Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Sử dụng bài tập lịch sử nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trung học phổ thông (vận dụng khóa trình lịch sử thế giới cận đại lớp 11, trung học phổ thông, chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.14 KB, 16 trang )

Sử dụng bài tập Lịch sử nhằm rèn luyện kỹ
năng tự học cho học sinh trung học phổ thông
(vận dụng khóa trình lịch sử thế giới cận đại
lớp 11, trung học phổ thông, chương trình
chuẩn)


Phạm Thị Thủy


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Lịch sử)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thế Bình
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu các cơ sở lý luận về kĩ năng tự học, việc sử dụng bài tập
nhằm rèn luyện KNTH cho HS. Điều tra thực tiễn sử dụng bài tập nhằm rèn luyện
KNTH cho HS trong dạy học lịch sử ở các trường THPT thuộc huyện Kinh Môn –
tỉnh Hải Dương. Tìm hiểu nội dung chương trình SGK lịch sử lớp 11 THPT (Phần
lịch sử thế giới cận đại) để xác định các dạng bài tập lịch sử sử dụng trong các tiết
dạy nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho HS. Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài
tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm
nghiệm tính khả thi của đề tài.

Keywords. Lịch sử; Bài tập; Kỹ năng tự học


Content
MỞ ĐẦU


1- Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại, vấn đề tự học ngày càng được quan tâm và đang trở thành một xu
thế toàn cầu. Rèn luyện kỹ năng tự học cho HS có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện
mục tiêu môn học, góp phần đào tạo những con người lao động có năng lực thực hành, chủ
động, sáng tạo, say mê học tập và có ý chí vươn lên. Rèn luyện các kỹ năng tự học là một nội
dung quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường ở nước ta hiện nay. Điều
28.2 của Luật giáo dục đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học,
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh” [24;23].
Có nhiều kỹ năng tự học cần hình thành và rèn luyện cho HS trong quá trình dạy học bộ
môn lịch sử. Khi giải quyết bài tập, các kỹ năng cơ bản như làm việc với sách giáo khoa; ghi
nhớ sự kiện, tái hiện kiến thức lịch sử; phân tích, tổng hợp kiến thức; so sánh, thực hành bộ
môn được củng cố và phát triển. Bên cạnh đó, rèn luyện cho HS tính tự giác, tích cực, chủ
động, độc lập và hứng thú đối với bộ môn.
Sử dụng bài tập để rèn luyện các kĩ năng tự học cho HS trong quá trình dạy học lịch sử ở
nhà trường phổ thông có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều giáo viên chỉ tập
trung vào dạy kiến thức, ít khuyến khích HS tự học. Về phía HS, do nhiều yếu tố tác động,
đặc biệt tâm lý coi nhẹ môn phụ, tình trạng học tập thụ động, chi phối tới quá trình hoàn
thành bài tập. Một bộ phận không nhỏ học sinh phổ thông hiện nay chưa có ý thức làm bài
hoặc làm bài tập để đối phó với sự kiểm tra của giáo viên. Thực trạng trên khiến việc sử dụng
bài tập để rèn luyện các kỹ năng tự học cho HS chưa phát huy hết tác dụng dẫn đến hiệu quả
học tập của HS chưa cao.
Quá trình phát triển của lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX) trong
chương trình lịch sử lớp 11 là giai đoạn phát triển tiếp nối phần lịch sử thế giới cận đại lớp 10
(thế kỷ XVI – XVIII), đồng thời mở ra giai đoạn phát triền tiếp theo của lịch sử thế giới hiện
đại. Với nội dung đó, khóa trình lịch sử thế giới cận đại chiếm vị trí quan trọng trong chương
trình lịch sử lớp 11 ở trường THPT. Sử dụng hệ thống bài tập trong dạy học phần lịch sử thế
giới cận đại sẽ giúp các em chủ động học tập, rèn luyện các kỹ năng tự học của bản thân.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng bài tập nhằm rèn luyện
kỹ năng tự học cho học sinh trung học phổ thông” (Vận dụng khóa trình lịch sử thế giới cận
đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX) lớp 11, chương trình chuẩn) làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trên thế giới
Trong lịch sử giáo dục thế giới, vấn đề tự học được quan tâm từ rất sớm và nhìn nhận
theo nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Các nhà bác học cổ đại như Xôcorat (469 – 690 TCN), Arixtot (384 – 322 TCN), Khổng
Tử (551 – 479 TCN), Mạnh Tử (372 – 289 TCN), Trương Tài (97 – 27 TCN), đều đánh giá
cao vai trò của tự giáo dục, tự bồi dưỡng và coi trọng việc phát huy tính tích cực của HS.
Đến thời cận đại, vấn đề phát huy tính tích cực sáng tạo của HS đã trở thành ý tưởng
chung của nhiều nhà tư tưởng và giáo dục như Thô-Mat-Mo-Rơ (1476 – 1535), Môn-tê-nhơ
(1533 – 1592), Cô-men-xki (1592 – 1670), Krup-xcai-a (1869 – 1939)
Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến nay, vấn đề tự học được đề cao. N.A Rubakin
với tác phẩm “Tự học như thế nào” nhấn mạnh “Việc giáo dục động cơ đúng đắn là điều kiện
cơ bản để bạn tích cực, chủ động trong tự học” [28; 36]. Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra
nhiều quan điểm tổ chức hoạt động tích cực của HS, trong đó có sử dụng hệ thống bài tập.
Tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” của nhà sư phạm N.G.Đairi nhấn mạnh đến
loại bài tập gợi vấn đề trên lớp để tổ chức hoạt động nhận thức của người học.
Như vậy, vấn đề tự học được nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Tuy có nhiều ý kiến
khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò to lớn của TH. Đồng thời, đề
xuất các biện pháp để rèn luyện, phát triển kỹ năng tự học cho người học, trong đó có sử
dụng hệ thống bài tập.
2.2 Trong nước
Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về TH, mỗi thời kì quan niệm về TH và
KNTH khác nhau.
Dưới thời phong kiến, nền giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng của ảnh hưởng từ Trung
Quốc. TH được thực hiện máy móc, tức chỉ cần thuộc thi, thư, lế, nghĩa, khiến người học bị
động, mất đi suy nghĩ độc lập.

Trước Cách mạng tháng Tám (1945), số người mù chữ chiếm hơn 90% dân số, do đó vấn
đề tự học ít được đề cập đến.
Từ sau năm 1945 đến nay, vấn đề TH được quan tâm trong nhiều công trình nghiên cứu.
Chủ tich Hồ Chí Minh là tấm gương tự học và có nhiều quan điểm lý luận đúng đắn xoay
quanh vấn đề này. Người dạy rằng: “về cách học phải lấy tự học là cốt Phải tự nguyện tự
giác xem công việc học tập là nhiệm vụ cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được, do đó
mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập”[26;11]. Nguyên tắc TH đem lại thành
công cho Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp giữa học và hành “học đến đâu, luyện tập thực
hành đến đến đó”[26;174].
Những năm 60, tư tưởng tự đào tạo đã xuất hiện ở trường Đại học sư phạm Hà Nội với
phong cách giảng dạy và học tập mới, cốt lõi là khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo”[42;106].
Từ những năm 1977 – 1978 đến năm 1986 – 1987, dưới sự chủ trì của GS. Nguyễn Cảnh
Toàn, tập thể các nhà khoa học đã nghiên cứu và triển khai chương trình “Tự học có hướng
dẫn kết hợp với thực tập dài hạn ở trường phổ thông”. Năm 1998, Nhà xuất bản Giáo dục
cho ra mắt cuốn “Tự học – tự đào tạo – tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt
Nam. Năm 2001, hai cuốn sách “Học và dạy cách học”, “Tuyển tập tác phẩm tự học, tự
nghiên cứu” (tập 1, 2) của GS.Nguyễn Cảnh Toàn được xuất bản. Có thể coi đây là “Cẩm
nang” quý giá cho những người có ý thức TH.
Ngoài ra, các học giả trong nước còn chú ý tới sử dụng bài tập để rèn luyện và phát triển
các KNTH cho HS. Tiêu biểu là: Giáo trình Phương pháp dạy học lịch sử do GS.Phan Ngọc
Liên chủ biên khẳng định có nhiều loại bài tập lịch sử. Năm 2010 và 2011, hội thảo khoa học
quốc gia về “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển kỹ
năng tự học cho học sinh” được tổ chức.
Bên cạnh đó, có nhiều bài báo, khóa luận tốt nghiệp đề cập tới các biện pháp rèn luyện và
phát triển KNTH lịch sử. Điển hình như “Hướng dẫn làm bài tập lịch sử” của tác giả
Nguyễn thị Côi và Phạm Thị Kim Anh đăng trên Tạp chí Giáo dục số 6/1994,
Như vậy, vấn đề tự học và các biện pháp tổ chức hoạt động TH được đông đảo các nhà
giáo dục trên thế giới và trong nước đề cập tới dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.
Nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu các biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn

luyện kỹ năng tự học cho HS. Chính vì vậy, chúng tôi khẳng định đây là hướng khai thác mới
của luận văn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy học lịch sử ở trường
THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung xác định các biện pháp nhằm rèn luyện KNTH cho HS thông qua sử
dụng bài tập lịch sử ở phần lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX), lớp 11
THPT, chương trình chuẩn.
Luận văn tiến hành điều tra ở một số trường tại huyện Kinh Môn – tỉnh Hải Dương và
thực nghiệm sư phạm qua bài: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), (tiết 01) tại
trường THPT Phúc Thành (Kinh Môn – Hải Dương).
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Đề tài đi sâu tìm hiểu nội dung các dạng bài tập và đề xuất một số biện pháp sử dụng
bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS khi dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa
đầu thế kỷ XX).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận về kĩ năng tự học, việc sử dụng bài tập nhằm rèn
luyện KNTH cho HS.
- Điều tra thực tiễn sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy học lịch
sử ở các trường THPT thuộc huyện Kinh Môn – tỉnh Hải Dương.
- Tìm hiểu nội dung chương trình SGK lịch sử lớp 11 THPT (Phần lịch sử thế giới cận
đại) để xác định các dạng bài tập lịch sử sử dụng trong các tiết dạy nhằm rèn luyện KNTH
cho HS
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận của đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về giáo dục – đào tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận giáo dục học, tâm lý học, phương pháp dạy học lịch sử về vấn đề
sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Nghiên cứu chương trình SGK lịch sử lớp 11 nói chung và khóa trình lịch sử thế
giới cận đại (thế kỷ XIX– nửa đầu thế kỷ XX) nói riêng.
- Tiến hành khảo sát, điều tra thực tiễn bằng phiếu hỏi, quan sát, dự giờ, phỏng vấn
GV, HS về vấn đề sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH.
- Đề xuất các biện pháp sư phạm và tiến hành thực nghiệm ở trường phổ thông.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng các biện pháp theo yêu cầu của luận văn đưa ra sẽ góp phần rèn luyện
tốt KNTH cho HS và nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT.
7. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Phản ánh rõ thực trạng sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy
môn học lịch sử ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy
học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX) lớp 11 THPT, chương trình
chuẩn.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
8.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm phong phú thêm lí luận phương pháp dạy học lịch sử về rèn luyện
KNTH cho HS qua sử dụng bài tập lịch sử.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh ở trường
THPT trong việc rèn luyện KNTH cho HS trong dạy học lịch sử.
9. Bố cục khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm 2 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ
năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Chƣơng 2: Một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tự học cho học
sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX), lớp 11, THPT,
chương trình chuẩn.

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÀI TẬP
NHẰM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về sử dụng bài tập nhằm RLKNTH cho học sinh
1.1.1.1. Quan niệm về học, tự học, tự học lịch sử
- Khái niệm “học”:
“Học” như là một quá trình thu nhận ghi nhớ, tích lũy, sử dụng, lí giải, liên kết, xử lí
thông tin, giải quyết vấn đề. Như vậy học cốt lõi là tự học.
- Tự học:
Theo Từ điển giáo dục học cho rằng: “Tự học là quá trình tự mình hoạt động lĩnh hội
tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo [13;34].
Như vậy, bản chất hoạt động tự học của HS là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động,
sáng tạo dưới sự hướng dẫn của GV nhằm tìm ra cách chiếm lĩnh tri thức khoa học. Theo các
nhà sư phạm: Quá trình tự học là một hệ thống toàn vẹn bao gồm 3 thành tố: Thầy (dạy) –
Trò ( học) và tri thức.
Sơ đồ: Mô hình dạy – tự học













Trò: chủ thể Lớp: cộng đồng lớp học, môi trường xã hội
Tri thức: Tự tìm ra với sự hướng dẫn của thầy và hợp tác của cả lớp
Thầy: tác nhân hướng dẫn, tổ chức

Tự học có những vai trò sau đây: Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học;
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình
học tập; Tự học giúp mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng
lực phẩm chất và cống hiến.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
- Tự học dưới sự hướng dẫn của GV; tự học không có sự hướng dẫn của GV ; tự học
trong cuộc sống ; hình thức tự học có sự hướng dẫn từ xa của GV; tự học mò mẫm
Đối với HS THPT thì hình thức tự học có sự hướng dẫn trực tiếp của GV ở trên lớp và
học tập ở nhà (HS tự làm bài tập, tự đọc, tự nghiên cứu theo SGK, tài liệu tham khảo ) là phổ
biến nhất.
Như vậy quá trình tự học của HS có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: HS tự phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết vấn đề, thu thập
thông tin và ghi lại những nghiên cứu ban đầu.
Gai đoạn 2: Tự thể hiện bằng văn bản, trình bày giới thiệu và bảo vệ ý kiến của mình,
ghi lại ý kiến của bạn bè, thầy giáo.
Giai đoạn 3: So sánh đối chiếu kết luận của thầy, bạn với ý kiến của mình để tự sửa
chữa điều chỉnh, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn
đề.

Như vậy, tự học của HS chủ yếu dựa vào các bài học cụ thể trong SGK, những tài liệu
có liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh, mở rộng làm cho quá trình nhận thức của HS
mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Quan trọng hơn, việc tự học của HS được
Tri
thức
Thầy
Lớp
Trò
hình thành và rèn luyện dưới sự dìu dắt định hướng của GV. Mục đích tự học của HS THPT
là giúp các em hiểu sâu sắc trọn vẹn bài học bằng chính năng lực của mình và biết vận dụng
nó như một “kinh nghiệm” của bản thân
- Tự học lịch sử:
Trong dạy học lịch sử, “tự học của HS là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách
chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách thành
thạo” [28;107]. Bản chất của tự học lịch sử là quá trình nhận thức tự giác, tích cực, độc lập,
sáng tạo của người học với sự hướng dẫn của GV nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ học tập
bộ môn.
1.1.1.2. Kỹ năng và rèn luyện kỹ năng tự học lịch sử
- Kỹ năng
Theo Từ điển Tiếng Việt, “kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận
được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [38;520].
Vì thế, là khả năng thực hiện hành động có kết quả trong những tình huống cụ thể.
Người có kỹ năng là người biết lựa chọn, sắp xếp và thực hiện đúng các thao tác nhằm đạt
được kết quả mong muốn.
- Kỹ năng tự học của học sinh
Kỹ năng tự học của học sinh THPT là quá trình người học hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức
và rèn luyện kĩ năng thực hành bằng cách tự đọc sách giáo khoa, sưu tầm tài liệu. Từ đó, tự
làm các bài tập của môn học, tham gia trong tổ học tập chuyên môn. Tự học của HS THPT
chỉ dừng lại ở mức độ thấp – tự học có hướng dẫn của GV. Việc làm bài tập là một cách để
các em “vận dụng” kiến thức hiệu quả. Để rèn luyện cho HS một KNTH tốt, trong mỗi giờ

học người GV hướng dẫn các em biết tự học từ mức độ thấp đến cao để đến khi rời ghế nhà
trường các em có được một năng lực TH hoàn thiện.
-Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh
Theo Từ điển Tiếng Việt, rèn luyện là “luyện tập nhiều để đạt tới trình độ vững vàng,
thông thạo” [38;987].
Việc rèn luyện kỹ năng TH trong bộ môn lịch sử được hiểu là quá trình hình thành về
số lượng các kỹ năng và rèn luyện để nâng cao về mặt chất lượng kỹ năng, giúp các kỹ năng
trở lên thành thục, thông thạo.
Như vậy, rèn luyện KNTH cho HS là việc GV sử dụng linh hoạt các hình thức,
phương pháp tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, tự giác của người học.
Dưới sự hướng dẫn, kiểm tra của GV, HS tự lĩnh hội kiến thức độc lập, vận dụng vào thực
tiễn cuộc sống. Kết quả của quá trình rèn luyện KNTH phụ thuộc vào sự nỗ lực của học sinh
trong suốt quá trình học tập lâu dài.
1.1.1.3. Bài tập và bài tập lịch sử
- Bài tập:
Theo Từ điển Tiếng Việt, bài tập là “bài ra cho học sinh làm để vận dụng kiến thức đã
học” [38;27].
Như vậy, bài tập không chỉ là sự củng cố, hoàn thiện kiến thức đã học của HS, mà còn
là đơn vị tổ chức, một nguồn nhận thức trong quá trình học tập.
Câu hỏi và bài tập có điểm giống nhau và khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết
với nhau qua hai mặt chức năng dạy học và cấu trúc. So với câu hỏi, bài tập phức tạp hơn, HS
cần phải đầu tư thời gian và công sức để giải quyết vấn đề được đặt ra. Kết quả của việc giải
quyết bài tập sẽ đem lại cho người học những tri thức và kỹ năng mới, đồng thời hoàn thiện
và củng cố những tri thức, kỹ năng sẵn có.
- Bài tập lịch sử
Bài tập lịch sử mang đầy đủ những đặc trưng của bài tập và những đặc trưng của bộ
môn. Đây là phương tiện thúc đẩy nỗ lực tự học của HS, giúp các em tiếp cận dần với các
phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Đồng thời, bài tập lịch sử được đặt ra cho tất cả các đối
tượng với tính chất và mức độ khác nhau, phù hợp năng lực nhận thức của HS. Đối với bậc
trung học phổ thông, bài tập yêu cầu HS ghi nhớ, phân tích, liên hệ, vận dụng kiến thức,…

Như vậy, bài tập lịch sử có vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy nỗ lực tự học,
phát huy năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của HS, giúp các em tiếp cận dần với phương
pháp tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy lịch sử. Khi HS học lịch sử được làm bài tập
thường xuyên sẽ giúp các em từng bước rèn luyện KNTH.
1.1.1.4. Ưu thế bài tập đối với việc rèn luyện KNTH cho HS
- Bài tập có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có một vai trò nhất định đối với việc rèn
luyện KNTH của HS.
Bài tập trắc nghiệm giúp HS ghi nhớ, tái hiện và huy động kiến thức đã học trên lớp;
Bài tập tự luận yêu cầu đánh giá, bình luận sự kiện, nhân vật đòi hỏi khả năng phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa; Bài tập thực hành rèn luyện kỹ năng thực hành bộ môn
cho học sinh khi vận dụng kiến thức.
Như vậy, từng loại bài tập khác nhau góp phần quan trọng củng cố, rèn luyện các
KNTH cũ, đồng thời tiếp nhận, hình thành các KNTH mới ở người học.
- Việc hoàn thành bài tập đòi hỏi ở HS thái độ tự giác cao, kiên trì, chịu khó.
- Bài tập thường gắn với nội dung kiến thức trong quá trình học của từng mục, từng
bài, từng chương.
- Sử dụng bài tập là biện pháp dễ thực hiện và có hiệu quả trong việc rèn luyện
KNTH cho HS. Bài tập được sử dụng trong giờ học nội khóa, ngoại khóa, tự học ở nhà, kiểm
tra, đánh giá,…
Như vậy, bài tập có nhiều ưu thế trong việc rèn luyện KNTH cho người học. Bài tập
được thiết kế, sử dụng hợp lý sẽ tạo điều kiện tăng cường hứng thú, khắc phục lối học thụ
động, kích thích sự tìm tòi, độc lập, sáng tạo khi giải quyết một vấn đề lịch sử của HS.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng bài tập nhằm rèn KNTH cho HS
1.1.2.1. Mục tiêu giáo dục và đào tạo
Luật giáo dục 2005 nêu rõ sử dụng những phương pháp giáo dục có khả năng “phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS” (điều 28 chương II. Hệ thống giáo dục
quốc dân) [24;17].
1.1.2.2. Đặc điểm của kiến thức trong sách giáo khoa lịch sử

Thứ nhất: Kiến thức lịch sử đưa vào chương trình giảng dạy mang tính ổn định, được
các nhà khoa học và công chúng thừa nhận; Thứ hai: Nhận thức lịch sử xuất phát từ sự kiện
lịch sử; Thứ ba: Kiến thức lịch sử là các biến cố, hiện tượng, niên đại, địa danh, nhân vật,
khái niệm, quy luật, nguyên lý, bài học kinh nghiệm, phương pháp học tập và vận dụng kiến
thức.
Với những đặc trưng như vậy chúng ta không thể tiến hành dạy học theo lối một chiều
“thầy đọc, trò chép”, hình thành và rèn luyện KNTH là vấn đề rất cần thiết hiện nay.
1.1.2.3 Đặc điểm tâm sinh lý và nhận thức của học sinh THPT
Học sinh lớp 11 đã trưởng thành về mặt nhận thức, các em muốn độc lập khám phá,
tìm hiểu nội dung tri thức trong cuốc sống. Vì vậy, GV cần có phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, hứng thú tìm tòi, tư duy độc lập của các em. Việc xây dựng và sử dụng hệ thống
bài tập sẽ phát huy được những năng lực đó, góp phần rèn luyện năng lực tự học hiệu quả.
1.1.2.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, khóa VII chỉ rõ “Đổi mới
phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện
hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh” [26;268].
Sử dụng hệ thống bài tập là một trong những biện pháp dễ thực hiện và có hiệu quả để
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS
góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học trước xu thế phát triển của thế giới.
1.1.3. Phân loại bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS
* Bài tập trắc nghiệm khách quan
Bài tập đúng – sai rèn luyện kỹ năng ghi nhớ kiến thức; Bài tập nhiều lựa chọn rèn
luyện kỹ năng tư duy nhanh để hiểu bản chất của các sự kiện, hiện tượng; Bài tập ghép đôi
rèn luyện kỹ năng xác lập quan hệ giữa các phần kiến thức; Bài tập điền khuyết rèn luyện kỹ
năng diễn đạt cho HS.
* Bài tập tự luận
Bài tập rèn luyện kỹ năng tái hiện kiến thức lịch sử; Bài tập rèn luyện kỹ năng phân
tích, giải thích các sự kiện, hiện tượng lịch sử; Bài tập rèn luyện kỹ năng tổng hợp, khái quát,

đánh giá, nhận định các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử.
* Bài tập thực hành
Bài tập rèn luyện kỹ năng vẽ bản đồ, lược đồ, sơ đồ, biểu đồ; Bài tập rèn luyện kỹ
năng lập niên biểu; Bài tập rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, sưu tầm và trình bày tài liệu
tham khảo.
Như vậy chúng ta có thể môn lịch sử cũng có các dạng bài tập đa dạng, phù hợp với
từng đối tượng HS và mục đích sử dụng. Mỗi dạng bài tập có những đặc trưng và yêu cầu
riêng. Tuy nhiên trên thực tế khi làm bài nhiều em còn lúng túng và giải quyết bài tập còn
nhiều thiếu sót. Vì vậy, HS cần được rèn luyện làm bài tập nhiều hơn trong các tiết học lịch
sử.
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của bài tập đối với việc rèn luyện KNTH cho HS
1.1.4.1 Vai trò
Bài tập giúp HS củng cố, hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức và là những biện pháp
phát triển nhận thức độc lập của người học, đặc biệt tư duy độc lập. Đây còn là một hình thức
quan trọng để kiểm tra, đánh giá, tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
1.1.4.2. Ý nghĩa
* Kiến thức
Bài tập giúp HS tiếp thu, nắm vững, hiểu sâu sắc kiến thức một cách chủ động, tích
cực.
* Thái độ
Bài tập là phương tiện giúp HS độc lập, chủ động trong học tập
* Kỹ năng
Bài tập có tác dụng bồi dưỡng, rèn luyện khả năng diễn đạt, trau dồi ngôn ngữ nói và
viết cho HS.
Như vậy, bài tập là một trong những phương tiện dạy học quan trọng có tác dụng
nhiều mặt, góp phần hoàn thành nhiệm vụ môn học, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của
HS.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc rèn luyện KNTH qua sử dụng bài tập lịch sử
1.1.5.1. Yếu tố chủ quan
1.1.5.2. Yếu tố khách quan

1.1.6. Những kỹ năng tự học cơ bản cần rèn luyện cho học sinh khi sử dụng bài tập
lịch sử
- Kỹ năng ghi nhớ, tái hiện kiến thức lịch sử
- Kỹ năng phân tích, tổng hợp các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
- Kỹ năng so sánh, đánh giá, khái quát hóa, trừu tượng hóa.
- Kỹ năng làm việc với SGK, tài liệu tham khảo để hoàn thành bài tập
- Kỹ năng khai thác các đồ dùng trực quan và internet
- Kỹ năng thực hành và vận dụng kiến thức
- Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
Đây là những KNTH cơ bản cần được rèn luyện ở HS thông qua sử dụng bài tập.
Những kỹ năng đó là cơ sở để chúng tôi xác định các biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn
luyện KNTH cho HS ở chương sau.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nhận thức của giáo viên về vấn đề sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH
cho HS
Phần lớn các GV lịch sử ở trường phổ thông đều có những nhận thức đúng đắn về
việc rèn luyện KNTH cho HS thông qua sử dụng bài tập nhưng còn nhiều GV lúng túng khi
vận dụng các phương pháp sử dụng bài tập đạt hiệu quả.
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH của HS trong quá
trình học tập môn lịch sử
Đa phần HS có nhận thức đúng đắn về vấn đề TH cũng như việc sử dụng bài tập
nhằm rèn luyện KNTH. Nhưng hiệu quả làm bài tập lịch sử chưa cao, mức độ chủ động, độc
lập nhận thức của các em còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc đề ra các biện pháp sử dụng bài tập
nhằm rèn luyện KNTH cho HS càng trở lên cấp thiết hơn.
1.2.3. Nguyên nhân thực trạng
- Thời gian học trên lớp và tự học ở nhà ít.
- Phương pháp dạy học của GV. Việc chậm đổi mới phương pháp giảng dạy học, chưa
chú trọng vào việc sưu tầm, xây dựng hệ thống bài tập phong phú, đa dạng. Khi giao bài tập
cho các em, GV không định hướng hoạt động làm bài mà chỉ đưa bài tập mang tính chất
thông báo.

-Ý thức của HS. Thực tế cho thấy, nhiều HS đã không thực sự cố gắng trong quá trình
hoàn thành bài tập GV giao cho. Một bộ phận lớn HS chưa thực sự quan tâm tới bộ môn lịch
sử, chưa có động cơ, ý thức học tập đúng đắn. Môn lịch sử thường bị coi nhẹ và học đối phó.
* *
Thông qua việc tìm hiểu những vấn đề lý luận, chúng tôi nhận thấy việc rèn luyện
KNTH cho HS chiếm vị trí quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Có
nhiều con đường, biện pháp rèn luyện KNTH, song việc sử dụng bài tập chiếm ưu thế hơn cả.
Thông qua hệ thống bài tập, các kỹ năng tự học của HS được rèn luyện từ mới lạ đến thành
thục. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng bài tập để rèn luyện KNTH cho HS chưa đem lại
hiệu quả cao. Vì vậy, chúng tôi đề xuất một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện
KNTH cho HS dựa trên một đơn vị kiến thức cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế trên.

CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BÀI TẬP NHẰM RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI (THẾ
KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX) LỚP 11, THPT, CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN
2.1 Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử thế giới Cận đại (thế kỷ
XIX – đầu thế kỷ XX) lớp 11 THPT ( Chƣơng trình chuẩn)
2.1.1. Vị trí
Phần lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX) là toàn bộ nội dung
của chương I, II, III, .
2.1.2. Mục tiêu
- Kiến thức
+ Sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản Âu – Mĩ đối với các nước châu Á, Phi, Mĩ
Latinh, phong trào đấu tranh của nhân dân các nước châu Á, Phi, Mĩ Latinh.
+ Mâu thuẫn giữa các nước nước đế quốc đẫn tới chiến tranh đế quốc dẫn đến cuộc
chiến tranh thế giới thế giới thứ nhất.
+ Hiểu biết các thành tựu, tác động của văn hóa thời cận đại đến sự phát triển của lịch
sử; ôn tập toàn bộ chương trình lịch sử thế giới cận đại ở lớp 10, 11.
- Tư tưởng

Nhận thức âm mưu thủ đoạn của bọn đế quốc xâm lược; giáo dục tình thần đoàn kết
quốc tế, hữu nghị giữa các dân tộc; lên án chiến tranh đế quốc; hiểu được vai trò, ý nghĩa của
văn hóa đối với sự phát triển của lịch sử.
- Kỹ năng
GV rèn luyện và phát triển cho HS các kỹ năng phân tích, so sánh, đánh giá sự kiện,
hiện tượng lịch sử; sử dụng bản đồ trong học tập; lập bảng thống kê để rút ra nhận xét, đánh
giá; biết liên hệ quá khứ với hiện tại, lịch sử Việt Nam với lịch sử thế giới.
2.1.3. Nội dung cơ bản của lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)
Bao gồm 3 chương, 8 bài được giảng dạy trong 10 tiết (từ tiết 01 đến 10):
* Các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh (chương I)
Nội dung nổi bật của chương này là các nước châu Á từ thế kỷ XIX đã không đứng
vững trước làn sóng thôn tính ào ạt của các nước phương Tây nên lần lượt trở thành thuộc địa
và phụ thuộc. Riêng Nhật Bản với cuộc Duy tân Minh Trị (1868) vươn lên thành một nước tư
bản và bước vào hàng ngũ các nước đế quốc.
Đến cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, châu Phi và Khu vực Mĩ latinh đã bị các nước
đế quốc phân chia nhau. cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân diễn ra quyết liệt và
nhiều nước giành được độc lập.
* Chiến tranh thế giới thứ nhất (chương II)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến là sự tranh giành thuộc địa giữa các nước đế quốc.
Diễn biến cuộc chiến tranh xảy ra với 2 giai đoạn và gây nên những thiệt hại to lớn về người
và của.
*Những thành tựu văn hóa thời cận đại (chương III)
Trong thời kì cận đại với biết bao sự kiện lịch sử biến động đã tác động mạnh mẽ đến
tình hình văn hóa. Nhiều thành tựu đã đạt được trong các lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, tư
tưởng.
Như vậy, nội dung cơ bản của lịch sử thế giới cận đại (thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX) rất
cần thiết giúp HS để hiểu rõ và sâu sắc hơn tiến trình phát triển của xã hội loài người từ thời
kì trung đại, cận đại đến hiện đại.
2.2. Một số yêu cầu khi xây dựng và sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho
HS trong dạy học lịch sử

- Bài tập phải tập trung vào nội dung cơ bản của bài, chương, khóa trình lịch sử
- Bài tập phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh
- Bài tập phải được sử dụng thường xuyên trong quá trình dạy học bộ môn
- Sử dụng bài tập phải gây hứng thú học tập cho học sinh
- Bài tập phải có mối quan hệ chặt chẽ với các khâu của quá trình dạy học
- Sử dụng bài tập phải phù hợp với thời gian và thời điểm.
2.3 Một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS trong dạy
học lịch sử thế giới cận đại (thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX) lớp 11 THPT, chƣơng trình
chuẩn
2.3.1. Bài tập trắc nghiệm khách quan
Bài tập trắc nghiệm khách quan thường được dùng để phát hiện, củng cố kiến thức đã
học trên lớp, sử dụng trong TH ở nhà, kiểm tra – đánh giá.
Để rèn luyện KNTH cho HS thông qua sử dụng bài tập trắc nghiệm, GV tiến hành
như sau: Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm đa dạng, phong phú, đảm bảo tính khoa học
và tính vừa sức; tổ chức cho HS hoàn thành hệ thống bài tập trắc nghiệm; đưa ra đáp án, nhận
xét, đánh giá.
Về phía HS cần: Đọc lướt toàn bộ nội dung, sau đó đánh giá, phân loại từng câu hỏi,
bài tập; hiểu được yêu cầu bài tập, độc lập suy nghĩ, tái hiện lượng thông tin cần thiết để đưa
ra đáp án đúng.
2.3.1.1. Sử dụng bài tập đúng – sai nhằm rèn luyện kỹ năng ghi nhớ kiến thức lịch sử
Khi làm bài đòi hỏi học sinh phải xác định “đúng” hoặc “sai” trước các sự kiện, niên
đại, định nghĩa
GV khi ra bài tập trắc nghiệm đúng – sai cho HS làm phải đảm bảo một số yêu cầu
sau: Câu trắc nghiệm phải hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai, không dùng câu trắc nghiệm có
tính đúng hoặc sai phụ thuộc vào một yếu tố không “ổn đinh” hoặc không rõ ràng; không
dùng câu phủ định, đặc biệt là phủ định hai lần; số lượng câu đúng phải nhiều hơn câu sai.
2.3.1.2. Sử dụng bài tập nhiều lựa chọn nhằm rèn luyện kỹ năng tư duy nhanh kiến
thức lịch sử
Bài tập nhiều lựa chọn bao gồm hai phần :Phần mở đầu và phần thông tin
Để sử dụng bài tập trắc nghiệm nhiều lựa chọn đạt hiệu quả cao, GV khi soạn dạng

bài tập này phải đảm bảo:Chỉ nên dùng 3 hoặc 4 phương án chọn, trong đó chỉ có một
phương án đúng; phương án đúng phải được sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên;câu dẫn nối liền
với mọi phương án chọn đều phải đúng ngữ pháp; tránh dùng câu phủ định; không nên có có
phương án “Không phương án nào trên đây đúng” hoặc “ Mọi phương án trên đây đều đúng”;
không tạo ra các phương án nhiễu ở mức độ cao; không đưa quá nhiều thông tin không thích
hợp.
2.3.1.3. Sử dụng bài tập ghép đôi nhằm phát triển kĩ năng xác lập mối quan hệ giữa
các sự kiện, hiện tượng lịch sử
Bài tập trắc nghiệm ghép đôi khi xây dựng phải đảm bảo một số yêu cầu sau: Nêu rõ
yêu cầu của việc ghép nội dung cho phù hợp; đánh số ở một cột và chữ ở cột kia;các dòng
trên mỗi cột phải tương đương về nội dung, hình thức, ngữ pháp, độ dài; không dùng các câu
phủ định; số đối tượng (đồng thời là số dòng) trên hai cột không như nhau, thường chỉ trên từ
5 đến 10 đối tượng.
2.3.1.4. Sử dụng bài tập điền khuyết nhằm rèn luyện kỹ năng viết cho HS
Bài tập điền khuyết có ưu thế trong việc rèn luyện kỹ năng viết. Dạng bài tập này bao
gồm các câu dẫn diễn đạt nội dung hay kết luận, nhận xét về một sự kiện, hiện tượng lịch
sử nhưng còn để chỗ trống.
Đối với dạng bài tập trắc nghiệm điền khuyết để sử dụng có hiệu quả cho người học,
GV cần chú ý những yêu cầu sau:Các khoảng trống phải bằng nhau về độ dài; phần điền
khuyết nên là một từ hoặc cụm từ đơn nhất mang tính đặc trưng (người, vật, địa điểm, thời
gian, khái niệm); có thể cung cấp thông tin để HS lựa chọn từ hoặc cụm từ trả lời, hoặc chỉ để
trống, HS phải tìm kiến thức để trả lời; chỉ có một lựa chọn duy nhất đúng.
2.3.2. Bài tập tự luận
Loại bài tập này hướng vào những vấn đề quan trọng của chương trình, nội dung
SGK. Bài tập tự luận bao gồm nhiều dạng từ yêu cầu HS tái hiện kiến thức cơ bản đến trình
độ cao hơn như Phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá
Việc sử dụng bài tập tự luận để rèn luyện kĩ năng tự học cho HS trải qua bốn bước
sau: GV nêu bài tập, định hướng cho HS tìm nguồn thông; học sinh độc lập suy nghĩ, tìm
thông tin; HS trình bày bài tập; GV kiểm tra, chữa bài tập.
2.3.2.1. Sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tái hiện kiến thức đã học

Dạng bài tập tường thuật, miêu tả yêu cầu HS huy động khả năng quan sát, tái hiện
kiến thức để tạo nên biểu tượng, vẽ nên một bức tranh quá khứ. Như vây, quá trình giải bài
tập tự luận này có ưu thế giúp người học rèn luyện kĩ năng tái hiện kiến thức.
2.3.2.2. Sử dụng bài tập tự luận nhằm rèn luyện kỹ năng phân tích, giải thích các sự
kiện, hiện tượng lịch sử
Dạng bài tập tự luận rèn luyện kỹ năng phân tích, giải thích thường có các câu hỏi tại
sao, vì sao, nguyên nhân nào Làm bài tập sẽ kích thích tính tích cực, sự hứng thú và tính
sáng tạo của người học.
Để hoàn thành tốt loại bài tập này HS cần:Đọc kỹ, xác định yêu cầu của bài tập, gạch
chân từ khóa quan trọng cần phân tích, lý giải; huy động kiến thức bằng cách đọc SGK, vở
ghi, tài liệu tham khảo; bám sát từ khóa để tìm hiểu, phân tích từng khía cạnh của vấn đề; hệ
thống, móc xích các ý thành một bài hoàn chỉnh, có bố cục rõ ràng.
2.3.2.3. Sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng tổng hợp, khái quát, đánh giá các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử
Loại bài tập này giúp HS rèn luyện KNTH ở mức độ cao. Sau khi phân tích, lý giải
vấn đề, nhân vật lịch sử, HS thể hiện thái độ, tình cảm của mình.
- Đối với GV:Đưa ra bài tập gắn với mục, bài dạy ngay trên lớp hoặc làm ở nhà; định
hướng phần kiến thức trọng tâm của bài học; gợi ý các nguồn tư liệu, tài liệu cho HS; kiểm
tra bài tập, sửa chữa những sai sót của HS.
- Về phía HS:Đọc kỹ yêu cầu của bài tập, xác định đối tượng trọng tâm;chọn lọc kiến
thức trong SGK, tài kiệu tham khảo; độc lập suy nghĩ, phân tích, lý giải từng khía cạnh nội
dung, sau đó tổng hợp, khái quát, đánh giá đối tượng; lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt ngắn gọn,
súc tích, sắp xếp các ý theo trật tự logic.
Như vậy, bài tập tự luận có ưu thế trong việc rèn luyện các KNTH của HS giúp các
em ngày càng thuần thục trong tư duy, cách trình bày nội dung kiến thức và ý tưởng của
mình.
2.3.3. Bài tập thực hành
Rèn luyện kỹ năng thực hành là yếu tố không thể thiếu được trong suốt quá trình dạy
học. Sử dụng bài tập thực hành trong bộ môn góp phần rèn luyện kỹ năng tự học cho HS.
Đây là bài tập làm cho HS biết vận dụng những kiến thức đã học để tìm ra kiến thức mới và

vào cuộc sống học tập, lao động, vào công tác công ích xã hội. Làm tốt bài tập thực hành góp
phần thực hiện được nguyên tắc giáo dục “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn liền với thực
tiễn”.
2.3.3.1. Sử dụng bài tập thực hành nhằm rèn luyện kỹ năng vẽ bản đồ, lược đồ, sơ đồ,
biểu đồ
* Rèn luyện kỹ năng vẽ lược đồ: HS cần thường xuyên học các sự kiện lịch sử trên
lược đồ sẽ giúp các em dần làm quen với lược đồ, đọc và hiểu được lược đồ. Từ đó học sinh
sẽ dễ dàng làm được các bài tập như vẽ lược đồ về các cuộc cuộc cách mạng, trận đánh,
* Rèn luyện kỹ năng vẽ sơ đồ: Vẽ sơ đồ là hình thức tìm hiểu các sự kiện lịch sử theo
nguyên tắc liên tưởng “ý này gợi đến ý kia”. Bài tập thực hành có vai trò to lớn trong việc rèn
luyện kỹ năng vẽ sơ đồ cho học sinh.
2.3.3.2. Sử dụng bài tập thực hành nhằm rèn luyện kỹ năng lập niên biểu, bảng thống

2.3.3.3. Sử dụng bài tập thực hành nhằm rèn luyện kỹ năng sưu tầm, trình bày tài liệu
tham khảo
2.4. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
2.4.1. Mục đích thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm bài 6 “Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-
1918)”, tiết 01, lớp 11, THPT, chương trình chuẩn.
2.4.2. Đối tượng thực nghiệm
Đối tượng chọn để tiến hành thực nghiệm là học sinh lớp 11A và 11B ở Trường
THPT Phúc Thành (Kinh Môn – Hải Dương).
2.4.3. Nội dung thực nghiệm
Để tiến hành thực nghiệm, chúng tôi chuẩn bị giáo án bài 6 “Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 – 1918)” tiết 01, lớp 11,THPT , chương trình chuẩn.
Giáo án 1: Áp dụng các biện pháp rèn luyện KNTH cho HS qua sử dụng hệ thống bài
tập như dự kiến của bài viết do tác giả chuẩn bị; Giáo án 2: Soạn theo phương pháp bình
thường, không áp dụng các biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho HS do GV
trường phổ thông chuẩn bị.
2.4.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm

Chúng tôi đã tiến hành tổ chức thực nghiệm đối với học sinh khối 11 của trường
THPT Phúc Thành ( Kinh Môn – Hải Dương).
- Trước khi thực nghiệm, trao đổi với GV về nội dung, phương pháp của bài soạn
thực nghiệm, những điểm mới thể hiện trong giáo án,
- Áp dụng giáo án thực nghiệm, giảng dạy ở lớp 11A ; lớp đối chứng là 11 B, GV bộ
môn tiến hành dạy bình thường.
- Kết thúc bài học, chúng tôi trao đổi với giáo viên dự giờ và tiến hành kiểm tra 15
phút (xem phụ lục 4)
2.4.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Thang điểm đánh giá kết quả là 10 điểm. Phân loại kết quả:
- Các bài đạt loại giỏi đạt điểm 9-10; khá đạt điểm 7-8; trung bình điểm 5-6; yếu điểm
từ 4 trở xuống; kém điểm từ 2 trở xuống.
Kết quả kiểm tra lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Lớp
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
Kém
Thực nghiệm
22
35
30
13
0
Đối chứng
17
32
34
15

2


Biểu đồ so sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và đối chứng
- Không khí lớp học: Ở lớp đối chứng, HS có tập trung chú ý nghe giảng, trả lời đúng
hướng những vấn đề giáo viên đặt ra nhưng không khí lớp trầm; còn lớp thực nghiệm, không
khí học tập có sự thay đổi, HS hứng thú tìm tòi kiến thức và say mê hợp tác với các bạn cùng
nhóm.
- Kết quả lĩnh hội kiến thức: Chúng tôi nhận thấy chất lượng học tập của HS lớp thực
nghiệm luôn cao hơn lớp đối chứng.
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Như vậy, việc dạy học bài 6 “Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918)” tiết 01 ở
lớp thực nghiệm đã phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, hứng thú học tập, kết quả học tập
bộ môn cũng được nâng cao. Điều đó cho phép chúng tôi khẳng định tính khả thi của đề tài.
* *
Trong dạy học lịch sử, việc rèn luyện KNTH cho HS là rất cần thiết. GV căn cứ vào
tình hình thực tiễn khả năng tiếp nhận và xử lý kiến thức của HS, mục tiêu bài học và các yếu
tố khác để lựa chọn các loại bài tập phù hợp. Việc sử dụng bài tập đòi hỏi sự linh hoạt trong
quá trình kết hợp dạng bài tập của GV, tính tự giác tích cực sủa HS. Nếu sử dụng đúng
phương pháp, bài tập là một phương tiện, một công cụ hiệu quả góp phần rèn luyện và phát
triển KNTH cho HS.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nâng cao chất lượng dạy học lịch sử góp phần phát triển toàn diện HS là vấn đề hết
sức cấp bách hiện nay. Để nâng cao chất lượng dạy học, “phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh” [30;22]. Điều đó đòi

hỏi dạy học lịch sử ở trường phổ thông cần “tránh tham lam, nhồi nhét, tránh lối học vẹt mà
phải dạy người học suy nghĩ, tìm tòi, hiểu rộng hơn điều thầy nói, mở rộng tư duy và năng
lực sáng tạo của người học” [26;355]. Một trong những biện pháp hữu hiệu rèn luyện KNTH
cho HS trong học tập môn lịch sử là sử dụng hệ thống bài tập.
Sử dụng bài tập không phải là vấn đề mới vì nó đã được khá nhiều người quan tâm tìm
hiểu, nghiên cứu và ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Tuy nhiên, việc sử dụng bài tập nhằm
rèn luyện KNTH cho HS là một hướng đi mới bước đầu được các nhà nghiên cứu, các GV đề
cập đến. Do thời gian và trình độ có hạn nên phạm vi của luận văn, chúng tôi thực hiện
nghiên cứu hướng đi trên ở một phạm vi kiến thức cụ thể.
Thực tế cho thấy, trong dạy học lịch sử hiện nay vẫn còn tồn tại quan niệm cho rằng
môn lịch sử là môn học thuộc không cần làm bài tập, không cần thiết phải rèn luyện và phát
triển các kĩ năng tự học bộ môn. Do có quan niệm chưa đúng, nhiều GV không chú ý tới các
biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác học tập, hạn chế sử dụng bài tập trong dạy học lịch
sử. Đó là một trong những nguyên nhân khiến chất lượng giáo dục giảm sút. Qua những kết
quả nghiên cứu cụ thể, chúng tôi mong muốn góp phần vào việc làm thay đổi quan niệm sai
lầm đó. Cần phải nhận thức rằng: Học lịch sử không đơn thuần là ghi nhớ sự kiện, mà quan
trọng là HS phải rèn luyện và phát triển được các kỹ nang tự học của bản thân, biết vận dụng
kiến thức đã học vào học tập và cuộc sống xã hội.
Trong nội dung luận văn, chúng tôi trình bày một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm
rèn luyện KNTH của HS trong dạy học lịch sử. Cách phân chia bài tập dựa trên các kỹ năng
cần rèn luyện cho HS. Mỗi loại bài tập trắc nghiệm khách quan hay tự luận, thực hành đều có
ưu thế riêng trong việc rèn luyện, phát triển KNTH cho các em từ mức độ thấp đến mức độ
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ mới lạ đến thuần thục Trong quá trình sử dụng, GV cần kết
hợp đa dạng các loại bài tập để phát huy tối đa hiệu quả của chúng.
Xuất phát từ kết quả nghiên cứu của đề tài, với mong muốn góp phần đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, rèn luyện KNTH cho HS, chúng tôi đề xuất
một số ý kiến sau:
Về phía GV: Chú ý đổi mới phương pháp dạy, quan niệm và phương pháp sử dụng bài
tập. GV cần tham khảo SGK, tài liệu học tập để xây dựng hệ thống bài tập phong phú, đa
dạng, kích thích hứng thú học tập cho HS. Ngoài ra, phải thực sự đầu tư thời gian, công sức,

tìm tòi, vận dụng sáng tạo các biện pháp sử dụng bài tập để đạt hiệu quả tốt nhất.
Về phía HS: Trước hết cần nhận thức được tầm quan trọng, vai trò của việc rèn luyện
KNTH. Từ đó, có thái độ học tập nghiêm túc, có ý thức làm bài tập để rèn luyện KNTH bản
thân. Thực hiện làm bài tập theo sự hướng dẫn, giám sát của GV, trên cơ sở đó điều chỉnh
phù hợp với năng lực, cách thức học tập của mình. HS phải tích cực, tự giác, chủ động làm
bài tập trên lớp cũng như ở nhà.
Về phía gia đình, nhà trường: Gia đình cần thay đổi quan niệm về học tập bộ môn lịch sử
của HS. Trên cơ sở đó nhắc nhở, kiểm tra quá trình làm bài tập của HS ở nhà. Nhà trường cần
trang bị cơ sở vật chất tốt nhất phục vụ hiệu quả hoạt động dạy học bộ môn lịch sử như thư
viện học tập, phòng máy tính, máy chiếu, đồ dùng trực quan
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề sử dụng bài tập nhằm rèn luyện KNTH cho
HS, chúng tôi mong rằng các loại bài tập sẽ được chú trọng xây dựng và phát triển rộng rãi
góp phần phát triển toàn diện HS, nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.



References
1. Đặng Quốc Bảo (2000), “Hồ Chí Minh với vẫn đề tự học”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo
dục (5), tr 3-4
2. Nguyễn Thị Thế Bình (2011), “Tạo hứng thú tự học bộ môn Lịch sử cho HS”, tạp
chí Giáo dục số 258
3. Nguyễn Duy Cần – Thu Giang (1999), Tôi tự học, Nxb Thanh Niên, Thành phố Hồ
Chí Minh.
4. Trần Hồng Cẩm, Nguyễn Cảnh Toàn, Bùi Tƣờng, Lê Hải Yến (2000), Phương
pháp luận và phương pháp tự học, Dự án Việt – Bỉ - “Hỗ trợ học từ xa”. Bộ GD &
ĐT.
5. Nguyễn Thị Côi (2008), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch
sử ở trường phổ thông. Nxb ĐHSP Hà Nội, 116-117
6. Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ (2009), Rèn luyện kỹ
năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử. Nxb ĐHSP Hà Nội.

7. Hồ Ngoc Đại (2000), Tâm lý học dạy học. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. N.G Đairri (1973), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Hà Thị Đức (1994), Nghiên cứu hoạt động tự học của sinh viên các trường Sư phạm.
Đề tài cấp Bộ mã B83-24-49.
10. Phạm Minh Hạc (1998), Tâm lý học, tập 2. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Trần Bá Hoành (2003), Lý luận cơ bản về dạy học tích cực, Dự án đào tạo GV
THCS, Hà Nội.
12. Phạm Thị Thu Hƣơng, Sử dụng bài tập lịch sử để củng cố khái niệm “Cách mạng
tư sản” cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại lớp 10 THPT. Khóa luận
tốt nghiệp. 2006.
13. Kiều Thế Hƣng (1999), Hệ thống thao tác sư phạm trong dạy học lịch sử ở THPT.
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
14. Hoàng Mạnh Kha (1981), “Tổ chức tốt việc tự học của HS”, Tạp chí Nghiên cứu
Giáo dục, (3), tr 24-26.
15. Kharlamốp I.F (1978), Phát huy tính tích cực học tập của HS như thế nào?. Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Kỳ (1996), “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học”, Tạp chí Nghiên
cứu Giáo dục, (3), tr 3-5.
17. Trần Thị Phƣơng Lan (2003) Thiết kế và sử dụng bài tập về nhà trong dạy học lịch
sử ở trường phổ thông. Luận văn thạc sỹ.
18. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi (2010), Phương
pháp dạy học Lịch sử, tập 1. Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
19. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi (2010 )Phương
pháp dạy học Lịch sử, tập 2. Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
20. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh Tƣờng (2002),
Một số chuyên đề về phương pháp dạy học lịch sử. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
21. Dƣơng Thùy Linh (2008), “Một số biện pháp dạy học văn học sử theo hướng hình
thành năng lực tự học cho HS lớp 10”, Tạp chí Giáo dục (203).
22. Phan Trọng Luận (1998), “Tự học-một chìa khóa vàng của giáo dục”, Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục (2), tr 2,7.

23. Phan Trọng Luận (2005), “Dạy sinh viên tự học và sáng tạo”, Tạp chí Giáo dục
(25), tr 7-8.
24. Luật Giáo dục (2009). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Linh Thị Vinh (2000), Sử dụng bài tập trong dạy học lớp 8 THCS. Luận văn thạc sỹ.
Lưu tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
26. Võ Văn Nam (2000), “Hồ Chí Minh nói về vấn đề tự học, tư tu dưỡng, tự rèn luyện”,
Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, (5), tr 11.
27. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong dạy học nhà
trường. Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
28. Võ Hoàng Ngọc, “Bồi dưỡng khả năng tự học cho HS THCS”, tạp chí Giáo dục
29. Rubakin N.A (1982), Tự học như thế nào? (Nguyễn Đình Côi dịch). Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
30. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Rèn luyện năng lực tự học cho HS trong dạy học Lịch sử
Việt Nam 1858-1918 ở lớp 11 THPT, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, Trường
ĐHSP Hà Nội.
31. Nguyễn Cảnh Toàn (1997), Quá trình dạy – tự học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm, tập II, Tự giáo dục, tự học tự
nghiên cứu. Trường ĐHSP Hà Nội – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
33. Nguyễn Cảnh Toàn (1995), “Soạn bài theo tinh thần hướng dẫn HS tự đào sâu,
giành lấy tri thức”, Tạp chí Giáo dục, (1,2).
34. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tƣờng (2001), Quá
trình dạy – tự học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo
(2001), Học và dạy cách học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm, Tự giáo dục, Tự học, tự nghiên
cứu, tập 2. Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Đông Tây.
37. Trịnh Đình Tùng (1994), “Về biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử”, tạp
chí Nghiên cứu giáo dục số (5).
38. Từ điển tiếng việt (2010). Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
39. Thái Duy Tuyên (2003), “Bồi dưỡng năng lực tự học cho HS”, Tạp chí Giáo dục

(48), tr 13-14.
40. Thái Duy Tuyên, Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới. Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
41. Trần Quốc Tuấn (2002) Bài tập trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Luận án
tiến sĩ giáo dục. ĐHSP Hà Nội,
42. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành (1992), Vấn đề kỹ năng và kỹ năng học
tập, Tư liệu khoa Tâm lý-Giáo dục, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
43. Phạm Thị Xuyến, Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua giờ Văn học sử”,
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Trường ĐHSP Hà Nội





×