Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các hình thức tổ chức tự học môn lịch sử lớp 10 trường THPT chuyên lam sơn, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.4 KB, 28 trang )

Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các hình
thức tổ chức tự học mơn Lịch sử lớp 10 Trường
THPT chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa
Phan Thị Hà
Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học; Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS Trịnh Đình Tùng
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Nghiên cứu những vấn đề lí luận và khảo sát thực tiễn liên quan đến
vấn đề tổ chức tự học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch
sử ở trường Trung học phổ thơng (THPT) nói chung và trường THPT chun nói
riêng. Xây dựng hệ thống hố lí luận về các hình thức tổ chức tự học để tạo hứng
thú học tập trong dạy học lịch sử (DHLS) ở trường THPT nói chung và trường
chuyên Lam Sơn nói riêng. Xác định rõ những yêu cầu cũng như các biện pháp sư
phạm trong việc tổ chức hình thức tự học cho HS nhằm tạo hứng thú học tập trong
DHLS ở trường THPT nói chung và trường chuyên Lam Sơn nói riêng. Tiến hành
thực nghiệm sư phạm (từng phần và toàn phần), từ đó rút ra kết luận khoa học và
khẳng định tính đúng đắn của đề tài.
Keywords: Hứng thú học tập; Phương pháp giảng dạy; Lịch sử; Trung học phổ
thông; Lớp 10; Thanh Hóa
Content
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, chủ trương của Đảng về đổi mới phương pháp trong dạy
học nói chung và dạy học lịch sử ở trường THPT nói riêng đang được quán triệt sâu sắc
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục – đào tạo.
Thêm vào đó, trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, việc tạo hứng thú
học tập cho học sinh là rất quan trọng và cần thiết.


Bên cạnh đó, nguồn tri thức mà học sinh nhận được khơng đơn nhất từ phía giáo viên
cung cấp mà học sinh có thể tìm kiếm nó thơng qua tính năng của công nghệ thông tin, sự


đa dạng trong các kênh dẫn kiến thức. Vì vậy, việc hình thành kỹ năng tự nghiên cứu, tự
học rất cần thiết nhằm hình thành “xã hội học tập” và việc phát triển nền “giáo dục suốt
đời” với phương châm học suốt đời: “Học, học nữa, học mãi”. Muốn vậy, ngay từ bậc
phổ thông giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức cho học sinh các hình thức tự học để từ đó
giúp học sinh có được kỹ năng tự học, biết được cách thức chiếm lĩnh nguồn tri thức
phong phú của nhân loại nói chung và kiến thức lịch sử ở trường THPT nói riêng một
cách hiệu quả theo kế hoạch học tập cũng như mục tiêu cuộc sống của bản thân đề ra.
Ngoài ra, trong khố trình Lịch sử ở bậc THPT, chương trình lớp 10 có nội dung
phong phú, bao gồm phần lịch sử thế giới cổ, trung, cận đại và lịch sử Việt Nam trước
năm 1858. Những nội dung kiến thức này rất nhiều vấn đề hấp dẫn, nó thể hiện quá trình
phát triển của lịch sử văn minh nhân loại và dân tộc. Chính vì vậy, để hiểu được những
vấn đề lịch sử đó đồng thời tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn
HS tự học qua các hình thức hoạt động học tập trên lớp hoặc tự học ở nhà, phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện học tập cụ thể nhằm nâng cao chất lượng học tập.
Là giáo viên trực tiếp dạy lịch sử ở trường trung học phổ thông chuyên, nơi mà học
sinh đã được tuyển chọn, có năng khiếu, có nhiều tư chất thơng minh, ham hiểu biết thì
việc tạo hứng thú học tập cho học sinh thơng qua các hình thức tổ chức tự học là hết sức
cần thiết. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các
hình thức tổ chức tự học môn Lịch sử lớp 10 Trường THPT chuyên Lam Sơn, Thanh
Hóa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ Khoa học giáo dục.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Vấn đề tự học và tổ chức tự học trong các nghiên cứu ở nước ngoài
Ngay từ những năm đầu trước công nguyên, Xô - cơ - rát (469 - 339 TCN) đã đưa ra
quan điểm rất nổi tiếng: Giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính mình.
Đến thế kỷ thứ XVII, nhà sư phạm Tiệp Khắc J.A. Cômenxki (1592 - 1670) đã
nghiên cứu về vấn đề quan điểm giáo dục “đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đốn của
người học” hay tìm ra phương pháp cho phép giáo viên giảng dạy ít hơn, học sinh học
nhiều hơn.



J.J. Rousseau (1712 - 1778), người Thụy Sĩ cho rằng phải hướng học sinh tích cực
tự đánh giá kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Ơng đã nói: “Đừng cho
trẻ con khoa học mà phải để cho nó tự phát minh ra”.
Đến thế kỷ XIX, Conxtantin Đmitrêvic Usinxki (1824 - 1870) đã nghiên cứu về
tính tích cực, tính độc lập của học sinh, ơng đánh giá rất cao vai trị của tính tích cực, tính
độc lập.
John Dewey (1859 - 1952), người Mĩ cho rằng: “Việc dạy học phải kích thích
được hứng thú, phải để học sinh độc lập, tìm tịi, thầy giáo là người thiết kế, người cố
vấn”. [43, tr. 6]
Thailleirent, người Pháp rất chú trọng đến việc phát huy óc sáng tạo và tính độc
lập suy nghĩ của học sinh. Ơng cho rằng: “Chỉ có khi nào người ta tự tìm tịi, tự phát
minh ra điều gì đó thì người ta mới thực sự là biết, thực sự nhìn rõ điều đó”.
Tiến sĩ N. Đ. Đairi trong tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” đã
trình bày các nguyên tắc cơ bản trong giờ học lịch sử ở trường phổ thông.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào” của I.F. Kharlamov,
tác giả đã khẳng định: công tác tự học giữ một vai trò to lớn trong việc nâng cao tính tích
cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và tiếp thu tri thức mới.
Cuốn sách “Tự học như thế nào” của N.A. Rubakin đã đề cập đến việc tự học là
những đặc tính riêng của từng nguời, cách đọc và cách chọn sách như thế nào.
2.2. Vấn đề tự học và tổ chức tự học qua các nghiên cứu trong nước
Cuốn “Hoạt động tự học của sinh viên đại học” của tác giả Đặng Vũ Hoạt – Hà
Thị Đức trường ĐHSP Hà Nội (1990), đã coi hoạt động tự học như là một bộ phận hữu
cơ của hoạt động học tập của sinh viên gồm: lập kế hoạch - thời gian biểu tự học, nghe
giảng và ghi bài trên lớp, đọc sách và các tài liệu khác.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Tồn đã đóng góp nhiều cơng sức trong tìm hiểu vấn đề tự
học ở nhiều loại hình đào tạo khác nhau trong Tuyển tập tác phẩm: Bàn về giáo dục Việt
Nam – (Nxb Lao Động, 2002). Cuốn sách “Quá trình dạy - tự học” của Giáo sự Nguyễn
Cảnh Toàn (Nxb Giáo dục Hà Nội 1997) đã đi sâu tìm hiểu hoạt động dạy của thầy, tự
học cuả trò. Mặt khác, trong cuốn sách khác: “Luận bàn và kinh nghiệm về tự học ”.
Về phương pháp tự học lịch sử đã được trình bày trong cuốn “Phương pháp dạy

học lịch sử” do Giáo sư Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị chủ biên, NXB Giáo dục 1992,


đặc biệt là cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ” của tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên),
Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi xuất bản năm 2009.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường
THCS” do GS Phan Ngọc Liên, PGS Trịnh Đình Tùng chủ biên đã đề cập đầy đủ cơ sở lí
luận, thực tiễn của việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Đồng thời để ra
những biện pháp sư phạm cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, khả năng tư duy độc lập
của học sinh THCS.
Tác phẩm “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường
phổ thông”, GS.TS Nguyễn Thị Cơi đã trình bày cụ thể quan niệm về tự học lịch sử, nội
dung và các hình thức tự học ở nhà, nhấn mạnh giáo viên phải rèn luyện cho học sinh thói
quen, phương pháp tự học ở nhà.
Ngoài ra vấn đề này cũng được đề cập đến trong cuốn “Hệ thống các phương pháp
dạy học lịch sử ở trường THCS” do PGS Trịnh Đình Tùng chủ biên.
Vấn đề tự học đã được bàn luận sôi nổi trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
như: Tạp chí Giáo dục và thời đại; Giáo viên và nhà trường; Nghiên cứu giáo dục; Tự
học; Nghiên cứu lịch sử... cũng đã trình bày về vấn đề tự học và hứng thú học tập trong
phạm vi của các môn học khác – đây là nguồn tài liệu tham khảo để nghiên cứu phần lí
luận cho đề tài.
Đặc biệt là Hội thảo khoa học “Nghiên cứu phát triển – Tự học - Tự đào tạo” tổ
chức tại Hà Nội ngày 6/1/1998 với nhiều bài phát biểu, bài viết xung quanh vấn đề tự
học, phát huy nguồn lực con người và các biện pháp cần được tiến hành đồng bộ hiện nay
để phát triển năng lực tự học nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Bên cạnh đó vấn đề này đã được tìm hiểu qua một số khoá luận của sinh viên, luận
văn Thạc sỹ, luận án Tiến sỹ khoa học giáo dục, khoa học Tâm lí giáo dục của trường
ĐHSP Hà Nội… cũng đã trình bày một cách cụ thể về năng lực tự học, biện pháp sư
phạm gây hứng thú.
Các công trình nghiên cứu trên là những gợi mở quý báu về mặt lí luận giúp chúng

tơi tìm được hướng giải quyết các nhiệm vụ của luận văn. Tuy nhiên cơ sở lí luận chung
cũng như một số vấn đề của việc tự học đối với từng môn học, nhất là tự học lịch sử cần
phải được tiếp tục nghiên cứu để đưa ra những biện pháp phát huy tối đa năng lực tự học
của học sinh.


Trong Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và phát triển kỹ năng tự học cho học sinh do trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ
chức vào tháng 10 năm 2011… Nội dung các bài viết này đã đề cập một cách cụ thể về
khái niệm kỹ năng, các kỹ năng tự học cần hình thành và rèn luyện cho học sinh, tầm
quan trọng của việc hình thành kĩ năng tự học. Đặc biệt, tác giả Hồng Thanh Tú có
bài:“Vấn đề phát triển kỹ năng tự học môn Lịch sử của học sinh qua một số tài liệu nước
ngoài”, theo đó các nguồn tài liệu tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp về vấn đề tự học và
hứng thú học tập cũng đã được dịch và sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho cơng
tác nghiên cứu lí luận của nhiều cơng trình trong nước. Đây là cơ sở tham khảo rất hữu
ích cho chúng tơi khi thực hiện luận văn.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình chun sâu, chun biệt về các
hình thức tổ chức tự học lịch sử cho học sinh ở trường THPT chuyên, để làm rõ những
vấn đề về lí luận chung, cũng như chỉ ra các biện pháp sư phạm trong việc tổ chức hình
thức tự học cho HS nhằm tạo hứng thú học tập trong DHLS ở trường THPT chuyên nói
chung và trường THPT chuyên Lam Sơn nói riêng. Đây cũng chính là những vấn đề mà
tác giả muốn tập trung nghiên cứu trong luận văn này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Các hình thức tổ chức tự học Lịch sử cho học sinh lớp 10 ở trường THPT chuyên
Lam Sơn Thanh Hố.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xác định hình thức tổ chức tự học để tạo hứng
thú học tập cho HS trường chuyên, qua đó góp phần nâng cao chất lượng DHLS ở trường
THPT nói chung và trường chuyên Lam Sơn nói riêng.

4.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận và khảo sát thực tiễn liên quan đến vấn đề tổ chức
tự học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT nói
chung và trường THPT chuyên nói riêng.
- Xây dựng hệ thống hố lí luận về các hình thức tổ chức tự học để tạo hứng thú học
tập trong DHLS ở trường THPT nói chung và trường chuyên Lam Sơn nói riêng.


- Xác định rõ những yêu cầu cũng như các biện pháp sư phạm trong việc tổ chức hình
thức tự học cho HS nhằm tạo hứng thú học tập trong DHLS ở trường THPT nói chung và
trường chuyên Lam Sơn nói riêng.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm (từng phần và tồn phần), từ đó rút ra kết luận khoa
học và khẳng định tính đúng đắn của luận văn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu các hình thức tổ chức tự học nhằm tạo hứng thú học tập
LS cho HS chuyên nói chung và học sinh trường THPT chuyên Lam Sơn nói riêng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học mácxít, lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về vấn đề giáo dục nói chung, giáo dục
Lịch sử nói riêng. Luận văn nghiên cứu các tài liệu Tâm lý, Giáo dục học, phương pháp
dạy học bộ mơn; đồng thời nghiên cứu chương trình – sách giáo khoa phổ thông và các
tài liệu phục vụ thiết yếu cho việc dạy học khố trình Lịch sử.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Luận văn khảo sát thực tế dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
7. Giả thuyết khoa học
Luận văn hướng tới khẳng định giả thuyết khoa học: Tự học là cách để học sinh tự
khám phá, tự tìm tịi, nghiên cứu rồi tiến tới chiếm lĩnh kiến thức, từ đó học sinh ngày
càng hứng thú với công việc học tập. Nếu thực hiện tốt những yêu cầu và giải pháp về tổ

chức hình thức tự học mà đề tài đã đề xuất thì sẽ tạo hứng thú học tập cho HS và góp
phần nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT nói chung và trường chuyên Lam Sơn
nói riêng.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn được hồn thành sẽ có ý nghĩa cơ bản sau:
Về lý luận: Đề tài hệ thống những vấn đề lý luận về các hình thức tổ chức tự học môn
LS để tạo hứng thú học tập cho HS.
Về thực tiễn: Những biện pháp sư phạm được nêu trong luận văn có thể ứng dụng vào
dạy học Lịch sử ở trường THPT. Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên sư phạm
ngành Lịch sử, cho GV ở trường THPT nói chung và trường chuyên Lam Sơn nói riêng,
cũng như cho các tác giả quan tâm tới việc nghiên cứu và vận dụng đổi mới PPDH LS.


9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Tạo hứng thú học tập cho HS thơng qua các hình thức tổ chức tự học mơn
LS ở trường THPT chuyên. Lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Các biện pháp gây hứng thú học tập cho HS qua các hình thức tổ chức tự
học mơn LS lóp 10 ở trường THPT chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa. Thực nghiệm.

CHƢƠNG 1
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA CÁC HÌNH THỨC TỔ
CHỨC TỰ HỌC MƠN LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
CHUN.
LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan niệm về hứng thú
Hứng thú là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong khoa học cũng như trong đời
sống. Hứng thú là một hiện tượng tâm lý phức tạp, vì vậy, vấn đề này được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu.

Theo Từ điển Tiếng Việt thì: hứng thú là cảm giác thích thú thấy trong người mình
đang có một sức thơi thúc làm cái gì đó.
Theo Kharlamơp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế
nào” tập II đã nêu: “Hứng thú là nhu cầu nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây
động cơ và làm cho hoạt động của con người có tính chất hấp dẫn.
Theo N.G Môrôzôva “Hứng thú từ đối tượng này đến đối tượng khác, đối với mọi
lứa tuổi đều là một niềm vui. Niềm vui thường mang đến cho con người cuộc sống tốt
đẹp, đồng thời cả những khả năng và phương pháp làm việc tốt hơn.
Côvaliôp trong cuốn “Tâm lý học cá nhân”: “Hứng thú là thái độ đặc thù của cá
nhân đối với một đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về
tình cảm của nó”.


Như vậy, hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào
đó vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa có khả năng mang lại cho nó một khối cảm.
Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng hành động
và hành động sáng tạo làm tăng sức làm việc
Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu tâm lí học, giáo dục học đã phân loại hứng thú
học tập như sau:
- Căn cứ vào đối tượng gây nên hứng thú: Hứng thú vật chất, hứng thú tinh thần.
- Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú: Hứng thú trực tiếp, hứng thú gián tiếp.
- Căn cứ vào tính hiệu lực của hứng thú, có thể phân chia hứng thú thành: hứng thú chủ
động (hứng thú tích cực) và hứng thú bị động (hứng thú tiêu cực).
- Căn cứ vào khối lượng hứng thú (phạm vi khái quát của đối tượng) có thể chia thành hai
loại: Hứng thú rộng và hứng thú hẹp.
- Căn cứ vào tính bền vững của hứng thú, người ta chia hứng thú thành hai loại: hứng thú
bền vững và hứng thú không bền vững.
- Căn cứ vào mức độ sâu sắc của hứng thú, có hứng thú sâu sắc, hứng thú hời hợt.
Như vậy, hứng thú là một hoạt động tâm lí phức tạp của cá nhận, nó có liên quan
đến nhiều thuộc tính tâm lý khác như nhu cầu, xúc cảm…Để đạt được hứng thú học tập

cần có q trình lâu dài và phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Hứng thú học tập là động lực
quan trọng thúc đẩy người học đạt kết quả cao, tạo cho cá nhân động lực để làm việc.
1.1.2. Quan niệm về hứng thú học tập lịch sử
Hứng thú học tập lịch sử là thái độ say mê tự giác tích cực đặc biệt của cá nhân
người học đối với nội dung lịch sử cụ thể. Vậy, muốn gây hứng thú học tập lịch sử cho
học sinh, trong q trình giảng dạy, giáo viên phải lơi cuốn các em vào bài học. Từ những
sự kiện cụ thể của bài học, giáo viên hướng dẫn học sinh hình thành nên biểu tượng lịch
sử sinh động, chân xác...Và từ những biểu tượng cụ thể các em sẽ nắm được khái niệm
của sự kiện lịch sử, hiểu được bản chất của sự kiện lịch sử đó rồi rút những bài học hữu
ích cho bản thân.
Vì vậy, muốn hình thành hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến
yếu tố dạy - học và các yếu tố khách quan xung quanh làm ảnh hưởng đến quá trình học
tập của các em.
1.1.3. Vai trị, ý nghĩa của hứng thú trong học tập lịch sử ở trường phổ thơng
1.1.3.1. Vai trị của hứng thú học tập lịch sử


Trong học tập cũng vậy, hứng thú làm cho người học học tập một cách say mê,
không mệt mỏi. Như vậy, nhờ hứng thú mà tiết kiệm được năng lượng thần kinh làm tăng
sức làm việc của học sinh trong học tập. Và khi thu được kết quả học tập cao sẽ trở thành
động lực để tiếp tục duy trì và phát triển hứng thú.
Hứng thú đóng vai trị là động lực mạnh nhất thúc đẩy hoạt động học của học sinh.
Trong quá trình học tập, hứng thú học tập lịch sử là yếu tố quan trọng có tính chất quyết
định để học tập tốt bộ môn. Hứng thú học tập lịch sử cũng tạo ra những tình cảm tích cực,
sự u thích mơn học.
Như vậy, hứng thú có vai trị quan trọng trọng cuộc sống, trong học tập nói chung
và học tập mơn lịch sử nói riêng. Qua đó, chúng ta càng thấy được sự cần thiết phải bồi
dưỡng hứng thú học tập lịch sử cho học sinh.
1.1.3.2. Ý nghĩa của hứng thú học tập lịch sử
Về kiến thức

Trước hết, hứng thú học tập có ý nghĩa rất lớn, giúp học sinh lĩnh hội sâu sắc và
nhớ lâu kiến thức.
Về thái độ, tư tưởng
Việc gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh cịn có ý nghĩa lớn về mặt giáo dục
tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho các em. Việc có hứng thú học tập lịch sử, học sinh nắm
được những thành tựu về khoa học – kĩ thuật, văn học - nghệ thuật thời cận đại với những
phát minh nổi tiếng làm thay đổi đời sống nhân loại.
Về kĩ năng
Cuối cùng, hứng thú học tập lịch sử cịn có tác dụng phát triển ở học sinh các năng
lực nhận thức, năng lực thực hành, kỹ năng, kỹ xảo, giúp các em hăng hái hoạt động sáng
tạo. Với những đặc trưng riêng, dạy học lịch sử sẽ góp phần kích thích sự phát triển, góp
phần hồn thiện nhân cách học sinh.
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng tư duy, chất lượng học tập và các kĩ năng
sống có ích cho học sinh, người thầy phải chú ý đến phát triển tính tự lực, tích cực hoạt
động cho học sinh thơng qua các hình thức tổ chức dạy học.
1.1.4. Các hình thức tổ chức tự học mơn LS ở trường THPT
1.1.4.1. Quan niệm về tự học
Từ thời cổ đại, Khổng Tử - một nhà giáo dục học kiệt xuất của Trung Hoa đã có
những quan niệm trên nhiều phương diện về vấn đề tự học.


Tiếp đến, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nét độc đáo trong hoạt động
học tập của học sinh ở trường THPT là lĩnh hội những tri thức của nhân loại dưới sự
hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu: kiến thức,
tình cảm, tư tưởng, thái độ, phát triển.
Ở nước ta, Đảng cũng rất quan tâm đến giáo dục đào tạo nói chung và vấn đề tự
học của học sinh nói riêng. Hồ Chủ tịch cũng đã nói: “Tự học là học một cách tự động”
tức là học tập một cách hồn tồn tự giác, tự chủ, khơng đợi ai nhắc nhở, khơng chờ ai
giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho mình rồi tự mình triển
khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự

mình kiểm tra, đánh giá việc học của mình.
Theo GS Nguyễn Cảnh Tồn: Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử
dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, khơng ngại gian khó, ngại khổ,
kiên trì, nhẫn nại, lịng say mê khoa học ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi…).
Theo GS Đặng Vũ Hoạt thì “Tự học là một hình thức hoạt động nhận thức của cá
nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến
hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc khơng theo chương trình và sách giáo khoa đã
được quy định.
Đối với học sinh phổ thông, tự học trong nhà trường phổ thơng là tự học có hướng
dẫn. Kết quả tự học cao hay thấp còn phụ thuộc và năng lực của mỗi cá nhân. Tuy nhiên
trong bất kỳ trường hợp nào, tự học cũng chính là yếu tố ảnh hưởng đến sự tiếp thu kiến
thức, tích luỹ, rèn luyện, nâng cao kĩ năng, kĩ xảo và trực tiếp quyết định đến chất lượng
và hiệu quả của quá trình đào tạo.
Từ những quan niệm về tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học như
sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập hoạt động chiếm lĩnh
tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng các hành động của chính mình nhằm
đạt được mục đích nhất định.
1.1.4.2. Quan niệm về tự học lịch sử
Từ việc nghiên cứu khái niệm tự học, các nhà giáo dục lịch sử đã xây dựng nên
quan niệm về tự học lịch sử của học sinh là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách


chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách
thành thạo.
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng của tự học nói chung và tự học lịch sử nói
riêng để qua đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh
quy trình, cách thức tổ chức tự học để qua đó, các em tự mình khám phá, chiếm lĩnh kiến
thức và hình thành hứng thú học tập lịch sử.

1.1.4.3. Một số hình thức tổ chức tự học của học sinh THPT
Cách thứ nhất, căn cứ vào cách thức hoạt động tự học của người học
- Tự học mõ mẫm: Đây là hình thức tự học của những người khơng có điều kiện
để đi học, khơng có thầy để học.
- Tự học khơng có sự hướng dẫn của giáo viên: Hình thức này gọi là tự nghiên cứu
của người học.
- Tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên: Đây là kiểu tự học phổ biến của những
người còn đang học trong các nhà trường.
Cách thứ hai căn cứ vào mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.
- Hình thức 1: Cá nhân tự học theo sở thích và hứng thú độc lập, khơng có sách và
sự hướng dẫn của giáo viên.
- Hình thức 2: Tự học có sách nhưng khơng có giáo viên trực tiếp hướng dẫn. Ở
hình thức này, có thể xảy ra ở một trong hai trường hợp sau: tự học theo sách mà khơng
có sự hướng dẫn của thầy, tự học có thầy hướng dẫn từ xa.
- Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy hướng dẫn trực tiếp một số tiết trong ngày,
sau đó học sinh về nhà tự học.
Cách thứ ba: căn cứ vào cách thức thể hiện mối quan hệ giữa người học và tài
liệu học tập, giáo viên.
Tuỳ thuộc hồn tồn: là hình thức tự học ở mức độ cao nhất, người học không đến
trường, không cần sự hướng dẫn của giáo viên, tự quyết định việc lựa chọn mục tiêu, nội
dung, đánh giá, tiến trình học tập của cá nhân.
Tự học qua phương tiện truyền thông, tự học có hướng dẫn qua tài liệu.
Tự học thường xuyên trong quá trình học tập: học bài và làm bài ở nhà theo nhiệm
vụ học tập là việc làm của bất cứ một người học nào.
Tự học trong quá trình học tập ở trường có hướng dẫn của giáo viên, biến quá
trình dạy học thành quá trình tự đào tạo, đó là q trình Dạy - Tự học.


Như vậy các hình thức tổ chức tự học là hết sức phong phú và đa dạng. Đối với
mỗi con người trong suốt cuộc đời có lẽ đều phải kinh qua các hình thức tự học trên.

Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với từng
đối tượng học sinh, từng điều kiện vật chất của môi trường giáo dục sao cho đạt được
mục đích dạy học.
1.1.4.4. Vai trị, ý nghĩa của việc tự học
Thứ nhất, tự học giúp học sinh tự lực nắm vững tri thức, nâng cao năng lực nhận
thức, kĩ năng kĩ xảo nghề nghiệp trong tương lai.
Thứ hai, tự học giúp học sinh có được hứng thú, thói quen và phương pháp học tập
thường xuyên để làm phong phú, hồn thiện thêm vốn hiểu biết của mình.
Thứ ba, tự học giúp học sinh hình thành được những phẩm chất trí tuệ, tình cảm,
rèn luyện nhân cách của mình, tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý
chí phấn đấu, đức tình kiên trì, lòng say mệ nghiên cứu khoa học.
Thứ tư, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học cần thiết sẽ khơi dậy được ở
học sinh tiềm năng sẵn có tạo nên động lực nội sinh trong q trình học tập vượt lên trên
mọi khó khăn trở ngại.
Thứ năm, tự học tiết kiệm được thời gian, giảm sức ép của việc giảng dạy, tăng
cường động cơ học tập.
Thứ sáu, tự học giúp hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức
tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, lòng say mê nghiên cứu khoa học.
Tựu chung lại, vai trò của tự học là vô cùng to lớn. Song thực tiễn dạy và học ở
các trường phổ thông hiện nay lại chưa đặt đúng vị trí của việc tự học và chưa phát huy
được đầy đủ tác dụng của tự học.
1.2. Thực tiễn tạo hứng thú học tập lịch sử thông qua các hình thức tổ chức tự học
cho HS ở trƣờng THPT chuyên hiện nay
1.2.1. Một số nét nổi bật ở trường THPT chuyên hiện nay
Mục tiêu đào tạo của trường chuyên là mục tiêu kép. Nhân cách, tư cách của một công
dân và nhân cách, tư cách của một nhân tài trong tương lai. Nhiệm vụ của trường chuyên là
vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện để hồn thiện cho học sinh nền học vấn
phổ thơng và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, vừa phải thực
hiện sự tác động đúng hướng để phát triển năng khiếu của các em về một môn học.



Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên, phần lớn là những vấn đề lịch sử
tổng hợp, sâu rộng. Nếu khơng có vốn tri thức phong phú, khơng có một khối lượng tri
thức đã được thơng hiểu và nắm vững, khơng có lịng ham muốn hiểu biết, ham muốn
học hỏi, tự học, tự tìm tịi và phải suy nghĩ, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu biết
kiến thức mới thì học sinh khơng thể nào giải quyết được các vấn đề đặt ra trong quá
trình học tập hay những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
1.2.2. Thực tiễn việc tạo hứng thú học tập lịch sử cho học sinh qua các hình thức tổ
chức tự học ở trường THPT chuyên Lam Sơn hiện nay
1.2.2.1 Khảo sát thực tiễn việc tạo hứng thú học tập lịch sử cho H S qua các hình thức tổ
chức tự học ở trường THPT chuyên Lam Sơn hiện nay
- Phương pháp khảo sát: để xác định cơ sở thực tiễn cho đề tài, chúng tôi đã tiến
hành quan sát sư phạm, dự giờ, trao đổi, tham khảo bài soạn của giáo viên, điều tra qua
phiếu thăm dò đối với tất cả giáo viên và học sinh lớp 10 trường THPT chuyên Lam Sơn,
Thanh Hố.
- Mục đích khảo sát: tìm hiểu quan niệm của giáo viên, học sinh về hứng thú học
tập và các hình thức tổ chức tự học lịch sử; đánh giá phương pháp, các yếu tố tác động
đến quá trình dạy học và việc tạo hứng thú học tập lịch sử cho học sinh lớp 10. Qua đó,
nhằm đề xuất các biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các hình thức tổ chức
tự học lịch sử lớp 10.
- Kết quả khảo sát:
Cả giáo viên và học sinh đều nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc tự
học lịch sử nhưng vị trí của nó thì chưa được quan tâm đúng mức.
Về thuận lợi: 66.7% học sinh thường xuyên cập nhật tin tức trong ngày, 82.1%
học sinh thường xuyên đọc sách, 79.9% học sinh muốn được tham gia thiết kế sản phẩm
tự học mang tính sáng tạo, hiện đại ứng dụng CNTT. 94.4% học sinh cho rằng tự học là
quan trọng.
Về khó khăn: đa số học sinh chuyên Sử có năng lực học tập khơng cao; chưa có
chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, sách bài tập dành riêng
cho chun, chưa có phịng học bộ mơn, phương tiện dạy học hiện đại.

1.2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng việc tạo hứng thú học tập lịch sử cho H S qua các
hình thức tổ chức tự học ở trường THPT chuyên Lam Sơn hiện nay
Về phía giáo viên:


Nguyên nhân trước hết ở ngay ý thức chủ quan của giáo viên.
Phương pháp dạy học của khơng ít giáo viên chủ yếu vẫn theo “lối mòn”, “độc
thoại” trong phần lớn thời gian trên lớp.
Giáo viên các trường THPT công lập ngồi giờ dạy ở trường theo sự phân cơng
của tổ bộ mơn cịn đi dạy thêm ở các trường dân lập, khiến khơng cịn thời gian để học
tập nâng cao trình độ. Vì vậy, làm giảm hiệu quả dạy học.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của phần lớn các trường phổ thơng cịn nhiều hạn chế,
trang thiết bị dạy học cịn thiếu thốn, thư viện trường khơng đủ tài liệu tham khảo cho
giáo viên và học sinh (42.1% học sinh cho rằng nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng
tự học là thiếu tài liệu tham khảo).
Ngồi ra cịn một số nguyên nhân khách quan từ phía giáo viên và học sinh như
điều kiện kinh tế khó khăn… cũng làm cho chất lượng dạy và học các mơn nói chung,
mơn lịch sử nói riêng đạt hiệu quả chưa cao.
Một số giáo viên còn chưa chú ý đến việc sử dụng ngơn ngữ, lời nói trong giảng
dạy.
Xã hội đang đổi mới từng ngày với sự bùng nổ khoa học kỹ thuật hiện đại, công
nghệ thông tin, điều này tác động đến mọi mặt trong đời sống…. Để đáp ứng được những
đòi hỏi của xã hội, những yêu cầu về giáo dục học sinh, giáo viên phải khơng ngừng tìm
tịi, học hỏi để củng cố kiến thức, trau dồi về phương pháp, am tường về kỹ thuật vè rèn
luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm thường xuyên.
Về phía học sinh:
Đặc điểm “tính quá khứ” của những tri thức lịch sử nên không thể “trực quan sinh
động” được các sự kiện, hiện tượng lịch sử, không thể tái diễn lại lịch sử trong phịng thí
nghiệm… (57.9% học sinh cho là mơn học khơ khan, khó nhớ, khó học).
Cách học: đến lớp ghi bài và về nhà cần học thuộc sách giáo khoa và vở ghi nên

học sinh không nhớ kiến thức được lâu, học trước quên sau.
Tính năng động của học sinh thời nay trong học tập chưa được khơi dậy.
Các em phải học nhiều môn, dành thời gian cho môn thi đại học nên thời gian
dành ít cho các mơn khác, trong đó có mơn lịch sử (53.1% học sinh thiếu thời gian tự học
do phải đi học bồi dưỡng các môn thi đại học).
Hầu như các em chỉ xem môn lịch sử là “mơn phụ”, hơn nữa lại cịn là một mơn
q dài và khó nhớ.


Về xã hội:
Trong cơ chế thị trường và sự phát triển hiện nay của xã hội, nhiều người có quan
niệm chưa đúng đắn về vai trò và ý nghĩa của bộ môn lịch sử.
Trên đây là những nguyên nhân dẫn đến thực trạng dạy và học lịch sử ở trường
phổ thông hiện nay.

Tiểu kết chƣơng 1
Tự học không giúp học sinh chủ động, tích cực và độc lập trong việc khám phá,
chiếm lĩnh kiến thức mà còn giúp học sinh hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí
phấn đấu, đức kiên trì, óc phê phán, lịng say mê khoa học.
Vấn đề tự học và tạo hứng thú học tập đối với học sinh phổ thông là việc rất cấp
thiết.
Song, qua khảo sát thực trạng cho thấy việc tạo hứng thú thơng qua hình thức tổ
chức tự học cho HS ở trường THPT chuyên hiện nay chưa được chú ý đúng mực.
Qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp
nhằm tạo hứng thú học tập lịch sử qua các hình thức tổ chức tự học cho học sinh trường
THPT chuyên.
CHƢƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH QUA CÁC HÌNH
THỨC TỔ CHỨC TỰ HỌC MƠN LỊCH SỬ LỚP 10 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG CHUYÊN LAM SƠN, THANH HỐ. THỰC NGHIỆM

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của Lịch sử lớp 10
2.1.1. Vị trí, mục tiêu của khố trình Lịch sử lớp 10
Chương trình lịch sử lớp 10 THPT bao gồm những sự kiện tiêu biểu, điển hình của
quá trình phát triển xã hội lồi người kể từ khi xuất hiện đến nay, nó gồm cả phẩn lịch sử
thế giới cổ trung cận đại và lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX. Những
nội dung đó được cấu tạo theo nguyên tắc đồng tâm và thể hiện qua các khoá trình lịch sử
kế tiếp nhau. So với chương trình lịch sử thế giới cấp THCS, chương trình lịch sử thế giới


cấp THPT được nâng cao không chỉ ở nội dung sử liệu mà quan trọng hơn là những khái
niệm, quy luật và bài học lịch sử.
2.1.2. Nội dung cơ bản của khố trình Lịch sử lớp 10
Nội dung của khố trình lịch sử lớp 10 gồm 3 phần: Lịch sử thế giới cổ trung đại,
lịch sử thế giới cận đại thời kì thứ nhất và lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ
XIX. Có thể thấy rằng, khố trình lịch sử lớp 10 rất nhiều những nội dung hay cả về lịch
sử thế giới và lịch sử dân tộc, nó chiếm gần 2/3 khối lượng kiến thức cho cả cấp THPT.
Đặc biệt, lớp 10 là lớp đầu của cấp THPT, các em cần bắt đầu việc học với những đam
mê, hứng thú để có động lực khám phá những tri thức tiếp theo. Không chỉ vậy, nội dung
kiến thức lịch sử lớp 10 rất dài, nó chỉ được dạy rất cơ bản qua các tiết học với thời lượng
eo hẹp (1,5 tiết/tuần) nên học sinh cần phải tích cực, chủ động tìm hiểu thêm kiến thức để
hiểu được bản chất vấn đề lịch sử. Tóm lại, những nội dung phong phú, bổ ích này cần
được kết hợp với những hình thức tổ chức tự học phù hợp để tạo nên những bài học hấp
dẫn, tạo được hứng thú học tập lịch sử cho học sinh.
2.2. Một số yêu cầu khi lựa chọn các hình thức tổ chức tự học để gây hứng thú cho
học sinh.
2.2.1. Về môi trường học tập
Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi người học có đầy đủ các phương tiện hỗ trợ
cho hoạt động tự học, phương tiện đầu tiên phải kể đến là tài liệu giáo trình, các tài liệu
hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo khác. Ngồi ra cịn có các phương tiện hỗ trợ
như đèn chiếu, băng hình, máy tính, các phương tiện nghe nhìn khác.

Phải có địa điểm để tự học với các điều kiện cần thiết về vệ sinh học đường để
hoạt động tự học của học sinh có hiệu quả. Nhà trường cần có đủ điều kiện và phương
tiện thơng tin nghe nhìn và địa điểm tự học của học sinh.
2.2.2. Về phía học sinh
Yếu tố tâm lý là yếu tố bên trong ảnh hưởng đến kết quả tự học của học sinh, đó là
nhu cầu, động cơ và thái độ học tập của học sinh.
Bên cạnh đó, người học phải khơng ngừng hoàn thiện các chức năng tâm lý nhận
thức để tiến hành hoạt động học tập một cách có hiệu quả dưới sự hướng dẫn và điều
khiển của thầy.
Cùng với việc hình thành động cơ học tập đúng đắn, học sinh phải hình thành một
hệ thống kỹ năng tự học.


Học sinh phải nhận thức đúng về vai trò, ý nghĩa của việc học tập bộ mơn và tự
giác, tích cực, tự chủ trong học tập bộ môn đồng thời phải trang bị cho mình một hệ
thống kĩ năng tự học, có động cơ, ý chí vượt khó trong q trình tự học.
Tự kiểm tra, đánh giá sẽ giúp học sinh nhận thức và đánh giá đúng mức độ kiến
thức đã đạt được của mình so với mục đích u cầu của bài học, của mơn học.

2.2.3. Về phía giáo viên
Để tổ chức có hiệu quả q trình tự học cho học sinh địi hỏi giáo viên phải có
trình độ chun mơn sâu, có năng lực thiết kế, tổ chức và hướng dẫn học sinh tự tổ chức
hoạt động tự học:
GV hướng dẫn HS cụ thể, với hình thức tổ chức tự học linh hoạt, hiệu quả, phát
huy tính tích cực của học sinh, từ đó tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Để quá
trình tổ chức tự học của học sinh đạt hiệu quả, giáo viên cũng cần hướng dẫn cho học
sinh những kĩ năng, năng lực tự học.
Giáo viên cũng phải vận dụng phương pháp dạy học phù hợp để kích thích, hình
thành được ham muốn tự học của học sinh.
GV thường xuyên cải tiến hình thức tổ chức tự học, cập nhật công nghệ để tạo hứng

thú học tập cho học sinh.
Qua một hệ thống các biện pháp sư phạm trên, giáo viên tạo được hứng thú học tập lịch
sử cho học sinh cũng là góp phần rèn luyện cho học sinh bước đầu phong cách nghiên
cứu khoa học.
Như vậy, để gây hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử, giáo viên
phải đầu tư nhiều thời gian và công sức ngay từ khâu chuẩn bị bài giảng để “có thể thực
hiện bài trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong
các hoạt động tìm tịi hào hứng, tranh luận sơi nổi của học sinh”.
2.3. Các hình thức tổ chức tự học tạo hứng thú trong DHLS lớp 10
2.3.1. Các biện pháp tổ chức tự học trên lớp để gây hứng thú học tập cho học sinh
2.3.1.1. Nghe giảng và ghi chép
Việc ghi bài trên lớp tránh hai xu hướng: ghi rất sơ lược (đầu đề bài học và dàn
bài) và quá tỉ mỉ bài giảng của giáo viên. Nếu ghi sơ lược học sinh sẽ không theo dõi bài
giảng của giáo viên, về nhà chỉ học thuộc sách giáo khoa. Ghi tỉ mỉ, học sinh khơng có thì


giờ điều kiện để suy nghĩ về bài giảng của thầy, và việc học tập sẽ thụ động, chỉ chú
trọng ghi nhớ sự kiện. Vì vậy, giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép trên lớp ở những
công việc sau đây:
Thứ nhất, ghi dàn bài bài học, theo dàn bài của giáo viên trình bày trên bảng đen
và đối chiếu khi theo dõi sách giáo khoa để ghi những sự kiện chính.
Thứ hai, vẽ lại trong vở ghi những hình vẽ giáo viên trình bày trên bảng đen để
minh hoạ cho bài giảng (những hình vẽ đơn giản song có nội dung cơ bản và một số sự
kiện đang học).
Thứ ba, ghi số liệu, niên đại quan trọng, lập các niên biểu, đồ thị (theo bài giảng
giáo viên).
Thứ tư, ghi các tài liệu lịch sử gốc, câu nói nổi tiếng của các danh nhân, câu trích
trong các tác phẩm các tác giả kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh, văn kiện
Đảng và Nhà nước… ghi chép phải liên hệ các sự kiện đang học với câu trích.
Thứ năm, ghi các từ mới, các thuật ngữ sử dụng học thường dùng để hiểu nội dung

các khái niệm, các kiến thức cơ bản trong bài.
Cuối cùng, học sinh ghi lời hướng dẫn, dặn dò của giáo viên về tiếp tục tự học ở nhà.
2.3.1.2. Tự học với sách giáo khoa
Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong học tập (tự học) của học sinh, nên được
biên soạn theo chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định. Điều đáng
lưu ý là kiến thức trình bày trong sách giáo khoa phải đạt yêu cầu chuẩn mực cho việc
truyền thụ giáo dục, cho các hình thức đánh giá, kiểm tra học sinh.
Trong giờ học, học sinh cố gắng tự đọc bài viết trong sách giáo khoa theo sự hướng
dẫn của giáo viên. Giáo viên phải làm cho học sinh thấy được sự thống nhất giữa bài
giảng với sách giáo khoa để làm nổi bật kiến thức cơ bản. Từ đó, học sinh tự mình lập
dàn ý ghi chép, hiểu lơgíc phát triển của lịch sử. Việc ghi dàn ý trên bảng đen có ý nghĩa
quan trọng để học sinh theo dõi nội dung sách giáo khoa, bài giảng và tự học ở nhà.
Bài giảng của giáo viên được đánh giá tốt khơng phải vì giúp cho học sinh ghi
chép đầy đủ mà cịn động viên tính tích cực tư duy của các em trong khi nghe giảng, tự
mình lựa chọn vấn đề để giải quyết trên lớp hay tiếp tục suy nghĩ ở nhà. Làm được như
vậy, học sinh đã nắm được phần nào sách giáo khoa, bài giảng và tiếp tục tự học ở nhà.
2.3.1.3. Thảo luận nhóm


Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong lớp học được chia thành các nhóm
nhỏ để các thành viên trong nhóm tích cực, chủ động, nghiên cứu thảo luận các nhiệm vụ
học tập để đạt được mục tiêu học tập dưới sự hướng dẫn điều khiển của giáo viên.
Có nhiều hình thức tổ chức thảo luận nhóm
+ Nhóm nhỏ thơng thường.
+ Nhóm rì rầm.
+ Nhóm kim tự tháp.
+ Nhóm đồng tâm (nhóm bể cá).
+ Nhóm khép kín và nhóm mở.
Phương pháp thảo luận nhóm có những ưu điểm trong dạy học như: tạo ra khơng
khí sơi nổi trong học tập, tạo ra cơ hội tối đa cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ

và phát triển những năng lực của mình và có thể bổ sung tri thức cho nhau trên cơ sở
“học thầy không tày học bạn”, phát huy được tính tích cực học tập của tất cả mọi học sinh
trong lớp, thơng qua đó, giáo viên có thể nhận được thơng tin phản hồi từ phía người học.
2.3.1.4. Đóng vai (kịch):
Phương pháp đóng vai trong dạy học lịch sử khác với phương pháp diễn kịch nghệ
thuật. Ở đây không cho trước kịch bản mà học sinh tự soạn kịch bản theo chủ đề giáo
viên đưa ra. Quy mơ của phương pháp đóng vai thực hiện trong những tình huống cụ thể,
ngắn, có tính chất minh hoạ là chủ yếu.
Phương pháp dạy học đóng vai rất phù hợp với các môn khoa học xã hội, đặc biệt
là dạy học lịch sử.
Hình thức này bao gồm các bước sau:
2.3.2. Các biện pháp tổ chức học sinh tự học ở nhà để gây hứng thú học tập
2.3.2.1. Đọc sách và ghi chép khi đọc sách.
Trong mỗi bài, mỗi chương, giáo viên không nhất thiết giảng dạy hết tất cả nội
dung kiến thức; tuỳ từng nội dung có thể yêu cầu học sinh tự đọc sách. Để việc đọc sách
có hiệu quả, trước mỗi bài học, mỗi phần, mỗi chương, giáo viên chỉ ra cho học sinh
những vấn đề cần giải quyết, cần suy nghĩ, tìm hiểu thêm (tức là chỉ cho học sinh mục
đích đọc sách).
Sách và đọc sách là giải pháp và phương tiện cơ bản nhất để giúp con người học
tập, biết cách đọc sách là biết cách tự học, cần xây dựng “văn hoá đọc” cho học sinh, tạo
nên một nền móng cho xã hội học tập và học suốt đời thực sự ở Việt Nam. Không chỉ thế,


đọc sách cịn góp phần phát triển ngơn ngữ và phát triển năng lực tư duy; khi đọc sách là
để học, giúp ích cho việc tự học thì học sinh cần biết đọc những gì và đọc như thế nào để
đạt mục đích và hiệu quả cao.
2.3.2.2. Tự học để giải quyết các bài tập về nhà
Việc rèn luyện học sinh tự hoàn thành bài tập và câu hỏi trong sách giáo khoa,
cũng như giải quyết các bài tập mở rộng do giáo viên giao về nhà là khâu quan trọng
không thể thiếu trong dạy học lịch sử. Bài giảng trên lớp chỉ là bước mở đầu cho công

việc tiếp tục tự học ở nhà của học sinh để hiểu vấn đề, chứ khơng phải là cung cấp hồn
chỉnh, cuối cùng cho việc học tập. Tổ chức và hướng dẫn giải quyết các câu hỏi và bài
tập về nhà là hình thức làm bài tập chủ yếu của học sinh tự học ở nhà. Thơng qua việc
hồn thành câu hỏi, bài tập về nhà, học sinh được rèn luyện ý thức tự học, gây hứng thú
học tập, phát huy tính thơng minh sáng tạo, góp phần thực hiện ngun lí giáo dục gắn
nhà trường với cuộc sống.
Thực tế, dạy học lịch sử ở trường phổ thông cho thấy nếu biết quan tâm đúng mức
việc rèn luyện học sinh tự học ở nhà thông qua giải quyết bài tập về nhà thì chất lượng bộ
mơn được nâng lên rõ rệt, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức cơ bản, rèn luyện được kĩ năng
tư duy và thực hành… điều đó góp phần giải quyết tốt mối quan hệ đồng thời ở ba mặt
của việc học tập lịch sử: biết, hiểu, vận dụng kiến thức đã học.
2.3.2.3. Chuẩn bị vấn đề để thuyết trình trước lớp
Đây là hình thức tổng hợp các hình thức trên. Ở hình thức này, giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh những vấn đề có nội dung trọng tâm trong khố trình lịch sử lớp 10,
cho học sinh làm việc theo nhóm ở nhà theo nội dung mà giáo viên đã giao. Song, hình
thức này cũng có nhiều vấn đề cần lưu ý: giáo viên phải thận trọng trong việc giao vấn đề
cho học sinh giải quyết, thường xun trao đổi thơng tin với nhóm học sinh và đặc biệt
phải quản lí được hoạt động tự học của các nhóm, đảm bảo được tính hiệu quả của bài
học và hình thức tổ chức tự học.
Đây cũng là hình thức mà chúng tơi tiến hành thực nghiệm nhằm kiểm chứng tính
khả thi của đề tài.
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm
2.4.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm với mục đích kiểm nghiệm trong thực tế tính khả thi của
các biện pháp tổ chức tự học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trong bộ môn Lịch


sử lớp 10 và chứng minh giả thuyết khoa học của đề tài. Kết quả thực nghiệm là cơ sở để
chúng tôi vận dụng các biện pháp đã đề xuất trong thực tiễn giảng dạy.
2.4.2. Đối tượng thực nghiệm và địa bàn thực nghiệm

Căn cứ vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiến hành thực
nghiệm ở hai lớp 10F và 10T của trường THPT chuyên Lam Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Khi tiến
hành thực nghiệm, chúng tơi đã chọn các lớp có trình độ tương đương nhau (theo bảng
trình bày phía dưới), số lượng đồng đều (34 học sinh) để thuận lợi cho việc đánh giá hiệu
quả bài giảng. Thời gian thực nghiệm tháng 1 năm 2012. Người thực nghiệm: giáo viên
lịch sử Phan Thị Hà.
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp điểm tổng kết trung bình môn lịch sử của lớp 10T và 10F
Điểm TK

5.0 ≤ Đ ≤ 6.4

6.5 ≤ Đ ≤ 7.9

8.0 ≤ Đ ≤ 10.0

Kết quả

SL

Tỷ lệ %

SL

Tỷ lệ %

SL

Tỷ lệ %

10T


0

0

15

44

19

56

10F

0

0

16

47.1

18

52.9

Biểu đồ 2.1: So sánh điểm Tổng kết trung bình mơn lịch sử giữa lớp 10T và lớp 10F
60
50

40
10T

30

10F

20

10
0
Trung bình

Khá

Giỏi

Qua Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1 cho thấy:
- Ở cả hai lớp 10T và 10F đều khơng có học sinh bị điểm tổng kết trung bình hay yếu
kém. Điều này cho thấy, học sinh của hai lớp này có học lực khá, giỏi trở lên; có ý thức
học tập tốt, tích cực.
- Ở lớp 10T tỉ lệ học sinh đạt điểm giỏi chiếm 56%, cao hơn tỉ lệ học sinh đạt điểm giỏi ở
lớp 10F, tuy nhiên khơng có sự cách biệt lớn (lớp 10T có 19 học sinh đạt điểm giỏi cịn
lớp 10F có 18 học sinh). Tương tự, số học sinh đạt điểm khá của lớp 10 F cũng chỉ hơn
số học sinh đạt điểm khá của lớp 10T là 01 học sinh. Như vậy, có thể khẳng định, hai lớp


10T và 10F có học lực mơn lịch sử tương đương nhau. Đây là điều kiện quan trọng để
chúng tôi chọn hai lớp này thực nghiệm cho đề tài nghiên cứu.
2.4.3. Nội dung tiến hành thực nghiệm

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm bài 16 “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc” - Lớp 10 chương trình chuẩn.
Chuẩn bị giáo án: hai kiểu
Kiểu 1: Giáo án thực nghiệm, áp dụng các biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh
qua các hình thức tổ chức tự học như trong luận văn đã đề xuất. [Phụ lục 5]
Kiểu 2: Giáo án đối chứng được soạn và giảng dạy theo phương pháp bình thường khơng
sử dụng hình thức tổ chức tự học. [Phụ lục 4]
Kiểm tra chất lượng bằng cách cho học sinh hai lớp đối chứng và thực nghiệm làm bài
kiểm tra, đánh giá sau tiết học.
2.4.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm
Tiến hành theo đúng phân phối chương trình và thời gian biểu do nhà trường đề ra
trong năm học 2011 – 2012, phù hợp với kế hoạch của Bộ Giáo dục và đào tạo.
Chúng tôi chọn một lớp thực nghiệm và một lớp đối chứng
+ Lớp thực nghiệm: sử dụng giáo án kiểu 1. Bài giảng được soạn chi tiết trong đó
tập trung vào vấn đề cần thực nghiệm và vận dụng các hình thức tổ chức tự học lịch sử
nhằm tạo hứng thú cho học sinh.
+ Lớp đối chứng: sử dụng giáo án kiểu 2. Bài giảng được tiến hành theo phương
pháp bình thường, khơng kết hợp sử dụng các hình thức tổ chức tự học.
2.4.5. Kết quả thực nghiệm
Sau khi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành kiểm tra kiến thức và thăm dò ý kiến học
sinh đối với học giờ học thực nghiệm.
Về kiến thức:
Việc học sinh hiểu bài thể hiện ở kết quả bài kiểm tra qua số điểm giỏi và khá của
lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng, thể hiện ở bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC
Điểm Giỏi

Điểm Khá

Điểm Tb


Điểm yếu,

9 -10

Lớp

7- 8

5-6

kém < 5

Lớp TN

Số lượng

21

11

2

0

SS 34

tỷ lệ %

61.8


32.4

5.8

0


Lớp ĐC

Số lượng

SS 34

tỷ lệ %

16

9
47.1

5
26.5

1
23.5

2.9

Ở lớp thực nghiệm hầu hết các em trả lời tương đối tốt câu hỏi đưa ra. Phần lớn

các em đều đi đúng hướng, trả lời đúng trọng tâm câu hỏi. Trong khi làm bài, các em đã
biết chọn lọc kiến thức cơ bản, sắp xếp lôgic, vận dụng kiến thức tốt, thể hiện sự tìm tịi,
khám phá sáng tạo với những đánh giá, nhận xét riêng. Vì vậy, tỉ lệ phần trăm học sinh
đạt điểm giỏi ở lớp thực nghiệm chiếm 61.8% (cao hơn tỉ lệ này ở lớp đối chứng là
14.7%); tỉ lệ phần trăm điểm khá chiếm 29.4% (cao hơn lớp đối chứng 5.9%); tỉ lệ phần
trăm điểm trung bình chiếm 8.8% (trong khi tỉ lệ này ở lớp đối chứng là 23.5%); khơng
có học sinh bị điểm yếu, kém.
Để cụ thể hoá sự chênh lệch trong kết quả học tập ở lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng, ta có thể biểu diễn qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.2: So sánh kết quả điểm kiểm tra giữa lớp TN và lớp ĐC
70
60
50
40

10T - ĐC

30

10F - TN

20
10
0
Yếu, kém Trung bình

Khá

Giỏi


Ở lớp đối chứng, khơng áp dụng hình thức tổ chức tự học lịch sử cho học sinh,
phần lớn các em chưa phân tích được ý nghĩa của các cuộc khởi nghĩa, chưa nắm được
nội dung kiến thức cơ bản.Vì vậy, kết quả kiểm tra đạt được không cao: tỉ lệ phần trăm
học sinh đạt điểm giỏi chiếm 47.1%, tỉ lệ phần trăm học sinh đạt điểm khá chiếm 26.5%,
tỉ lệ phần trăm học sinh đạt điểm trung bình chiếm 23.5%, tỉ lệ phần trăm học sinh đạt
điểm yếu, kém chiếm 2.9%.
Kết quả kiểm tra cho thấy, với các biện pháp sư phạm tổ chức các hình thức tự học
đã khơi dậy được sự say mê, hứng thú, tìm tịi, khám phá tri thức lịch sử ở học sinh. Các
em đã hiểu bài, hiểu yêu cầu của đề kiểm tra và trả lời tương đối đầy đủ. Một số học sinh
đạt điểm cao, khi được hỏi (phỏng vấn) về phương pháp học tập, các em trả lời: do tự tìm


tịi nên dễ nhớ, hiểu được kiến thức, có sự trao đổi với các bạn trong tổ, đọc thêm sách
tham khảo.
Chất lượng học tập của lớp thực nghiệm được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, số học
sinh đạt điểm trung bình vẫn cịn (02 học sinh) chiếm 5.8%. Điều này cho thấy học sinh
chưa có thói quen tự học trong giờ lên lớp, tự học ở nhà, chưa tích cực chủ động liên hệ
với nhóm và cũng chưa biết tự lĩnh hội kiến thức qua các tài liệu tham khảo, vì thế chưa
phát huy được hết khả năng tự học của bản thân và kết quả thu được còn chưa cao. Điều
này có thể lý giải được vì khơng thể ngay lập tức học sinh có sự thay đổi quan niệm về vị
trí mơn học, về cách học, cách làm bài kiểm tra. Điều này sẽ được khắc phục khi học sinh
có hứng thú áp dụng những biện pháp sự phạm trên để nâng cao khả năng tự học.
Việc áp dụng các hình thức tổ chức tự học cho học sinh lớp 10 đã có hiệu quả.
Học sinh được trang bị các kĩ năng rất quan trong trong quá trình học tập của các em
cũng như trong cuộc sống sau này như kĩ năng hợp tác và làm việc nhóm, kĩ năng tìm
kiếm và xử lí thơng tin qua nhiều kênh khác nhau và đặc biệt là kĩ năng thuyết trình, kĩ
năng thuyết phục người nghe. Các em phần lớn có hứng thú trong việc tìm hiểu tri thức
lịch sử với các hình thức tổ chức tự học cụ thể đưa ra trong luận văn.
Chúng tôi đã khẳng định được các mục đích của thực nghiệm sư phạm, hồn thành
các nội dung của thực nghiệm sư phạm, tổ chức tiến hành thực nghiệm sư phạm đúng kế

hoạch và xử lí chính xác số liệu thực nghiệm sư phạm. Thực nghiệm sư phạm cũng cho
chúng tôi thấy được những ưu điểm, hạn chế của các hình thức tổ chức, các biện pháp và
quan trọng hơn cả là khẳng định tính khả thi cao của việc áp dụng các hình thức tổ chức
tự học cho học sinh phổ thông.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ngày nay, giáo dục cần đào tạo ra những con người vừa có chun mơn, kiến thức
tốt, vừa có những kĩ năng thích ứng trước cuộc sống. Dạy học lịch sử cũng nhằm thực
hiện mục tiêu đó. Để thực hiện được mục tiêu dạy học bộ mơn nói riêng và mục tiêu giáo
dục đào tạo nói chung, giáo viên giảng dạy lịch sử cần đặc biệt chú ý đến việc tạo hứng
thú học tập cho học sinh, bởi có hứng thú học tập, học sinh mới tiếp thu được kiến thức
bài học.


Tuy nhiên thực trạng dạy và học lịch sử ở trường THPT hiện nay đang đáng báo
động. Điều đó, được thể hiện qua kết quả các kỳ thi tuyển sinh quốc gia, hoặc việc thế hệ
trẻ không nắm được lịch sử dân tộc. Để góp phần cải thiện thực trạng đó, giáo viên trực
tiếp giảng dạy lịch sử ở trường THPT cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học bộ mơn
với mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm
trung tâm.
Một trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử ở các
trường phổ thơng nói chung và các trường phổ thơng chun nói riêng là việc tạo hứng
thú học tập lịch sử cho học sinh qua các hình thức tổ chức tự học. Hình thức tổ chức tự
học rất phong phú, có nhiều ưu điểm, song nó cũng có những vấn đề khó khăn đi cùng.
Mỗi phương pháp, hình thức tổ chức tự học đều có những thế mạnh và những điểm cịn
hạn chế. Nó đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt và vận dụng, kết hợp nhuần nhuyễn các
phương pháp, cách thức tổ chức dạy học để đạt hiệu quả bài học cao nhất.
2. Khuyến nghị
Qua việc nghiên cứu lí luận, thực tiễn và thực nghiệm các nội dung liên quan đến

luận văn, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị:
Việc giáo viên hướng dẫn, tổ chức các hình thức tự học cho học sinh trong dạy
học lịch sử nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học bộ môn phải được tiến hành thường xun.
Bất kì cơng việc gì cũng cần có sự tâm huyết, tận tâm với nghề; đặc biệt với nghề
giáo. Mỗi giáo viên cần tích cực hơn nữa trong việc cập nhật công nghệ thông tin trong
dạy học lịch sử, thường xuyên hướng dẫn học sinh các hình thức tổ chức tự học để tăng
sức hấp dẫn của môn học, tăng tính giáo dục của mơn học. Cơng việc này địi hỏi sự dày
công đầu tư về cả thời gian và công sức của mỗi người giáo viên.
Để hiệu quả môn học ngày càng cao, mỗi học sinh phải luôn biết nỗ lực, trau dồi
bản thân, tăng cường kĩ năng, kĩ xảo để thích ứng với hồn cảnh học tập và đáp ứng được
mục tiêu môn học cũng như nhu cầu phát triển của xã hội.
Các cấp quản lí, cán bộ giáo dục cũng cần phối kết hợp với phụ huynh học sinh để
tạo mơi trường xã hội hố giáo dục, có những quan tâm đích đáng đến cơng việc dạy và
học của giáo viên - học sinh. Có như vậy, chất lượng giáo dục mới ngày càng được nâng
cao, xã hội ngày càng phát triển.


×