễn
- Phương pháp thực nghiệm: tiến hành dạy học tại trường THPT Ngọc Hồi, Hà Nội và trường
THPT B Hải Hậu, Nam Định .
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chình của luận văn
được trính bày trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lì luận
Chương 2: Thực trạng dạy học nghĩa của câu và ứng dụng của nó trong việc lĩnh hội
và tạo lập văn bản trong chương trính lớp 11 hiện nay
Chương 3: Hướng dẫn HS lớp 11-THPT vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc
lĩnh hội và tạo lập văn bản
Chương 4: Thực nghiệm sư phạm

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.1. Văn bản
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm văn bản được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, qua khảo sát chúng tôi
nhận thấy có một số cách định nghĩa văn bản phổ biến hiện nay như sau:
- Văn bản: “ Chuỗi các đơn vị kí hiệu ngôn ngữ làm thành một thể thống nhất bằng
mối liên hệ ý nghĩa mà thuộc tính cơ bản của nó là sự hoàn chỉnh về hình thức và
nội dung; sản phẩm của lời nói được định hình dưới dạng chữ viết hoặc in ấn” [34;
tr. 413]
Cách định nghĩa này khá phổ biến, và theo đó, văn bản được gắn với khái niệm văn tự,
chữ viết( bản chép tay, in ấn…)
- “ Văn bản không hoàn toàn đồng nhất với “ ngôn ngữ viết” mà bao gồm, hay đúng
hơn, là các hoạt động lời nói đã được “văn tự hóa” thành các phát ngôn. Một đơn
vị văn bản được tính bằng một hiệu lực giao tiếp có tính độc lập giao tiếp, hoàn

thành nhiệm vụ giao tiếp trong một hoàn cảnh phát ngôn nhất định. Đặc biệt nó
gắn với một chủ thể nhất định đã sáng tạo ra nó…”[30; tr. 69]
Cách định nghĩa thứ hai gắn văn bản với hoạt động giao tiếp, môi trường sản sinh và tồn
tại của văn bản.
Ở đây, chúng tôi nhận diện văn bản, phân loại văn bản sao cho phù hợp với việc truyền
thụ kiến thức cho học sinh phổ thông, đặc biệt đảm bảo tình hệ thống của chương trính Ngữ
văn bậc phổ thông. Ví vậy chúng tôi xin không bàn đến tình đúng sai của các định nghĩa, mà
từ các định nghĩa này, chúng tôi nhận ra những kiến thức quan trọng về văn bản phục vụ cho
việc vận dụng dạy học được đặt ra ở đề tài nghiên cứu này.
1.1.1.2 Đặc điểm của văn bản
Dù định nghĩa theo cách nào, chúng ta cũng cần thừa nhận một số các đặc điểm cơ bản
của văn bản sau đây:
- Văn bản là một chỉnh thể ngôn ngữ về mặt cấu trúc nghĩa( nội dung) và cấu trúc hính
thức.
+/Về mặt nội dung: văn bản có một chủ đề nhất định, toàn bộ văn bản gắn kết với nhau về
mặt ý nghiã, tập trung thể hiện một chủ đề. Điều này giúp ta phân biệt với các tổ hợp ngôn
ngữ không là văn bản- có nhiều câu, nhiều đoạn được ghép với nhau nhưng không có quan hệ
gí về ý nghĩa. Văn bản bao giờ cũng phải thể hiện được chủ đìch của người tạo lập nó.
+/ Về mặt hính thức: các câu trong văn bản có những mối liên hệ, quan hệ nhất định.
Toàn bộ những mối liên hệ ấy tạo nên cấu trúc của văn bản. Như vậy văn bản không đơn
thuần chỉ là chuỗi câu ghép lại. Mặt khác, tùy vào chủ đìch mà người tạo lập văn bản phải
chon lựa các phương tiện ngôn ngữ phù hợp, điều này tạo nên những cấu trúc khác nhau của
các loại văn bản.
- Văn bản tồn tại cả ở dạng nói và dạng viết
- Văn bản có thể dài và có thể ngắn
1.1.1.3. Phân loại văn bản
Chương trính lớp 10 THPT phân loại văn bản theo phong cách chức năng ngôn ngữ
bao gồm:
- Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt ( thư, nhật kì…)
- Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ( thơ, truyện…)

- Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học( luận văn, luận án…)
- Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ hành chình(đơn, biên bản, …)
- Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ chình luận( hịch, tuyên ngôn…)
- Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ báo chì( bản tin, phóng sự…)
1.1.1.4. Lĩnh hội văn bản(đọc -hiểu văn bản) ở nhà trường THPT
Lĩnh hội văn bản trong nhà trường không đơn thuần chỉ là một quá trính giải mã các kì
hiệu ngôn ngữ để nắm bắt được nội dung văn bản, hiểu tác giả nói gí mà nó là bước nối liền
giữa dạy lĩnh hội và tự lĩnh hội. HS được rèn luyện để trở thành người lĩnh hội có bản lĩnh,
sáng tạo.
1.1.1.5. Tạo lập văn bản ở trường THPT
Tạo lập văn bản (làm văn), là một phân môn quan trọng ở bậc THPT. HS được rèn luyện
để có thể tạo lập được các kiểu văn bản từ dễ đến khó:
Tự sự→Miêu tả →Biểu cảm→ Ứng dụng →Thuyết minh→ Nghị luận.
Trong đó, chiếm đa số là tạo lập kiểu văn bản nghị luận. HS được trang bị và rèn luyện kĩ
năng tạo lập từ câu, đoạn đến bài văn.
1.1.2.Nghĩa của câu
Như chúng tôi đã trính bày, nghĩa của câu là vấn đề ìt được đề cập đến trong các tài liệu
giảng dạy tiếng Việt cho dù đây là yếu tố không thể thiếu đối với mỗi câu. Trong quá trính
giao tiếp, khi tạo lập một câu, bao giờ nhân vật giao tiếp cũng muốn biểu hiện những ý nghĩa
nào đó. Nghĩa chình là cơ sở để tạo lập câu, cũng chình là nội dung mà câu biểu thị.
Để đảm bảo tình khoa học đồng thời đảm bảo các nguyên tắc sư phạm, chúng tôi nhận
thấy những nội dung cơ bản về nghĩa của câu cần xác lập và có ý nghĩa vận dụng trong dạy
học Ngữ văn lớp 11 cơ bản như sau:
Mỗi câu thường có hai thành phần nghĩa:
* Thành phần nghĩa thứ nhất là nghĩa sự việc ( còn gọi là nghĩa miêu tả, nghĩa biểu
hiện, nghĩa mệnh đề). Đó là nghĩa ứng với sự việc ( hay còn gọi là sự kiện, sự tính, sự thể)
trong hiện thực. Sự việc xảy ra trong hiện thực, được con người nhận thức và biểu hiện trong
câu, trở thành nghĩa sự việc của câu. Mỗi câu biểu hiện một hoặc một số sự việc. Nghĩa sự
việc của câu thường được biểu hiện nhờ những thành phần ngữ pháp như: chủ ngữ, vị ngữ,
trạng ngữ, khởi ngữ và một số thành phần phụ khác.

* Thành phần nghĩa thứ hai là nghĩa tính thái. Nghĩa tính thái có thể được bộc lộ tường
minh qua các từ ngữ tính thái trong câu, có thể hàm ẩn, nhưng câu nào cũng có nghĩa tính thái.
Nhiều loại nghĩa tính thái có thể hòa quyện với nhau trong một phương tiện ngôn ngữ, thậm chì
đan xen với nghĩa miêu tả.
Nghĩa tính thái là vấn đề phức tạp đối với học sinh phổ thông. Chúng tôi chỉ tập trung
vào hai trường hợp có ý nghĩa thiết thực với việc vận dụng để lĩnh hội và tạo lập văn bản
trong nhà trường phổ thông hiện nay:
Một là: Sự nhìn nhận, đánh giá và thái độ của người phát đối với sự việc được đề cập
đến trong câu.
Khi đề cập đến sự việc nào đó, người phát không thể không bộc lộ thái độ, sự đánh giá
của mính đối với sự việc đó. Đó có thể là sự tin tưởng chắc chắn, sự hoài nghi, sự phỏng
đoán, sự đánh giá, …đối với sự việc.
Hai là: Tình cảm của người phát đối với người nhận
( thông qua các từ ngữ cảm thán, từ ngữ xưng hô, từ tình thái…)
1.1.3 Ứng dụng lí thuyết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản
Như chúng ta đã phân tìch ở phần 1 về cấu tạo của văn bản, có thể nhận thấy mối liên hệ
hữu cơ, nòng cốt, biện chứng giữa nghĩa của câu với văn bản.
Khi lĩnh hội hoặc tạo lập một văn bản bao giờ các nhân vật giao tiếp cũng phải tình đến
yếu tố nghĩa của nó. Kiến thức về nghĩa của câu như chiếc chía khóa để giải mã các văn bản
đồng thời là nền móng để tạo lập các văn bản. Do đó, việc ứng dụng những thành tựu nghiên
cứu về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản là điều vô cùng cần thiết.
1.2.Cơ sở tâm lí- giáo dục học
1.2.1 Quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông
1.2.1.1 Quan điểm dạy học tích hợp
Các nhà khoa học thừa nhận những ưu thế của dạy học tìch hợp:
→ HS được lĩnh hội các năng lực song song với lĩnh hội kiến thức thông thường.
→ Hạn chế tính trạng quá tải, trùng lặp, dư thừa kiến thức nhằm tiết kiệm thời gian
trong đào tạo.
→ Rèn luyện kĩ năng vận dụng sáng tạo cho HS
→ Hính thành và rèn luyện tư duy tổng hợp, tư duy sáng tạo cho HS

1.2.1.2 Dạy học Ngữ văn bậc phổ thông theo quan điểm tích hợp
Tìch hợp trong dạy học Ngữ văn, hiểu đơn giản nhất là thể hiện sự phối hợp giữa các
phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Chẳng hạn sử dụng những ngữ liệu từ các văn bản
văn học trong giờ học Tiếng Việt, phân tìch các ngữ liệu đó để rút ra các kết luận về các hiện
tượng ngôn ngữ. Từ đó, vận dụng những kết luận đó vào phân tìch các văn bản văn học hoặc
ứng dụng vào tạo lập văn bản.
Tìch hợp trong dạy học Ngữ văn là dạy kiến thức rèn luyện và phát triển các kĩ
năng.Dạy học tìch hợp không chỉ đạt mục tiêu truyền đạt kiến thức mà còn tạo ra kiến thức và
kĩ năng tổng hợp cho HS.
Tìch hợp trong dạy học Ngữ văn còn là tìch hợp các nội dung dạy học có tình chất liên
môn giữa Ngữ văn với các môn học khác và giữa các nội dung dạy học bộ môn với các vấn
đề mang tình thời sự, với các kĩ năng sống.
Tìch hợp cũng chình là tìch cực hóa việc học tập của học sinh, biến quá trính “rót” kiến thức
của GV thành quá trính HS chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
1.2.2. Vận dụng kiến thức về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản là một
biểu hiện tích cực của dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn
Vận dụng ( application) là khả năng vận dụng những gí đã biết, đã được học vào giải
quyết một vấn đề nào đó ( một vấn đề đã biết- vận dụng tái tạo theo mẫu hoặc một vấn đề
mới- vận dụng sáng tạo, vào những tính huống hoàn toàn mới). Muốn vận dụng được tất yếu
phải làm chủ các nội dung đã được học.
Vận dụng đòi hỏi năng lực tổng hợp của người học. Người học trước hết phải chiếm
lĩnh và làm chủ các nội dung học tập. Không những thế, người học phải có khả năng phân
tìch, tổng hợp, đánh giá những nội dung đã học và những tính huống mới để có thể vận dụng
được những nội dung kiến thức đó. Vận dụng là một kĩ năng quan trọng cần được hính thành
và rèn luyện cho HS THPT. Đây là yêu cầu bắt buộc cần đạt được đề ra trong chương trính
các môn học.
Các nhà khoa học khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư duy. Ngôn
ngữ hiện thực hóa tư duy, tư duy biểu đạt bằng ngôn ngữ. Ví vậy, rèn luyện ngôn ngữ phải
gắn với rèn luyện tư duy. HS cần biết phân tìch, đánh giá tư duy được biểu thị qua ngôn ngữ.
Kiến thức về nghĩa của câu là khối kiến thức Tiếng Việt, HS không chỉ được truyền thụ

một khối kiến thức ngữ nghĩa đơn thuần mà được rèn luyện để hính thành kĩ năng vận dụng
kiến thức này vào quá trính đọc và tạo lập văn bản( quá trính học hai phân môn Văn học và
Làm văn). Việc vận dụng này kìch thìch tình chủ động, tìch cực hoạt động của học sinh trong
giờ học Ngữ văn. Đồng thời hính thành, rèn luyện và nâng cao năng lực học văn cho HS. Đặc
biệt là năng lực lì giải và tạo lập văn bản.
1.2.3. Đặc điểm tâm lí đối tượng học sinh lớp 11- THPT
HS lớp 11- THPT ở vào độ tuổi gần như đã phát triển hoàn thiện về trính độ tiếng Việt
thông qua giao tiếp hàng ngày. Đó là những kinh nghiệm thực tiễn quan trọng và quý báu
giúp các em trong quá trính hính thành những kĩ năng vận dụng mới. Dạy học tiếng Việt cho
các em trong độ tuổi này phần lớn là giúp các em có được sự ý thức khoa học trong việc sử
dụng những kinh nghiệm đó.
HS lớp 11- THPT là đối tượng đã được hoàn thiện kiến thức cơ sở về từ vựng, ngữ pháp
tiếng Việt, các loại văn bản, lì luận văn học; đã hính thành năng lực tiếp nhận và tạo lập các
loại văn bản ở bậc THCS. Ở bậc THPT, HS tiếp tục được nâng cao những tri thức và kĩ năng
đã học và rèn luyện ở lớp dưới.
HS lớp 11- THPT đã phát triển tư duy trừu tượng, điều này bộc lộ ở khả năng liên hệ kiến
thức, ở tư duy khái quát, tổng hợp, năng lực chiếm lĩnh tri thức một cách hệ thống, khả năng
vận dụng kiến thức và kĩ năng. Tư duy trừu tượng phát triển là một điều kiện thuận lợi cho
việc học tập các nội dung về nghĩa của câu- vốn là vấn đề khá trừu tượng. Đó cũng là một
thuận lợi cho HS để có thể vận dụng linh hoạt kiến thức, có thể kĩ năng hóa các kiến thức đã
có.
HS lớp 11- THPT đã có vốn hiểu biết về văn học nói chung và ngôn ngữ văn học nói
riêng.
Cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, các em rất cần có những công cụ tư duy hỗ
trợ để nâng cao năng lực chiếm lĩnh và tạo lập các loại văn bản khác nhau trong nhà trường
và ngoài đời sống xã hội. Hướng dẫn các em vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu để lĩnh hội
và tạo lập văn bản là giúp các em rèn luyện thêm một công cụ hữu ìch.

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC VẬN DỤNG KIẾN THỨC VỀ NGHĨA CỦA
CÂU VÀO VIỆC LĨNH HỘI VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN TRONG CHƢƠNG TRÌNH

NGỮ VĂN LỚP 11- THPT HIỆN NAY
2.1 Chƣơng trình Ngữ văn THPT hiện nay
2.1.1 Mục tiêu chung của môn Ngữ văn
Chương trính Ngữ văn cũng như chương trính các môn học khác là pháp lệnh của nhà
nước. Chương trính Ngữ văn hiện nay hướng tới các mục tiêu chình như sau:
- Môn Ngữ văn cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tình hệ
thống về ngôn ngữ ( trọng tâm là tiếng Việt) và văn học ( trọng tâm là văn học Việt Nam),
phù hợp với trính độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kí
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Môn Ngữ văn hính thành và phát triển ở HS các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận
văn học, cảm thụ thẩm mĩ; phương pháp học tập, tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học;
năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
- Môn Ngữ văn bồi dưỡng cho học sinh tính yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tính yêu gia
đính, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc; ý chì tự lập, tự cường; lì tưởng xã hội chủ nghĩa;
tinh thần dân chủ, nhân văn; giáo dục cho HS trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác
quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
2.1.2 Đặc điểm chương trình Ngữ văn bậc THPT
- Chương trính được xây đựng theo nguyên tắc tìch hợp “ 3 trong 1”: hợp nhất 3 phân
môn riêng lẻ ( Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) thành một môn học duy nhất là Ngữ văn.
- Chương trính không phân bố nội dung dạy học các phân môn theo tình chất hệ thống cấu
trúc mà theo nguyên tắc tìch hợp: xen kẽ và phối hợp phần Tiếng Việt với Làm văn và Văn
học ở những nội dung gần gũi.
- Chương trính Ngữ văn THPT đề cao và coi kĩ năng vận dụng là một mục tiêu cần đạt
quan trọng chương trính.
Từ sự phân tìch trên đây, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết phải hính thành một quy trính
khoa học cho người GV, giúp người GV trong việc hướng dẫn HS các thao tác nhằm hính
thành và rèn luyện các kĩ năng vận dụng.
2.2 Thực trạng việc thực hiện tích hợp dạy học đối với bài nghĩa của câu
2.2.1 Vị trí bài dạy “ Nghĩa của câu” trong chương trình Ngữ văn lớp 11 THPT
Bài dạy “ Nghĩa của câu” được sắp xếp ở đầu học kí II, lớp 11.

2.2.2 Thực trạng dạy học tích hợp nghĩa của câu với lĩnh hội và tạo lập văn bản
2.2.2.1. Thực trạng dạy học của GV
- Đa số GV ( tác giả của các thiết kế bài dạy) không coi trọng kiến thức về nghĩa của câu và
việc tìch hợp các kiến thức đó với việc lĩnh hội và tạo lập văn bản. Các giáo án hầu như dập
khuôn theo SGK và sách GV. Chúng tôi khảo sát 18 giáo án của GV đang đứng lớp và 7 giáo
án lưu hành trên thị trường đối với bài dạy “ Nghĩa của câu” thí có 23 giáo án sử dụng ngữ
liệu giống nhau, các bước lên lớp như nhau.
- Việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS chỉ gói gọn trong 2 giờ dạy theo phân phối
chương trính, còn lại hầu như bị bỏ quên
- Không có một quy trính khoa học nhằm rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức.
2.2.2.2 Thực trạng học tập của HS
HS ở bậc THPT học tiếng Việt rất hời hợt, đối phó, gần như không có ý thức suy xét, vận
dụng các kiến thức Tiếng Việt đã học vào tiếp nhận các môn học khác.
Nghĩa của câu là một nội dung kiến thức tiếng Việt nên không tránh khỏi tính trạng nói
trên. HS nắm bắt những kiến thức cơ bản về nghĩa của câu một cách chung chung, không có
ý thức và khả năng vận dụng kiến thức về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản.
2.2.3. Các hiệu quả của dạy học tích hợp nghĩa của câu với đọc hiểu văn bản và tạo lập
văn bản
Học nghĩa của câu, các em không chỉ được học kiến thức tiếng Việt, làm giàu có
thêm tri thức ngôn ngữ cho các em mà các em còn được trang bị một công cụ tư duy để từ đó
phát triển các năng lực tiếp nhận , năng lực tư duy logic, năng lực tư duy tổng hợp, phân tìch
và sáng tạo.

Chƣơng 3: HƢỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 11-THPT VẬN DỤNG HIỂU BIẾT VỀ NGHĨA CỦA
CÂU VÀO VIỆC LĨNH HỘI VÀ TẠO LẬP VĂN BẢN
3.1. Trang bị kiến thức về nghĩa của câu cho HS lớp 11
3.1.1. Định hướng nhận thức
Trang bị kiến thức về nghĩa của câu cho HS, trước hết phải hướng đến mục tiêu nhận thức
ở hai mức độ cơ bản:
Mức 1: Giúp HS biết ( nhớ, nhắc lại, nhận ra) các thành phần nghĩa của câu.

Mức 2: Giúp HS thông hiểu ( chuyển đổi, giải thìch, cắt nghĩa, sắp xếp, diễn đạt) kiến thức
về nghĩa của câu theo những yêu cầu khác nhau.
3.1.2. Định hướng tích hợp
Trang bị kiến thức về nghĩa của câu cho HS cần phải định hướng tìch hợp với các phần
đọc hiểu và tạo lập văn bản nhằm tạo tiền đề cho việc rèn luyện kĩ năng vận dụng sau này.
Trong đó cần phải chú ý đến việc:
- Kiến tạo các bài tập tạo lập văn bản có tình gần gũi với hoạt động giao tiếp
- Kiến tạo các bài tập sử dụng ngữ liệu từ các tác phẩm văn học được giảng dạy trong nhà
trường.
3.2. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức về nghĩa của câu trong đọc -
hiểu văn bản
3.2.1. Thực hiện trong giờ luyện tập về nghĩa của câu
3.2.1.1. Kiến tạo các bài tập mang tính tích hợp với phần đọc hiểu
GV kiến tạo các bài tập nhận diện, phân tìch. Đây là loại bài tập cho sẵn ngữ liệu và yêu
cầu phân tìch, xác định, nhận diện kiến thức lì thuyết. GV chọn các ngữ liệu được lấy từ các
văn bản đọc hiểu mà HS đã được học. Các bài tập này thông thường gồm hai phần: phần nêu
yêu cầu và phần dẫn ngữ liệu.
3.2.1.2. Hướng dẫn HS luyện tập trong đó chú trọng đến việc rèn kĩ năng lĩnh hội văn bản
thông qua việc vận dụng kiến thức về nghĩa của câu
GV thực hiện các bước:
Bước 1: GV gợi ý cho HS nhớ lại hoặc nhắc lại tri thức về nghĩa của câu. Bước 2: Vận
dụng vào ngữ liệu của bài tập để xác định đối tượng cần nhận diện, phân tìch.
Trước hết, GV cần định hướng cho HS một số các quy luật vận dụng khi xác định ngữ
liệu:
Ngữ liệu có đặc điểm gí?
Ngữ liệu thuộc kiểu văn bản nào?
Đối với các định luật, định lì, nguyên lì khoa học thí thành phần nghĩa biểu thị nào quyết
định?
Đối với các văn bản văn học thí thành phần nghĩa nào cần đặc biệt chú ý?
Từ các gợi dẫn trên đây của GV, HS hính thành một hướng vận dụng mang tình hệ

thống.
Bước 3: Phân tìch đối tượng tím được để xác định đặc điểm của nó, đối chiếu với kiến
thức lì thuyết về nghĩa của câu đã học.
3.2.2.1. Đặc trưng của giờ đọc- hiểu văn bản ở trường THPT
Chúng tôi nhận thấy rằng, dù có những điểm khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu và các
GV đứng lớp đều công nhận một số thao tác quan trọng trong dạy đọc- hiểu văn bản là:
- Hướng dẫn HS chuẩn bị cho giờ đọc- hiểu văn bản.
- Tổ chức, hướng dẫn HS đọc diễn cảm/ trần thuật sáng tạo
- Đặt những câu hỏi tím hiểu văn bản
- Bính, giảng
- Hướng dẫn HS vận dụng tri thức
3.2.2.2. Hướng dẫn HS vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội văn bản
Thao tác 1: Hướng dẫn HS vận dụng kiến thức về nghĩa của câu trong hoạt động hướng dẫn
HS chuẩn bị cho giờ đọc- hiểu.
Qúa trính chuẩn bị bài không hoàn toàn lệ thuộc vào những cảm xúc mang tình tức thời.
Qúa trính này có thể chia làm hai giai đoạn:
- Đọc
- Muốn biết được văn bản nói gí.
* Các thao tác hướng dẫn của GV
Hoạt động chuẩn bị bài là một hoạt động dạy học ví vậy với một hoạt động bao giờ
người GV cũng phải xác định:
- Mục tiêu của hoạt động
- Cách tiến hành hoạt động
- Thời lượng để thực hiện hoạt động
- Kết luận về hoạt động
Thao tác 2 Hướng dẫn HS vận dụng kiến thức về nghĩa của câu trong khi kiến tạo các câu hỏi
nhằm tím hiểu văn bản trong giờ đọc -hiểu văn bản.
 Các thao tác kiến tạo câu hỏi của GV theo hướng tìch hợp vận dụng kiến thức về
nghĩa của câu.
Sau khi đã xây dựng kế hoạch bài dạy, xác định các mục tiêu bài học… GV cần lập bảng

điều tiết, tổ chức các câu hỏi.
Bảng 3.1 Bảng điều tiết, tổ chức các câu hỏi:
Tên hoạt
động

Mục tiêu hoạt động

Dạng câu hỏi
Số
lượng
Nhận
thức
Tính
cảm
Kĩ năng
Biết
Hiểu
Vận dụng
1







2








3







Căn cứ vào bảng, GV xác định các yếu tố khả thi để có thể hướng dẫn HS vận dụng hiểu
biết về nghĩa của câu mà trả lời câu hỏi, nói cách khác là dẫn dắt HS vận dụng kiến thức về
nghĩa của câu mà lĩnh hội văn bản.
Bước tiếp theo, GV tiến hành viết câu hỏi.
3.3. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức về nghĩa của câu trong việc
tạo lập văn bản
3.3.1. Thực hiện trong giờ luyện tập về nghĩa của câu
Để rèn kĩ năng vận dụng kiến thức về nghĩa của câu trong việc tạo lập văn bản, loại bài
tập tạo lập là thìch hợp và hiệu quả.
Bài lập tạo lập là loại bài tập yêu cầu HS tự mính tạo nên sản phẩm ngôn ngữ theo một
yêu cầu nào đó. Việc thực hiện những bài tập này gắn với những hoạt động nói và viết hàng
ngày của HS nhưng vẫn ở dạng luyện tập theo yêu cầu.
Trong phạm vi giờ học về nghĩa của câu, thời gian luyện tập trên lớp chỉ gói gọn trong
45 phút, GV phải kiến tạo nhiều loại bài tập khác nhau ví những mục tiêu khác nhau, ví vậy,
GV cần cân đối các loại bài tập cho vừa khớp với thời lượng và lực học của HS.
3.3.2. Thực hiện trong giờ làm văn
GV có thể tiến hành hướng dẫn HS vận dụng kiến thức về nghĩa của câu để rèn luyện kĩ
năng viết câu, viết đoạn, dùng từ trong giờ trả bài làm văn, cụ thể là trong khâu phân tìch và

sửa chữa lỗi. GV có thể thực hiện thông qua các thao tác tổ chức dạy học như sau:
- Chọn ngữ liệu ( câu văn) từ chình bài làm của HS; ngữ liệu phân chia làm hai loại: có lỗi và
không có lỗi.
- Cho HS phân tìch ngữ liệu theo định hướng: nghĩa sự việc của câu, nghĩa tính thái của câu,
từ tính thái sử dụng có thìch hợp không, có thể thay thế từ tính thái đã dùng bằng từ tính thái
khác phù hợp hơn không.
- HS phân tìch và tự quyết định
- GV giảng giải thêm để HS có thể tự sửa lỗi trong chình bài làm của mính.

Chƣơng 4: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
4.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm
Thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm và xác nhận tình khả thi, hiệu quả của đề tài.
4.2. Đối tƣợng, địa bàn, thời gian thực nghiệm

Bảng 4.1 Đối tượng, địa bàn thực nghiệm
Địa bàn thực
nghiệm

Đối tượng thực nghiệm
Trường THPT B
Hải Hậu- Nam
Định
Lớp thực nghiệm
Lớp đối chứng
Lớp
Sĩ số
GV
Lớp
Sĩ số
GV

11A3
45
Vũ Thị Thanh Thúy
11A4
45
Nguyễn Thị Minh
Trường THPT
Ngọc Hồi- Hà
Nội
11A1
45
Bùi Thị Thanh Tâm
11A2
45
Nguyễn Thị
Thường
 Thời gian thực nghiệm
Để đảm bảo tình khách quan, chúng tôi tổ chức dạy thực nghiệm theo kế hoạch dạy học của
nhà trường, của tổ chuyên môn và theo thời khóa biểu.
4.3. Quy trình thực nghiệm
4.3.1. Nội dung thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm dạy học 3 tiết trên lớp: 2 tiết về nghĩa của câu, 1 tiết
đọc- hiểu văn bản.
GV thực hiện các thao tác dạy học nhằm giúp HS có kiến thức về nghĩa của câu, rèn
luyện để HS có thể có khả năng vận dụng hiểu biết đó trong giờ đọc- hiểu và giờ làm văn.
4.3.2. Cách thức tiến hành
* Trao đổi mục đích thực nghiệm với GV dạy thực nghiệm
* Soạn giáo án dạy thực nghiệm, xây dựng các tiêu chí đánh giá kết quả từ giờ dạy và thiết
kế nội dung bài kiểm tra
* Chúng tôi thiết kế phiếu quan sát hành vi thực hiện hoạt động học tập đọc hiểu văn bản

và nội dung bài kiểm tra.
* Tiến hành dạy thực nghiệm và tổ chức đánh giá
Sau khi thực hiện dạy xong các bài học trên, chúng tôi cùng các GV kiểm tra 1 tiết và
chấm bài theo đáp án đã xây dựng.
4.3.3. Kết quả thực nghiệm
Chúng tôi tổng hợp kết quả bài kiểm tra và phiếu đánh giá trong các bảng sau đây:

Bảng 4.5 Bảng so sánh điểm trung bính của bài kiểm tra
Lớp
Số HS
Giá trị trung bính
Lớp đối chứng
90
5,78
Lớp thực nghiệm
90
6,78
Chênh lệch

1, 00
Kết quả bài kiểm tra sau tác động của nhóm lớp thực nghiệm là điểm trung bính 6,78, kết
quả bài kiểm tra tương ứng của nhóm lớp đối chứng là 5,78. Điều này cho thấy có sự khác
biệt rõ rệt về điểm trung bính kiểm tra. Kết quả điểm kiểm tra trung bính của nhóm thực
nghiệm cao hơn nhóm đối chứng 1,00 điểm, có thể kết luận là tác động thực nghiệm có kết
quả, giả thuyết đưa ra là đúng.
Với số câu hỏi tương đương giữa nhóm lớp đối chứng và nhóm lớp thực nghiệm, kết quả
quan sát được có sự khác biệt rất rõ. Tỉ lệ HS tham gia đóng góp xây dựng bài ở lớp thực
nghiệm nhiều hơn, có chất lượng tốt hơn. Do đó, GV tiết kiệm được thời gian, không phải
làm việc quá nhiều, HS tìch cực, chủ động hơn trong giờ học.


KẾT LUẬN
Căn cứ vào mục tiêu của đề tài, luận văn của chúng tôi đã đạt được một số kết quả sau:
1. Chúng tôi đã hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về văn bản, nghĩa của câu trong lì
thuyết ngôn ngữ học; cơ sở tâm lì giáo dục học; thực trạng của việc hướng dẫn HS vận dụng
hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản.
2. Từ cơ sở lì luận và thực tiến trên, chúng tôi đã xây dựng một hệ thống các thao tác
nhằm giúp GV có thể hướng dẫn HS vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và
tạo lập văn bản.
Hệ thống các thao tác này được chúng tôi xây dựng mang ý nghĩa thực tiễn cao, người
GV đứng lớp có thể vận dụng trong thực tế dạy học hiện nay. Chúng tôi đã đưa ra nhiều bài
tập vận dụng, câu hỏi hướng dẫn HS để GV có thể tham khảo.
3. Kết quả thực nghiệm bước đầu khả quan cho thấy tác dụng và tình khả thi của việc
hướng dẫn HS vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu vào việc lĩnh hội và tạo lập văn bản.
4. Qua quá trính nghiên cứu và hoàn thành đề tài, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị,
đề xuất như sau:
(1).Trong toàn bộ chương trính Ngữ văn ở bậc phổ thông, HS chỉ được học 2 tiết về
nghĩa tường minh và hàm ý ở lớp 9, lên lớp 11 cũng chỉ dành thời lượng 2 tiết để dạy về
nghĩa của câu. Kiến thức về nghĩa của câu là kiến thức khó nhưng lại cần thiết cho HS trong
việc nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Am hiểu, có kĩ
năng sử dụng và vận dụng kiến thức về nghĩa của câu sẽ giúp HS không chỉ giữ gín sự trong
sáng của tiếng Việt mà còn giúp HS có thể làm cho tiếng Việt có vị thế xứng đáng hơn trong
hoạt động giao tiếp của các em. Ví vậy, kiến thức về nghĩa của câu cần được dạy cho HS một
cách đầy đủ hơn với thời lượng xứng đáng hơn.
(2) Thành tựu nghiên cứu về nghĩa của câu hiện nay đã được khẳng định trong nhiều
công trính khoa học ngôn ngữ và nhiều công trính nghiên cứu ngôn ngữ rất có giá trị cập
nhật. Nhưng nội dung lì thuyết về nghĩa của câu trong SGK còn rất sơ lược, chỉ ở mức nhận
diện đơn giản, làm cho HS và GV lúng túng khi phải phân biệt các kiến thức ở lớp 9 và lớp
11. Chúng tôi kiến nghị nên xây dựng hệ thống kiến thức về nghĩa của câu một cách đầy đủ
hơn, cập nhật thông tin thành tựu khoa học hơn khi đưa vào SGK và SGV.
5. Tuy nhiên, do thời gian có hạn, phương tiện và địa bàn thực nghiệm còn nhiều khó

khăn… ví vậy, quy mô thực nghiệm của chúng tôi bước đầu còn đơn giản so với yêu cầu của
đề tài đặt ra.
Mặt khác, với trính độ kinh nghiệm còn non trẻ, luận văn của chúng tôi chắc chắn không
tránh khỏi khiếm khuyết. Chúng tôi xin chân thành mong được các Thầy-Cô giáo, các nhà
khoa học góp ý, chỉ dẫn để chúng tôi có thể hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu góp phần công
sức nhỏ vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường hiện
nay.



References
1. Lê A (chủ biên,2009), Phương pháp dạy học tiếng Việt. NXBGiáo dục
2. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản. NXB Giáo dục
3. Diệp Quang Ban (2009), Ngữ pháp Việt Nam. NXB Giáo dục
4. Bộ Giáo dục và đàotạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. NXB
Giáo dục
5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2010), Dự án Việt- Bỉ, Dạy và học tích cực một số phương
pháp và kĩ thuật dạy học, NXB Đại học sư phạm.
6. Bộ Giáo dục và đào tạo(2010), Dự án Việt Bỉ, Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng . NXB Đại học sư phạm.
7. Bộ Giáo dục và đào tạo( 2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình
SGK lớp 10- THPT. NXB Giáo dục
8. Nguyễn Huy Cẩn chủ biên (2008), Ngôn ngữ học một số phương diện nghiên cứu liên
ngành. NXB Khoa học xã hội
9. Đỗ Hữu Châu- Bùi Minh Toán ( 2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 1. NXB Giáo
dục
10. Nguyễn Hải Châu (chủ biên,2006), Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và
kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn. NXB Hà Nội
11. Nguyễn Viết Chữ, (2008), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà
trường. NXB Giáo dục

12. Trương Dĩnh (2008), Thiết kế dạy học Ngữ văn 11 theo hướng tích hợp. NXB Giáo
dục
13. Nguyễn Văn Đường (chủ biên, 2006), Thiết kế bài dạy Ngữ văn 11. NXB Hà Nội
14. Cao Xuân Hạo (chủ biên,1999), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt- câu. NXB Giáo dục
15. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đính Sử (2004), Từ điển thuật ngữ văn học.
NXB Giáo dục
16. Lưu Đức Hạnh(2008), Thiết kế bài dạy Ngữ văn 11. NXB Giáo dục
17. Nguyễn Chì Hòa (2008), Các phương tiện liên kết và tổ chức văn bản, NXB
ĐHQGHN
18. Võ Lì Hòa, Các đặc trưng ngôn ngữ cơ bản của văn bản tóm tắt, Tạp chì Ngôn ngữ,
số 4, tr28-40,năm 2009
19. Nguyễn Văn Hiệp(2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích ngữ pháp. NXB Giáo dục
20. Nguyễn Thúy Hồng (2007), Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn học sinh
THCS và THPT. NXB Giáo dục
21. Đỗ Việt Hùng (1998), Phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh trong việc day học
tiếng Việt. NXB Giáo dục
22. Phan Trọng Luận(1999), Phương pháp dạy học văn. NXB ĐHQG Hà Nội
23. Phan Trọng Luận( 2008), Thiết kế bài dạy Ngữ văn 11. NXB Giáo dục
24. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương và bạn đọc sáng tạo, NXB ĐHQG Hà Nội
25. NguyÔn ThÞ L¬ng (2009), C©u tiÕng ViÖt, NXB §ại học sư phạm
26. Đăng Lưu, Tu từ cú pháp trong câu văn Nguyễn Tuân, t/c Ngôn ngữ số 12, tr16-24,
2009
27. Lê Sử, Hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản nghị luận từ phương diện ngôn ngữ, t/c
Ngôn ngữ số 4, tr75-80, 2009
28. Tạp chì Văn học và tuổi trẻ (2008), ThiÕt kÕ bµi d¹y ng÷ v¨n THPT- NXB gi¸o dôc
29. Ph¹m Toµn (2006), C«ng nghÖ d¹y v¨n, NXB Gd
30. Trần Thị Chung Toàn (2010), Chủ thể văn bản và vấn đề giảng dạy tiếng Nhật cho
sinh viên Việt Nam. Tạp chì Ngôn ngữ số 4- 2010. tr.69
31. Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp (1999), Thành phần câu tiếng Việt, NBX
ĐHQG HN

32. Lê Trì Viễn (2006), Một đời dạy văn, viết văn- tập 4, NXB Giáo dục
33. Hồng Vân (bài phỏng vấn PGS. TS Đỗ Việt Hùng), Tiếp cận môn ngữ văn theo
hướng tích hợp. Báo Giáo dục & thời đại chủ nhật, số 3, 17-1-2010
34.Nguyễn Như Ý(2003), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học. NXB Giáo dục




×