Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Kiến nghi giải pháp phát triển thi trường quyền chọn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.42 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hiện nay, với sự hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, bên cạnh
những cơ hội để phát triển, nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính nói
riêng phải đối mặt với nhiều rủi ro ngày càng gia tăng. Trong khi đó, ở Việt Nam,
chúng ta vẫn chưa chủ động trong việc quản lý rủi ro. Thị trường chứng khoán Việt
Nam là một ví dụ điển hình. Trong thời gian qua, với sự phát triển nhanh chóng, thị
trường chứng khoán góp phần không nhỏ trong việc huy động vốn cho sự phát triển
của nền kinh tế, trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam. Tuy
nhiên sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán đã bộc lộ những rủi ro tiềm ẩn
cho công chúng đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ lẻ (chiếm hơn 70%). Khi thị trường
chứng khoán trong giai đoạn suy thoái, những nhà đầu tư này không thể trụ vững trên
thị trường dẫn đến sự bán ồ ạt để bảo toàn vốn và sớm rút khỏi thị trường, làm cho thị
trường ngày càng trở nên trầm trọng hơn, dễ dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính, một hạn chế dễ nhận thấy rằng: ở Việt Nam
không chỉ các nhà đầu tư chứng khoán mà các nhà đầu tư khác (vàng, ngoại tệ) thiếu
sự chủ động trong quản lý rủi ro hoạt động kinh doanh của mình. Các công cụ tài
chính phái sinh ra đời để giúp các nhà đầu tư bảo toàn vốn trong tình hình biến động
bất lợi cho việc đầu tư. Một công cụ hạn chế rủi ro hữu hiệu được áp dụng ở hầu hết
các nước phát triển là hợp đồng quyền chọn. Mặc dù có vai trò to lớn, thiết thực, được
đông đảo giới đầu tư thế giới quan tâm, hợp đồng quyền chọn còn khá mới mẻ, chưa
thực sự phổ biến với công chúng Việt Nam. Việc nghiên cứu nhằm tăng cường sử
dụng hợp đồng quyền chọn và phát triển thị trường quyền chọn là một vấn đề cần thiết
hiện nay, tạo cơ sở cho thị trường tài chính phái sinh ở Việt Nam phát triển. Do đó, em
đã quyết định lựa chọn đề tài: “Kiến nghị giải pháp phát triển thị trường quyền
chọn ở Việt Nam”
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại


NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
OTC: Thị trường chứng khoán phi tập trung
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
TCTD: Tổ chức tín dụng
3
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN VÀ
THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
1.1. LÝ THUYẾT VỀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN
1.1.1. Khái niệm và phân loại hợp đồng quyền chọn
a. Khái niệm:
Hợp đồng quyền chọn là một công cụ tài chính phái sinh cho phép người mua
nó có quyền, nhưng không bắt buộc phải mua hoặc phải bán một số lượng xác định
các đơn vị tài sản cơ sở (underlying assets) ở một mức giá xác định (strike price) vào
một ngày đáo hạn (expiration date) hoặc một khoảng thời gian xác định trong tương
lai. Ngược lại, đối với người bán quyền chọn, họ bắt buộc mua hoặc bán tài sản cơ sở
vào một thời điểm xác định trong tương lai theo thỏa thuận giữa hai bên.
Hợp đồng quyền chọn dựa vào tài sản cơ sở (underlying asset) bao gồm: các
loại hàng hóa (dầu, vàng, gạo, cà phê, ngũ cốc…), dịch vụ (tiền điện, cước viễn
thông…) hoặc các tài sản tài chính (trái phiếu, cổ phiếu, ngoại tệ, lãi suất…). Hợp
đồng quyền chọn chỉ quy định quyền giao hay nhận mà không bắt buộc thực hiện
nghĩa vụ của mình và đi kèm với điều đó là một khoản phí phải trả gọi là phí quyền
chọn. Hợp đồng quyền chọn đóng vai trò là công cụ phòng ngừa rủi ro, đồng thời là
công cụ kinh doanh.
b. Phân loại hợp đồng quyền chọn

Theo quyền của người mua:
Hợp đồng quyền chọn được chia thành: Hợp đồng quyền chọn mua và hợp
đồng quyền chọn bán.
- Hợp đồng quyền chọn mua (call option): là một loại hợp đồng trong đó người
nắm giữ quyền chọn có quyền nhưng không bị bắt buộc mua một loại tài sản nào đó

với một mức giá đã định trước trong một thời gian đã định. Trong giao dịch này có hai
phía: người mua quyền chọn mua (hay là người nắm giữ quyền chọn) và người bán
quyền chọn mua.
- Hợp đồng quyền chọn bán (put option): là một loại hợp đồng, trong đó người
nắm giữ quyền chọn có quyền nhưng không bị bắt buộc bán một loại tài sản nào đó
với một mức giá đã định trước trong một thời gian đã định. Trong giao dịch này có hai
phía: người mua quyền chọn bán (hay là người nắm giữ quyền chọn) và người bán
quyền chọn bán.

Theo thời điểm thực hiện quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn được chia thành: Hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu và
hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ.
4
- Hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu (European Style Option): là quyền chọn
chỉ cho phép người nắm giữ hợp đồng thực hiện quyền mua hoặc bán của mình vào
ngày đáo hạn của hợp đồng (expiration date)
- Hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ (American Style Option): là quyền chọn cho
phép người nắm giữ thực hiện quyền mua hoặc bán vào bất cứ thời điểm nào trong
thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ ngày ký kết hợp đồng đến ngày đáo hạn của hợp
đồng.

Theo thị trường giao dịch
Hợp đồng quyền chọn được chia thành: Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị
trường tập trung và Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung.
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường tập trung: là quyền chọn được
tiêu chuẩn hóa về quy mô, số lượng, giá thực hiện và ngày đáo hạn, được giao dịch
trên các thị trường tập trung. Các hợp đồng quyền chọn này có tính thanh khoản cao,
được chuyển nhượng dễ dàng giữa các nhà đầu tư.
- Hợp đồng quyền chọn giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC): là thỏa
thuận mua bán giữa hai bên, trong đó giá quyền chọn được người bán đưa ra tùy thuộc

vào nhu cầu cụ thể của người mua mà không được giao dịch chính thức trên sở giao
dịch tập trung. Hợp đồng này thường được giao dịch giữa các đối tác liên ngân hàng
hoặc giữa ngân hàng với khách hàng là các cá nhân, doanh nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn
Mặc dù có nhiều tiêu chí để phân loại hợp đồng quyền chọn, song loại hợp
đồng quyền chọn nào cũng có những đặc điểm cơ bản sau:

Những yếu tố cơ bản cấu thành quyền lựa chọn:
- Tên của tài sản cơ sở và khối lượng được mua theo quyền
- Loại quyền (quyền chọn mua hay quyền chọn bán)
- Thời hạn của quyền: tất cả các quyền lựa chọn được niêm yết đều có ngày hết
hạn cố định.
- Mức giá thực hiện theo quyền : giá mà người mua quyền có thể mua tài sản cơ
sở từ người viết quyền (trong trường hợp quyền lựa chọn mua) hoặc là bán tài sản cơ
sở cho người viết quyền (trong trường hợp quyền lựa chọn bán).

Những mức giá liên quan đến một quyền lựa chọn
- Giá thị trường hiện hành của loại tài sản cơ sở
- Giá của tài sản cơ sở thực hiện theo quyền
- Giá quyền lựa chọn (phí quyền chọn)
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của tài sản
cơ sở thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money – ITM), tức là người có
5
quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng giá thị trường,
quyền đang ở trạng thái hòa vốn (at the money – ATM) và nếu cao hơn, gọi là đang
mất tiền (out of money).
Đối với quyền chọn bán, ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán
thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của tài sản cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực
hiện quyền thấp hơn giá thị trường của tài sản cơ sở.


Hợp đồng quyền chọn chỉ quy định quyền giao hay nhận mà không bắt buộc
các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình.

Tùy theo từng loại mà hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện tại bất cứ thời
điểm nào trước ngày đáo hạn hoặc đến ngày đáo hạn.
1.1.3. Vai trò và những rủi ro của hợp đồng quyền chọn trong giao dịch
a. Vai trò của hợp đồng quyền chọn
Là một trong bốn công cụ tài chính phái sinh cơ bản, hợp đồng quyền chọn có
những vai trò quan trọng:
Hợp đồng quyền chọn là công cụ để quản trị rủi ro
Giá của hợp đồng quyền chọn có quan hệ với giá của tài sản cơ sở trên thị
trường giao ngay. Do đó, hợp đồng quyền chọn có thể được sử dụng để làm giảm hay
tăng rủi ro của việc sở hữu tài sản giao ngay. Mặt khác, các nhà đầu tư khác nhau có
yêu cầu về mức lợi tức là khác nhau nên mức độ rủi ro mà họ chấp nhận cũng là khác
nhau. Hợp đồng quyền chọn cho phép những người ngại rủi ro cao chuyển giao rủi ro
cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là các nhà đầu cơ.Vì vậy, hợp đồng quyền
chọn nói riêng và thị trường quyền chọn nói chung rất hiệu quả trong việc phân phối
lại rủi ro giữa các nhà đầu tư.
Hợp đồng quyền chọn cung cấp những thông tin về độ bất ổn của tài sản cơ sở
giao ngay.
Các thị trường kỳ hạn và giao sau là nguồn thông tin quan trọng đối với giá cả.
Đặc biệt, thị trường giao sau được xem là công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay
của tài sản. Có rất nhiều mức giá có thể xảy ra của tài sản, tuy nhiên, giá của hợp đồng
giao sau đáo hạn sớm nhất thường được xem là giá giao ngay. Giá của hợp đồng giao
sau và kỳ hạn cũng chứa những thông tin về giá giao ngay mong đợi trong tương lai.
Mặc dù hợp đồng quyền chọn không cung cấp những dự báo về giá giao ngay trong
tương lai một cách trực tiếp. Nhưng chúng cung cấp những thông tin quý giá về độ bất
ổn cũng là rủi ro của tài sản cơ sở giao ngay.
Hợp đồng quyền chọn là một công cụ kinh doanh:
Hiện nay, khi giá cả tài sản cơ sở biến động từng ngày, từng giờ, thì với chức

năng cố định giá, hợp đồng quyền chọn có thể được các nhà đầu tư sử dụng cho việc
6
kinh doanh chênh lệch giá ngay cả trong thị trường thường xuyên hiệu quả. Sự tồn tại
của những cơ hội kinh doanh chênh lệch giá này có nghĩa là giá của một số tài sản cơ
sở tạm thời vi phạm các quy luật kinh tế. Các nhà đầu tư có thể kiếm được lợi nhuận
vượt mức hợp lý của thị trường ứng với mức rủi ro cho trước bằng các khả năng chịu
rủi ro cao, khả năng phân tích, dự báo tốt để sử dụng hợp đồng quyền chọn mua tài sản
cơ sở ở mức giá cố định (thấp hơn giá của tài sản cơ sở đó trên thị trường giao ngay)
rồi bán lại trên thị trường giao ngay với mức giá cao hơn theo dự đoán của mình và
ngược lại.
b. Những rủi ro trong giao dịch hợp đồng quyền chọn
Mặc dù có những điểm vượt trội so với các công cụ tài chính phái sinh khác,
hợp đồng quyền chọn cũng chứa đựng những rủi ro tiềm tàng rất lớn. Tùy thuộc từng
loại hợp đồng quyền chọn khác nhau, tùy thuộc vào mục đích và trạng thái kinh doanh
sẵn có khi mua hay bán – giao dịch hợp đồng quyền chọn, tùy thuộc cơ sở hạ tầng tài
chính, tùy thuộc môi trường kinh doanh mà người mua, người bán sẽ phải hoặc không
phải đối diện với những rủi ro tài chính khác nhau với mức độ rủi ro nhất định.
Ví dụ, nếu xét riêng lẻ một nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ:
+ Đối với người mua quyền chọn mua: Lỗ nhiều nhất là mức phí quyền chọn,
lãi thì có thể rất lớn (như Hình vẽ 1)
Hình vẽ 1: Khả năng lãi – lỗ của người mua quyền chọn mua ngoại tệ
+ Đối với ngưới bán quyền chọn mua ngoại tệ: Lãi tối đa là phí quyền chọn, lỗ
thì có thể là rất lớn (như Hình vẽ 2)
7
Hình vẽ 2: Khả năng lãi lỗ của người bán quyền chọn mua ngoại tệ
Nhìn chung, các loại rủi ro tiềm tàng khi mua, bán và giao dịch hợp đồng quyền
chọn bao gồm:
Rủi ro thông tin: Rủi ro mà một bên đối tác đối với hợp đồng quyền chọn là
nguyên nhân gây ra thất thoát tài chính cho đối tác khác do không hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán.

Rủi ro thị trường: Rủi ro mà giá trị thị trường hay dòng tiền tương lai của hợp
đồng quyền chọn bị dao động do những thay đổi về giá thị trường, gồm các loại: rủi ro
lãi suất, rủi ro tỷ giá…
Rủi ro thanh khoản: Rủi ro do gặp phải khó khăn trong việc hoàn thành các
nghĩa vụ đi kèm với trách nhiệm tài chính khi mua, bán hợp đồng quyền chọn.
Rủi ro hoạt động: Rủi ro thiệt hại xuất phát từ quy trình hoạt động nội bộ, con
người và hệ thống không hoạt động hoặc không đầy đủ hoặc từ các sự kiện bên ngoài
liên quan đến hoạt động mua, bán hợp đồng quyền chọn.
Rủi ro tập trung: tập trung rủi ro gia tăng từ các hợp đồng quyền chọn có tính
chất tương tự và chịu ảnh hưởng tương tự do những thay đổi trong điều kiện kinh tế và
các điều kiện khác.
1.2. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
1.2.1. Khái niệm thị trường quyền chọn
Quyền chọn tuy là một khái niệm kinh tế tài chính, nhưng chúng ta vẫn gặp phổ
biến trong đời sống hàng ngày, dưới các hình thức thể hiện khác nhau. Một khoản tiền
đặt cọc mua nhà cửa, hàng hóa; các khoản chi phí mà công ty bỏ ra cho hoạt động
nghiên cứu phát triển sản phẩm mới; các khoản khuyến mãi, tiếp thị…đều là những
dạng thể hiện bên ngoài của quyền chọn.
Với những đặc tính ưu việt riêng, quyền chọn dần trở thành công cụ được sử
dụng thường xuyên bởi các nhà đầu tư kinh doanh, theo xu thế phát triển của nền kinh
tế tiên tiến và sự phổ biến của các sản phẩm tài chính phái sinh, về sau này, quyền
8
chọn chính thức được xem như một loại hàng hóa và được nâng tầm giao dịch trên thị
trường có tổ chức: thị trường quyền chọn. Như vậy, thị trường quyền chọn là nơi các
giao dịch quyền chọn được thực hiện một cách có tổ chức.
1.2.2. Các chủ thể tham gia trên thị trường quyền chọn
Thị trường quyền chọn cũng như thị trường các công cụ phái sinh có sự tham
gia của rất nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm các doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ
chức tài chính như ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty tài chính, quỹ
đầu tư…

Dựa vào mục đích tham gia vào thị trường của các chủ thể, có thể chia thành
các nhóm sau:
Nhóm những người phòng ngừa rủi ro (Hedgers): là những người tham gia thị
trường quyền chọn để đề phòng các rủi ro do những biến động bất lợi trong tương lai
đối với họ bao gồm những tổ chức tài chính, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
các cá nhân. Thông thường, họ tham gia thị trường với tư cách là những người mua
các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro của giá cả, lãi suất, tỷ giá…Do đó, họ sẵn sàng
bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn để lấy được quyền lựa chọn có lợi cho
mình.
Nhóm những nhà đầu cơ (Speculators): là những người chấp nhận rủi ro cao để
tìm kiếm lợi nhuận từ sự biến động khôn lường trên thị trường bao gồm các cá nhân,
các tổ chức tài chính và phi tài chính. Họ thường dựa vào những phân tích kỹ thuật để
đưa ra các dự đoán về xu hướng tỷ giá, giá cả, lãi suất. Từ đó, họ thực hiện mua bán
các quyền chọn thích hợp để thu lợi nhuận. Mặc dù có quan điểm cho rằng, thị trường
quyền chọn cũng như thị trường công cụ tài chính phái sinh không phải thiết kế cho
hoạt động đầu cơ. Tuy nhiên sự tồn tại của các nhà đầu cơ là cần thiết để tạo điều kiện
cho những người phòng ngừa rủi ro có thể giảm thiểu được những bất ổn mà họ có thể
gánh chịu.
Các tổ chức tài chính trung gian (Financial Institutions): bao gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng đầu tư, các công ty chứng khoán…Đây là những tổ chức ngoài
mục đích tham gia thị trường với tư cách là người phòng ngừa rủi ro hay là những
người đầu cơ thì họ còn đóng vai trò quan trọng là các nhà môi giới các giao dịch
quyền chọn trên thị trường. Tuy nhiên, mô hình các công ty này chỉ phổ biến ở các
nước phát triển, nơi mà các giao dịch về quyền chọn diễn ra trên các sàn giao dịch tập
trung và họ là thành viên của sở giao dịch quyền chọn.
9
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN VIỆT NAM
2.1.1. Thực trạng thực hiện hợp đồng quyền chọn trên thị trường quyền
chọn Việt Nam

a. Quyền chọn tiền tệ
Trong thời gian qua ở Việt Nam, quyền chọn tiền tệ là công cụ phái sinh được
thị trường đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó. Các giao dịch quyền
chọn tiền tệ bao gồm quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ và ngoại tệ với VND. Các giao
dịch này hầu hết được NHNN thí điểm ở một số NHTM, sau đó mới triển khai áp dụng
rộng rãi.
Về quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, ngày 12/02/2003, theo công văn số
135/NHNN-QLNH của NHNN, Ngân hàng Xuất Nhập khẩu (Eximbank) là NHTM
đầu tiên được thực hiện thí điểm nghiệp vụ này. Trong đó, công văn cũng quy định cụ
thể nhằm triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ ở các NHTM
như đối tượng tham gia, đồng tiền giao dịch, thời hạn giao dịch, giới hạn số dư…Cụ
thể, các NHTM muốn thực hiện quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ đều phải là các
NHTM được phép kinh doanh ngoại hối, có vốn tự có tối thiểu 200 tỷ USD, kinh
doanh ngoại tệ có lãi trong 5 năm gần nhất và doanh số mua bán ngoại tệ của năm
trước phải đạt tối thiểu là 1 tỷ USD, trình bản dự bảo quy trình thực hiện nghiệp vụ
quyền chọn cho thống đốc NHNN để được chấp thuận.
Sau một thời gian thí điểm thực hiện, Eximbank đã đạt được một số kết quả
bước đầu: từ 2003-2005, trên 50 hợp đồng quyền chọn được ký kết giữa Eximbank và
các doanh nghiệp, trong đó quyền chọn mua ngoại tệ chiếm hơn 65%. Sau đó, tháng
4/2005, NHNN tiếp tục cho phép thí điểm nghiệp vụ quyền chọn này tại nhiều NHTM
khác trong đó có cả những ngân hàng trong nước: BIDV, ACB, Vietcombank và ngân
hàng nước ngoài: Citibank, HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Đến
10/11/2004, thống đốc NHNN đã ký quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch
hối đoái của các tổ chức tín dụng. Theo đó, chính thức cho phép tất cả các TCTD được
phép thực hiện giao dịch hối đoái đều được quyền thực hiện giao dịch quyền chọn
ngoại tệ với ngoại tệ mà không cần xin phép NHNN. Đồng thời, quy định kỳ hạn của
giao dịch quyền chọn giữa các ngoại tệ với nhau do tổ chức tín dụng và khách hàng tự
thỏa thuận. Đây là một quyết định mang tính chuyển biến lớn giúp cho thị trường
quyền chọn nước ta ngày càng đa dạng, các nhà đầu tư có thêm một sân chơi mới trên
thị trường tiền tệ.

10
Về quyền chọn ngoại tệ với VND, ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số
326/NHNN-QLNH cho phép NHTMCP Á Châu (ACB) triển khai thí điểm giao dịch
quyền chọn giữa ngoại tệ và VND. Sau đó, ngày 3/8/2006, theo công văn số
6644/NHNN-QLNH của NHNN, Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)
chính thức được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn này. Trong đó, công văn đã đưa ra
những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn,
thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch…những quy định này là cơ sở để triển khai
thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và VND tại các NHTM khác
dưới sự cho phép của NHNN. Quyền chọn ngoại tệ với VND là một bước ngoặt quan
trọng trong việc đưa cơ chế hình thành tỷ giá ở nước ta theo hướng linh hoạt hơn. Đặc
biệt, đáp ứng nhu cầu cho cả nhà nhập khẩu và xuất khẩu, trong đó quyền chọn mua áp
dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán cho nhà xuất khẩu.
Mặc dù từ 2006-2009, NHNN đã cho phép hàng loạt các NHTM thực hiện
nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và VND, song việc mua bán các hợp đồng này chưa có
nhiều tiến triển khả quan, doanh số mua bán thực tế tại các NHTM không đáng kể,
ngay cả những ngân hàng được thí điểm thực hiện đầu tiên là ACB và Techcombank.
Hai ngân hàng hàng đầu về kinh doanh ngoại hối là Vietcombank và Eximbank thì
doanh số hoạt động hợp đồng này cũng rất khiêm tốn. Năm 2007-2008, doanh số thực
hiện hợp đồng quyền chọn ngoại tệ và VND của Vietcombank chỉ đạt 37,53% triệu
USD (chiếm chưa tới 0,1% tổng số giao dịch ngoại tệ); Eximbank đạt 128,12 triệu
USD (chiếm 0,8% tổng số giao dịch ngoại tệ). Gần đây, theo những văn bản mới nhất
được ban hành, NHNN đã yêu cầu các NHTM tạm thời dừng thực hiện thí điểm
nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và VND kể từ ngày 23/3/2009. Như vậy, tạm thời
việc triển khai thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ và VND đã tạm thời dừng lại
sau một thời gian thí điểm chưa thực sự hiệu quả.
Nhìn chung, thị trường quyền chọn trong lĩnh vực tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
còn mang tính chất một chiều, đơn điệu giữa người mua quyền chọn là các doanh
nghiệp hoạt động tại Việt Nam (chủ yếu là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu), người
bán hợp đồng quyền chọn là các NHTM. Hầu hết các hợp đồng quyền chọn tiền tệ là

hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ (chiếm hơn 98%) vì có tính linh hoạt trong phương
thức thanh toán. Các đồng tiền giao dịch vẫn là các ngoại tệ được sử dụng nhiều trong
giao dịch, mang tính chuyển đổi cao như USD, EUR, GBP, AUD, JPY.
b. Quyền chọn vàng
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân
hàng Sài Gòn thương tín (Sacombank), Ngân hàng Á Châu (ACB) là ba ngân hàng đầu
tiên được NHNN cho phép thực hiện quyền chọn đối với vàng vào tháng 12/2004.
11
Bước đầu, NHNN chỉ mới cho phép thực hiện các giao dịch có quy mô tối thiểu từ 100
lượng vàng trở lên, thời hạn hợp đồng từ 2 tuần đến 12 tuần (3 tháng). Được tung ra
trong bối cảnh giá vàng trong nước và quốc tế liên tục tăng, hợp đồng quyền chọn
vàng được coi là tín hiệu đáng mừng giúp các nhà đầu tư hạn chế rủi ro trong biến
động giá vàng trên thế giới và ở Việt Nam.
Hiện nay, vàng vẫn luôn được các nhà đầu tư xem là tài sản đầu cơ kiếm lời và
bảo tồn vốn. Ở thị trường trong nước, giá vàng biến động theo giá vàng thế giới với
diễn biến phức tạp, khó dự đoán. Nếu cuối năm 2005, giá vàng ở mức 892.000
đồng/chỉ được xem là kỷ lục thì giai đoạn cuối năm 2011, giá vàng liên tục vượt mức
4.500.000 đồng /chỉ (tương ứng với giá vàng thế giới là trên 1760 USD/ounce). Đồng
thời luôn có sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới từ 150.000 –
2.000.000 đồng/lượng. Do đó, rủi ro trong việc kinh doanh vàng trở thành vấn đề đáng
lo ngại đối với các nhà đầu tư. Mặc dù các NHTM đã cung cấp các hợp đồng quyền
chọn vàng để hạn chế rủi ro nhưng dường như chưa được sự quan tâm của đông đảo
công chúng.
Ở Sacombank, trước 2004, doanh số giao dịch vàng tại Sacombank cao nhất lên
đến 200.000 lượng/ngày thì đến cuối 2005, chỉ đạt 100-200 lượng/ngày trong đó số
hợp đồng quyền chọn rất hạn chế bởi người dân muốn thực hiện hợp đồng này phải đạt
giao dịch tối thiểu 800 lượng vàng với mức phí quyền chọn rất cao. Điều này xuất phát
từ nguyên nhân Sacombank phải mua đối ứng lại với ngân hàng nước ngoài với điều
kiện của ngân hàng nước ngoài phải có từ 800 lượng vàng trở lên, mức phí được tính
theo giá vàng thế giới, ở một số thời điểm lên đến 2,5%/doanh số, gần 30%/năm cho

hợp đồng quyền chọn kỳ hạn 1 tháng. Do có ít khách hàng giao dịch, lợi nhuận không
cao, Sacombank đã ngừng cung cấp dịch vụ từ cuối tháng 12/2005.
Tương tự với Eximbank, mặc dù giao dịch quyền chọn được triển khai từ đầu
năm 2006 nhưng cho đến cuối năm 2007 chỉ có 2 hợp đồng quyền chọn mua được ký
kết giữa khách hàng trong nước với ngân hàng trị giá là 200 lượng vàng. Trong khi đó,
nghiệp vụ kỳ hạn lại thu hút đến 65 nghìn lượng vàng với 338 hợp đồng được ký kết
mặc dù nghiệp vụ này được ngân hàng triển khai vào đầu năm 2006.
Tuy nhiên, theo báo cáo đầu 2010 của Trung tâm giao dịch vàng Việt Nam
(VGB), trong bối cảnh khủng hoảng tài chính hiện nay, sự quan tâm của công chúng
đối với quyền chọn vàng đã được cải thiện. Số hợp đồng quyền chọn vàng tăng lên
10.000 hợp đồng (theo số liệu tổng hợp cuối 2009) kèm theo đó giá của các hợp đồng
quyền chọn tăng gần gấp đôi, nhanh hơn mức tăng 12% của số lượng các hợp đồng
quyền chọn vàng. Như vậy, các nhà đầu tư đã có cái nhìn tích cực hơn đối với quyền
chọn vàng, là cơ sở để thị trường vàng Việt Nam phát triển.
12
c. Quyền chọn chứng khoán
Từ khi thị trường chứng khoán ra đời ngày 20/7/2000, các văn bản pháp lý để
tạo lập, vận hành và quản lý thị trường được các cơ quan nhà nước ban hành khá
nhiều. Nhưng nhìn chung những thiếu sót, bất cập còn nhiều, thị trường chứng khoán
Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, đang trên con đường phát triển. Chứng khoán chủ yếu
giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam chủ yếu là cổ phiếu các công ty. Tuy
nhiên, đến nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý chính thức nào quy định, hướng dẫn
hay cho phép thực hiện về quyền chọn cổ phiếu. Tất cả chỉ đang ở giai đoạn dự thảo,
ngoại trừ một số công văn cho phép một số tổ chức thí điểm triển khai nghiệp vụ này
như Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS). Đồng thời, đại bộ phận nhà đầu tư
trên thị trường còn hạn chế về trình độ am hiểu các công cụ quản lý rủi ro trong đó có
quyền chọn cổ phiếu. Do đó, nhu cầu các nhà đầu tư sử dụng quyền chọn chứng khoán
không cao khiến cho doanh thu từ hoạt động này của VCBS rất nhỏ. Tuy nhiên, đầu
tháng 3/2010, Phó chủ tịch UBCK Nhà nước Nguyễn Đoan Hùng cho biết, trong
tương lai gần, UBCK sẽ xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh. Như vậy, chúng

ta có quyền hy vọng rằng trong thời gian tới, hợp đồng quyền chọn trên thị trường
chứng khoán sẽ phát triển.
d. Quyền chọn lãi suất
Ngày 8/7/2004, BIDV là ngân hàng đầu tiên được NHNN cho phép thực hiện
giao dịch quyền chọn lãi suất. Theo đó, các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép
thực hiện đối với những khoản vay và đi vay trung hạn (5 năm) bằng USD hoặc bằng
EUR và chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các
NHTM hoạt động ở Việt Nam được NHNN cho phép và các ngân hàng ở nước ngoài.
Sau BIDV thì hàng loạt các NHTM khác cũng được phép thực hiện nghiệp vụ này.
Đặc biệt ngày 13/8/2007, NHNN có công văn số 8854/NHNN-CSTT cho phép ngân
hàng Tokyo-Mitsubishi UFJ được phép cung cấp sản phẩm quyền chọn lãi suất ngoại
tệ.
Tuy nhiên, hiện nay, kiến thức hiểu biết của các doanh nghiệp về quyền chọn
lãi suất và phòng chống rủi ro lãi suất vẫn còn quá thấp. Phần lớn nguồn vốn tài trợ
cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vay nợ từ bên ngoài, đặc biệt
là tín dụng ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp có các hợp đồng tín dụng trung, dài
hạn có giá trị lớn và lãi suất cố định cũng như các doanh nghiệp tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thị trường rất lớn như
rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Nhưng do việc nhận thức còn hạn chế, rất ít doanh
nghiệp sẵn lòng tham gia vào các nghiệp vụ này dẫn đến khó khăn cho các NHTM
trong việc phát triển các quyền chọn lãi suất.
13
2.1.2. Đánh giá việc thực hiện hợp đồng quyền chọn ở Việt Nam
a. Những kết quả đạt được trong thực hiện hợp đồng quyền chọn ở Việt Nam
Thứ nhất, phát triển quyền chọn VND thể hiện sự tích cực trong điều hành
chính sách tiền tệ của Việt Nam
Hiện nay, việc NHNN cho phép triển khai quyền chọn giữa đồng ngoại tệ, điển
hình là USD và VND là một bước đột phát mới trong việc cung ứng thêm các công cụ
phòng ngừa rủi ro trên thị trường tiền tệ ở nước ta và cho chính bản thân đồng nội tệ.
Mặc dù, thời gian qua, sự biến động tỷ giá giữa USD và VND tương đối ổn định, hợp

đồng quyền chọn trở thành một công cụ phòng chống rủi ro có hiệu quả, không những
nâng cao vị thế của VND, còn thể hiện sự điều hành chính sách tiền tệ ngày càng linh
hoạt, phản ánh theo tín hiệu thị trường của NHNN. Bên cạnh đó, các ngân hàng có
thêm các dịch vụ đa dạng để cung cấp cho khách hàng, khi phải cạnh tranh với các
ngân hàng nước ngoài trong điều kiện hội nhập.
Thứ hai, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển thông qua sự phát triển của
thị trường tài chính.
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng, cùng với sự tham gia tích cực
chủ động vào thị trường tài chính quốc tế, Việt Nam ngày càng phát triển và ứng dụng
hợp đồng quyền chọn như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn vàng, lãi suất…nhằm giúp
các doanh nghiệp trong và ngoài nước có nhiều cơ hội, nhiều lựa chọn kinh doanh, đầu
tư và phòng ngừa rủi ro. Những lợi thế mà thị trường quyền chọn mang lại là làm cho
thị trường tài chính ngày càng có thể thu hút thêm nhiều luồng vốn hơn, đồng thời
giúp nhà đầu tư quản trị được rủi ro, kiếm được lợi nhuận cao hơn. Tất cả những điều
đó giúp nền kinh tế Việt Nam ngày càng khởi sắc, đứng trong top những nước có tốc
độ phát triển kinh tế nhanh nhất khu vực Châu Á. Ngày càng nhiều các nhà đầu tư
nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam, cùng với sự xuất hiện các tập đoàn tài
chính, các công ty đa quốc gia không chỉ giúp cho thị trường tài chính mà cả thị
trường phái sinh còn mới mẻ ở Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển.
Thứ ba, cơ hội để phát triển nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập vào kinh tế thế
giới
Năm 2007, Việt Nam bước vào sân chơi lớn WTO, kèm theo đó là những ký
kết, hiệp ước buộc chúng ta phải thay đổi những chính sách để phù hợp. Với sự chủ
động tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam chịu sự tác
động của các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, EU; bị ảnh hưởng mạnh bởi những
biến số kinh tế có diễn biến phức tạp như tỷ giá, lãi suất. Mặt khác, việc cổ phần hóa
các doanh nghiệp nhà nước diễn ra buộc các doanh nghiệp phải đứng vững bằng chính
nội lực của mình chứ không mong chờ nhiều vào sự trợ giúp của Chính phủ như trước
14
đây. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập, hợp đồng quyền chọn ngày càng thể hiện vai trò

quan trọng là một công cụ quản lý rủi ro hiệu quả.
b. Những khó khăn trong triển khai thực hiện hợp đồng quyền chọn ở Việt
Nam
Trải qua hơn 10 năm thực hiện giao dịch hợp đồng quyền chọn, mặc dù mới thí
điểm thực hiện song đã tồn tại nhiều khó khăn, xuất phát từ nhiều phía.
Thứ nhất, khung pháp lý về hợp đồng quyền chọn ở Việt Nam chưa hoàn thiện
và phần lớn giao dịch quyền chọn là quyền chọn ngoại tệ.
Việt Nam hiện nay chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh về kinh doanh hợp đồng
quyền chọn . Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành cũng chưa có văn bản quy phạm
pháp luật độc lập điều chỉnh về cách thức tổ chức và hoạt động của thị trường giao
dịch hợp đồng quyền chọn và hoạt động cung cấp dịch vụ quyền chọn của các TCTD,
ngoại trừ hai quy chế về kinh doanh hối đoái và kinh doanh vàng của các TCTD do
NHNN ban hành. Ngoài ra, hiện nay, phần lớn giao dịch trong hợp đồng quyền chọn là
quyền chọn ngoại tệ được thực hiện giữa NHTM và các doanh nghiệp có nhu cầu
phòng ngừa rủi ro.
Thứ hai, phần lớn các doanh nghiệp chưa nhận thức được vai trò quan trọng
của quản lý rủi ro và thiếu hiểu biết đối với hợp đồng quyền chọn.
Hạn chế này của các doanh nghiệp khiến cho việc cung cấp dịch vụ của NHTM
gặp nhiều khó khăn, họ phải rất vất vả trong việc giải thích cho doanh nghiệp hiểu, tin
tưởng và chấp nhận đặt bút ký hợp đồng. Theo báo cáo về “Giải pháp phát triển thị
trường phái sinh ở Việt Nam” (2008), có đến 80% doanh nghiệp được khảo sát chưa
hoặc ít tham gia giao dịch các hợp đồng quyền chọn ngoại tệ và vàng. Trong đó, có
21% doanh nghiệp chưa biết, 58% doanh nghiệp ít sử dụng, 21% doanh nghiệp thường
xuyên sử dụng. Khó khăn này xuất phát từ nguyên nhân nguồn nhân lực, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp Việt Nam có trình độ hiểu biết về quản lý rủi ro
và hợp đồng quyền chọn còn rất ít. Nhiều khi nhận thấy được rủi ro phá sản do những
rủi ro tỷ giá hay lãi suất nhưng doanh nghiệp không thể tìm ra đội ngũ nhà quản trị hay
nhân viên có khả năng thực hiện những chương trình quản trị rủi ro bài bản, có chăng
cũng chỉ là những người được đào tạo cơ bản nhưng chưa có kinh nghiệm thực tiễn
trong lĩnh vực này.

Thứ ba, kết cấu trong các hợp đồng quyền chọn được cung cấp bởi NHTM
chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tế của khách hàng.
Một số quy định trong hợp đồng quyền chọn như : quy mô giao dịch tối thiểu,
thời gian giao dịch…không phù hợp với nhiều thành phần kinh tế, từ các doanh nghiệp
15
đến khách hàng cá nhân. Điển hình trong nghiệp vụ quyền chọn vàng, mức giao dịch
tối thiểu đối với thể nhân là 100 lượng và pháp nhân là 1000 lượng vàng là quá cao so
với tiềm lực tài chính của khách hàng. Bên cạnh đó, khách hàng chỉ được bán quyền
mua chứ chưa được bán quyền bán. Do đó, chỉ xét riêng về vàng đã thấy rằng, hợp
đồng quyền chọn chưa đáp ứng được nhu cầu của phần đông khách hàng trong thanh
toán và tiết kiệm, đặc biệt là khách hàng cá nhân vốn có thói quen sử dụng vàng trong
giao dịch nhà đất khá phổ biến từ trước đến nay.
Thứ tư, mức phí quyền chọn ở hầu hết các NHTM rất cao
Mức phí giao dịch quyền chọn mà các NHTM Việt Nam đưa ra cho các doanh
nghiệp còn cao và chưa phù hợp. Cụ thể, hiện nay tại NHTM Vietcombank, mức phí
quyền lựa chọn trong giao dịch tỷ giá loại kỳ hạn 1 tháng tới 1,3%, kỳ hạn 2 tháng là
2,2% và kỳ hạn 3 tháng là 2,8% trong khi đó tỷ giá VND/USD không có nhiều biến
động lớn. Các doanh nghiệp tính toán thấy không có lợi nên không chấp nhận ký kết
hợp đồng này. Đồng thời, các ngân hàng hiện nay đều phải mua lại các hợp đồng
quyền chọn từ phía các đối tác nước ngoài nên về phía ngân hàng để đề phòng rủi ro
cho chính mình đã xác định mức phí cao khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Thứ năm, khả năng marketing yếu kém, hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị
công nghệ còn nhiều hạn chế là khó khăn lớn của NHTM trong triển khai ứng dụng
hợp đồng quyền chọn ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy các ngân hàng Việt Nam còn yếu trong khâu tiếp cận khách
hàng, marketing sản phẩm. Việc ứng dụng các quyền chọn tại các NHTM Việt Nam
mang tính nhỏ lẻ. Một phần do ngân hàng chưa có đội ngũ cán bộ nhân viên có sự am
hiểu sâu rộng về kiến thức tài chính, pháp lý, về thị trường giao dịch, đặc biệt là kỹ
thuật đánh giá và giao dịch các hợp đồng quyền chọn; một phần các ngân hàng trong
nước chưa mạnh dạn, chưa thực sự nhận thức được sức ép cạnh tranh của các ngân

hàng nước ngoài. Trong điều kiện mở cửa hội nhập sâu rộng và sự cạnh tranh lớn, các
NHTM trong nước rất cần phải nỗ lực đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ,
hơn nữa, các công cụ tài chính phái sinh nói chung và hợp đồng quyền chọn nói riêng
là thị trường rất mới mẻ và tiềm năng tại Việt Nam.
Ngoài ra, hiện nay, đối với các NHTM, việc trang bị hệ thống kết nối thông tin
đến khách hàng khá phức tạp, các phần mềm định giá quyền chọn, phân tích thị trường
đều có giá rất cao mà không phải ngân hàng nào cũng dám đầu tư trong hoàn cảnh thị
trường quyền chọn chưa thực sự phát triển. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng của các hợp đồng quyền chọn và khả năng cạnh tranh giữa chính các ngân hàng
với nhau.
16
2.2. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG QUYỀN
CHỌN VIỆT NAM
2.2.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan ban ngành
a. Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng và phát triển thị trường quyền
chọn
Điều kiện đầu tiên để xây dựng và phát triển thị trường quyền chọn là tạo cơ sở
pháp lý cho thị trường. Trong nền kinh tế có sự kết hợp của “bàn tay vô hình” và “bàn
tay hữu hình” thì khung pháp lý chính là công cụ để Nhà nước điều hành thị trường.
Trong tình hình thực tế hiện nay, NHNN và các cơ quan chức năng cần thực hiện một
số giải pháp để hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường quyền chọn
Thứ nhất, về hình thức văn bản. Trong thời gian tới, NHNN sẽ nghiên cứu, soạn
thảo và ban hành Quy chế kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh trong đó có hợp
đồng quyền chọn, làm cơ sở pháp lý cho hoạt động cấp phép, giám sát rủi ro và kiểm
tra, thanh tra của NHNN đối với hoạt động kinh doanh hợp đồng quyền chọn của các
NHTM. Về nguyên tắc và theo kinh nghiệm ở các nước trên thế giới, các NHTM có
thể tham gia thực hiện hợp đồng quyền chọn theo các tư cách: (i) Người cung cấp dịch
vụ ngân hàng liên quan đến hợp đồng quyền chọn hoặc cung cấp dịch vụ môi giới, tư
vấn cho khách hàng mua, bán hợp đồng quyền chọn; (ii) Nhà đầu tư mua, bán các hợp
đồng quyền chọn. Căn cứ vào tính chất của hợp đồng quyền chọn, mức độ rủi ro và tư

cách tham gia thị trường quyền chọn của các NHTM, Nhà nước cần có những văn bản
cần thiết để có hình thức quản lý phù hợp.
Thứ hai, về quy trình, điều kiện cấp phép và giám sát rủi ro. Để đảm bảo yêu
cầu của cải cách hành chính, giảm nhẹ các quy trình, NHNN sẽ không trực tiếp cấp
phép để NHTM cung cấp hợp đồng quyền chọn mà thay vào đó là các điều kiện cần
thiết để NHTM nào đáp ứng được sẽ được phép thực hiện nghiệp vụ này. Công việc
chính của NHNN là thanh tra, giám sát việc thực hiện của các NHTM, đồng thời cũng
cần quy định các chế tài xử phạt thích đáng đối với các sai phạm để duy trì sự minh
bạch trên thị trường quyền chọn.
Thứ ba, Bộ Tài chính cần thay đổi một số quy định về hạch toán kế toán về hợp
đồng quyền chọn ở Việt Nam. Hiện nay, vấn đề hạch toán hợp đồng quyền chọn còn
rất mới mẻ. Về bản chất thì hợp đồng quyền chọn và các công cụ tài chính phái sinh
khác là các công cụ mang tính chất phòng ngừa rủi ro. Trên cơ sở này, Bộ Tài chính
xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản chi phí hợp lý của doanh nghiệp để
được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế.
17
b. Thành lập và vận hành thử nghiệm sàn giao dịch quyền chọn niêm yết tập
trung.
Các cơ quan Nhà nước đặc biệt là Bộ Tài chính và Ủy ban chứng khoán cần
phối hợp cùng các ngân hàng, các công ty chứng khoán để bước đầu tạo lập thị trường
quyền chọn “đúng nghĩa” ở Việt Nam. Đội ngũ cán bộ ở các cơ quan chức năng cần
tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các sàn giao dịch quyền chọn lâu đời như
Chicago Board of Trade (Mỹ) hay những sàn giao dịch mới thành lập trong khu vực
như Trung Quốc, Thái Lan để thành lập một sàn giao dịch quyền chọn tập trung chính
thức. Sàn giao dịch không những tạo tính thanh khoản cho tài sản cơ sở, thúc đẩy thị
trường giao dịch sôi động hơn và tạo điều kiện để chuyên nghiệp hóa, thuận tiện hóa
trong giao dịch. Lúc đó, thị trường quyền chọn sẽ phát triển toàn diện, trở thành một
bộ phận không thể thiếu của thị trường tài chính phái sinh và thị trường tài chính.
c. Công khai hóa và minh bạch hóa thông tin
Mặc dù rất quan trọng và mang ý nghĩa thực tiễn cao, vấn đề thông tin trên thị

trường tài chính Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, mới phát triển sơ khai, mang
tính tự phát, thiếu sự quản lý. Để đảm bảo sự phát triển của thị trường quyền chọn,
Nhà nước và các cơ quan ban ngành chức năng tiếp tục ban hành các quy chế, thông
tư, văn bản…hướng dẫn chi tiết hơn về công bố thông tin ra thị trường tài chính nói
chung và thị trường quyền chọn cũng như các chế tài phù hợp với hành vi vi phạm về
công bố thông tin.
2.2.2. Kiến nghị với các tổ chức tín dụng (Ngân hàng thương mại, công ty
chứng khoán)
a. Chủ động giới thiệu, quảng bá thông tin về hợp đồng quyền chọn đến
đông đảo khách hàng
Các tổ chức tín dụng cần có những chiến lược marketing hiệu quả để đưa hợp
đồng quyền chọn đến với đông đảo công chúng đầu tư, chú ý tới đào tạo nguồn nhân
lực có kiến thức về kinh doanh, tiếp thị và giới thiệu sản phẩm. Ngoài ra, các tổ chức
này cần thành lập bộ phận chuyên phân tích, tư vấn, hỗ trợ khách hàng tìm kiếm thông
tin, cách thức sử dụng hợp đồng quyền chọn cho hai mục tiêu là kinh doanh và hạn chế
rủi ro. Có thể tổ chức các buổi giao lưu tư vấn cũng như để khách hàng thực hành
tham gia vào giao dịch các hợp đồng quyền chọn. Từ đó, phân tích để khách hàng
nhận thức rõ thế mạnh của sản phẩm quyền chọn mà mình cung cấp.
Các tổ chức tài chính tín dụng cũng cần phối hợp với các Bộ, ban ngành về
quảng bá, giới thiệu hợp đồng quyền chọn tới khách hàng, chú trọng tới quảng cáo trên
các website của các NHTM, công ty chứng khoán…
18
b. Không ngừng cải tiến chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ hợp
đồng quyền chọn tới khách hàng
Trước hết, các tổ chức tín dụng cần nhanh chóng chuẩn hóa các phòng ban kinh
doanh liên quan đến quyền chọn. Tức là xây dựng mô hình tổ chức đối với bộ phận
kinh doanh hợp đồng quyền chọn. Chú trọng tăng thẩm quyền trực tiếp kinh doanh và
thẩm quyền quyết định đối với các cán bộ kinh doanh quyền chọn.
Bên cạnh hoạt động môi giới chủ yếu, các tổ chức cũng cần đào tạo đội ngũ
nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ cao để có thể nghiên cứu các chiến lược kinh

doanh cụ thể như đứng ra phát hành các quyền chọn thích ứng tới khách hàng nhằm
thể hiện tính chuyên nghiệp. Song song với nó, sử dụng tốt các phần mềm hỗ trợ để
tiến hành các giao dịch quyền chọn hiệu quả; bám sát diễn biến thị trường để dự báo
xu hướng biến động tỷ giá, lãi suất, giá cả hàng hóa. Vận dụng một cách chính xác
kiến thức chuyên môn, sự hỗ trợ kỹ thuật để tư vấn, hướng dẫn hỗ trợ khách hàng thực
hiện các hợp đồng quyền chọn, củng cố niềm tin của khách hàng vào sản phẩm dịch vụ
mà các tổ chức tài chính tín dụng cung cấp.
c. Điều chỉnh phí quyền chọn hợp lý
Mỗi tổ chức tài chính tín dụng có một thế mạnh riêng của mình, họ phải tự
đứng ra cung cấp và phát hành hợp đồng quyền chọn, tìm hiểu và vận dụng các mô
hình định giá để tính phí quyền chọn một cách phù hợp. Hiện nay, hầu hết các NHTM
ở nước ta chỉ cung cấp các hợp đồng quyền chọn với tư cách là nhà môi giới cho các
ngân hàng ở nước ngoài, sử dụng phí quyền chọn của ngân hàng nước ngoài cộng với
phí dịch vụ để tính phí nên phí quyền chọn đối với khách hàng rất cao. Do đó, việc
điều chỉnh mức phí quyền chọn hợp lý rất quan trọng, không những thu hút sự tham
gia của các nhà đầu tư, còn thúc đẩy thị trường quyền chọn phát triển.
d. Đào tạo nguồn nhân lực quyền chọn có chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp
Các tổ chức tín dụng cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực một cách bài bản
kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, tính
trung thực trong kinh doanh để tạo ra sức mạnh nội tại cho họ trong quá trình phát
triển sản phẩm, tạo niềm tin tưởng cho khách hàng. Điều này sẽ tác động gián tiếp tới
sự phát triển chung của thị trường quyền chọn.
19
KẾT LUẬN
Với sự hội nhập sâu rộng như hiện nay, những ảnh hưởng của nền kinh tế thế
giới đã, đang và sẽ có những tác động rõ rệt đối với các nền kinh tế đang phát triển
như Việt Nam. Nếu như cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Việt Nam ít chịu ảnh
hưởng xấu do mức độ mở cửa nền kinh tế còn hạn chế, thì trong bối cảnh khủng hoảng
tài chính toàn cầu hiện nay, chúng ta đang phải hứng chịu những tác động tiêu cực.

Thực tế cho thấy do thiếu các công cụ quản lý rủi ro hiệu quả, thị trường tài chính Việt
Nam gặp rất nhiều khó khăn trong các tình huống biến động bất lợi. Vì vậy, phát triển
các công cụ tài chính phái sinh trong đó có hợp đồng quyền chọn là nhu cầu cấp thiết
hiện nay đối với thị trường tài chính Việt Nam. Những hành động tích cực từ phía các
cơ quan ban ngành, các tổ chức tài chính tín dụng nhằm đưa các sản phẩm quyền chọn
đến đông đảo khách hàng cũng như sự nâng cao hiểu biết, quan tâm của công chúng
đầu tư là những giải pháp tích cực nhằm giúp cho thị trường quyền chọn phát triển,
góp phần cho sự phát triển chung của cả nền kinh tế Việt Nam.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Ngọc Trang – chủ biên (2006), Quản trị rủi ro tài chính, Nhà xuất bản
Thống kê, Tp. HCM
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Vụ chiến lược phát triển ngân hàng (2007), Kỷ yếu
hội thảo khoa học, Giải pháp phát triển Thị trường phái sinh Việt Nam
3. Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Ngân hàng Tài chính (2010), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Thị trường chứng khoán Việt Nam 10 năm nhìn lại và xu hướng phát triển
đến năm 2020
4. Các trang web:
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
- Bộ Tài chính:
- Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam:
- Ngân hàng TMCP Á Châu:
- Trung tâm giao dịch vàng Việt Nam:
- Thời báo kinh tế Việt Nam:
21

×