Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

một số ý kiến về phát triển đào tạo thương mại điện tử ở việt nam giai đoạn 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.66 KB, 33 trang )

Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Tài Liệu
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ PHÁT TRIỂN
ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
Tác giả:
PGS-TS. Nguyễn Hoàng Long
- 1 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
Mục lục
- 2 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ
PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
PGS-TS. Nguyễn Hoàng Long
Trường Đại học Thương mại
Phát triển thương mại điện tử (TMĐT) là xu hướng tất yếu của thời đại trên
phạm vi toàn cầu. Triển khai ứng dụng TMĐT ở nước ta đã được xác định cụ thể qua kế
hoạch tổng thể của Thủ tướng Chính phủ và các chương trình trọng điểm theo lộ trình
phát triển đến năm 2020. Trong những chương trình này, chương trình đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực cho TMĐT có vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trên thế giới tồn tại nhiều góc độ tiếp cận để soạn thảo và triển khai các chương
trình đào tạo TMĐT. Qua nghiên cứu ở một số nước đạt được kết quả cao trong đào tạo
và ứng dụng TMĐT như Mỹ, Canada, Úc, Singapore, Hồng Kông, … chúng tôi nhận
thấy có 3 góc độ tiếp cận cơ bản là: (1) Đào tạo CNTT – TT TMĐT, (2) Đào tạo quản
trị kinh doanh TMĐT; (3) Đào tạo TMĐT liên ngành. Nhằm mục tiêu đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực cho TMĐT trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá sự vận dụng các góc
độ tiếp cận đào tạo thương mại theo bậc đào tạo, hình thức đào tạo ở Việt Nam thời gian
qua, nhất là các năm 2003 đến 2005, bài viết đưa ra các quan điểm cá nhân về sự cần


thiết, ý nghĩa và xu hướng vận dụng các góc độ tiếp cận này trong soạn thảo và triển
khai các chương trình đào tạo TMĐT giai đoạn 2006-2010. Chúng tôi hy vọng rằng
những nghiên cứu ban đầu của cá nhân sẽ góp phần để hoàn thiện các chương trình đào
tạo theo bậc, hình thức đào tạo để có thể đào tạo đáp ứng về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực cho sự phát triển và hiệu quả triển khai TMĐT ở nước ta.
1. CÁC GÓC ĐỘ TIẾP CẬN ĐÀO TẠO TMĐT TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Đào tạo Công nghệ Thông tin – Truyền thông (CNTT- TT) đảm bảo cho
TMĐT
- 3 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
Tiếp cận trên góc độ đào tạo CNTT- TT đảm bảo cho TMĐT (tiếp cận công
nghệ) là cách tiếp cận nhấn mạnh mục tiêu trước hết là đào tạo các chuyên gia có kiến
thức và kỹ năng cao về CNTT- TT (cả phần cứng và phần mềm) ứng dụng trong
TMĐT. Một khi đã giành sự quan tâm chủ yếu cho việc đào tạo các kiến thức và kỹ
năng công nghệ, thì các kiến thức và kỹ năng thuộc lĩnh vực kinh tế- kinh doanh, lĩnh
vực khoa học xã hội- hành vi sẽ vị giới hạn trng các loại chương trình này.
Các kiến thức và kỹ năng CNTT- TT bao gồm chủ yếu bốn mảng sau:

Các kiến thức và kỹ năng về công nghệ tính toán (Computing technology);

Các kiến thức và kỹ năng về hệ thống thông tin (Information systems);

Các kiến thức và kỹ năng về công nghệ mạng (Network technology);

Các kiến thức và kỹ năng về công nghệ đa phương tiện (Multimedia
technology).
Sự hình thành và tình trạng phổ biến khá rộng rãi của tiếp cận trên góc độ đào
tạo CNTT-TT đảm bảo cho TMĐT xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Khác với những phương thức thương mại khác, TMĐT là một phương thức

thương mại “dựa trên công nghệ” (Technology-based Commerce), trực tiếp
ở đây là dựa trên CNTT-TT. Chính sự phát triển, phổ biến ứng dụng của
CNTT-TT trong các ngành kinh tế dẫn tới sự ra đời của TMĐT. Trong thời
gian đầu, ứng dụng của TMĐT là khá hạn chế. Những năm qua, cùng với sự
phát triển và hoàn thiện của CNTT-TT, khả năng ứng dụng của TMĐT ngày
càng mở rộng (ra đời các kênh kinh doanh mới, mô hình kinh doanh mới,
lĩnh vực kinh doanh mới ).

CNTT-TT là ngành công nghệ cao, do vậy những người khởi xướng, đặt nền
móng và phát triển TMĐT trong thời kỳ đầu thường là các chuyên gia CNTT
có tư duy kinh doanh. Như trên đã nói, TMĐT về bản chất là một lĩnh vực
liên ngành (Interdisciplinary). Trong TMĐT diễn ra sự đan xen các yêu cầu
về kỹ năng và kiến thức công nghệ, kinh tế quản lý, khoa học xã hội và hành
vi. Đứng trên góc độ của mình, các nhà công nghệ cho rằng để vận hành
TMĐT, các chuyên gia TMĐT cần được trang bị nền tảng kiến thức cao về
CNTT-TT.

Các cơ sở đào tạo đầu tiên khởi xướng các chương trình đào tạo TMĐT phần
lớn là các khoa công nghệ tính toán, công nghệ thông tin thuộc các trường
đại học tổng hợp hoặc đại học, học viện kỹ thuật, có truyền thống và nguồn
lực dồi dào về đào tạo CNTT.
- 4 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
1.2. Đào tạo quản trị kinh doanh TMĐT
Cách tiếp cận trên góc độ đào tạo các nhà quản trị kinh doanh TMĐT (cách tiếp
cận quản trị kinh doanh). Đặc trưng cho các chương trình đào tạo TMĐT này được khởi
nguồn từ các trường và các khoa quản trị kinh doanh. Xét trên góc độ lịch sử, phần lớn
các chương trình đào tạo thuộc cách tiếp cận này ra đời sau các chương trình đào tạo
thuộc cách tiếp cận công nghệ.
Tiếp cận quản trị kinh doanh nhấn mạnh trọng tâm trang bị các kỹ năng và kiến

thức thuộc lĩnh vực kinh tế - kinh doanh, lĩnh vực khoa học xã hội - hành vi cho người
học. Chương trình đào tạo được hình thành trên cơ sở chương trình đào tạo quản trị kinh
doanh. So với chương trình quản trị kinh doanh truyền thống, các chương trình quản trị
kinh doanh TMĐT được điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với kinh doanh TMĐT. Cụ thể
trong các chương trình này, một số môn học cơ sở chuyên ngành và chuyên ngành với
số lượng đơn vị học trình thích hợp cần được nhấn mạnh:
STT Chương trình QTKD TMĐT
1 Luật về không gian điều khiển, các vấn đề pháp lý kinh doanh, thương mại, sở
hữu trí tuệ, bí mật riêng tư trong TMĐT
2 TMĐT và kinh tế mạng
3 Môi trường và chiến lược kinh doanh TMĐT
4 Tác nghiệp kinh doanh điện tử
5 Quản trị doanh nghiệp trực tuyến
6 Quản trị chuỗi cung ứng và kinh doanh điện tử
7 Đầu tư trong môi trường CNTT
8 Tài chính và các hệ thống thanh toán điện tử
9 Kế toán cho TMĐT
- 5 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
10 Marketing trên Internet (Internet marketing)
Ngoài việc điều chỉnh, sửa đổi các nội dung mang tính chất tương đồng giữa hai
loại chương trình Quản trị kinh doanh và Quản trị kinh doanh TMĐT, nhiều môn học
mới đặc thù của kinh doanh TMĐT được bổ sung.
Các nhà quản trị kinh doanh TMĐT cần được trang bị các kỹ năng và kiến thức
cần thiết về CNTT-TT. Khác với tiếp cận công nghệ, tiếp cận quản trị kinh doanh không
chủ trương trang bị các kiến thức nền tảng sâu về CNTT-TT, mà chú trọng trang bị các
kiến thức và kỹ năng khai thác, sử dụng các phương tiện (phần cứng và phần mềm) do
các chuyên gia CNTT sáng tạo ra để phục vụ cho TMĐT.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng độ chuyên sâu kiến thức và kỹ năng CNTT-TT cũng
dao động trong biên độ lớn khi so sánh các chương trình đào tạo TMĐT theo tiếp cận

quản trị kinh doanh ở các cơ sở đào tạo khác nhau.
1.3. Đào tạo TMĐT liên ngành (Interdisciplinary)
Xét với một nghĩa nào đó, tiếp cận trên góc độ đào tạo liên ngành (tiếp cận liên
ngành) nằm ở vị trí trung gian giữa hai cách tiếp cận đã đề cập trên. Các chương trình
đào tạo TMĐT theo tiếp cận liên ngành chủ trương đảm bảo sự hài hoà kiến thức và kỹ
năng thuộc cả ba lĩnh vực kinh tế - kinh doanh, khoa học xã hội - hành vi và công nghệ
thông tin - viễn thông. Xét một cách tổng quát, khi so sánh cơ cấu môn học trong các
chương trình đào tạo TMĐT, thì các chương trình theo tiếp cận quản trị kinh doanh và
tiếp cận liên ngành tương đối gần gũi nhau, trong khi các chương trình theo tiếp cận
công nghệ có sự khác biệt khá lớn.
Để xây dựng chương trình đào tạo TMĐT theo tiếp cận liên ngành, các cơ sở
đào tạo thành lập đội (eTeam) liên bộ môn, liên khoa hoặc liên trường (nằm trong thành
phần của cơ sở đào tạo, thường là các trường lớn). Các khoa, bộ môn tham gia và thành
phần của đội (eTeam) thường thuộc các lĩnh vực quản trị kinh doanh, marketing và
CNTT.
- 6 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
2. SỰ VẬN DỤNG CÁC GÓC ĐỘ TIẾP CẬN CỦA THẾ GIỚI VÀ THỰC
TRẠNG ĐÀO TẠO TMĐT Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Nhu cầu thị trường ngày càng tăng dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động
đào tạo CNTT và TMĐT trong năm qua với những hình thức phong phú và sự tham gia
của nhiều tổ chức, nhiều cơ sở đào tạo trong xã hội.
Nhu cầu đào tạo CNTT và TMĐT tăng dẫn đến sự tăng tương ứng của cung.
Một cuộc điều tra theo phương pháp lấy mẫu ở 300 tổ chức cung cấp các dịch vụ đào
tạo trên toàn quốc của Vụ TMĐT cho thấy 72% tổ chức đã có website riêng, 65% tổ
chức có cung cấp dịch vụ đào tạo trong lĩnh vực CNTT hoặc TMĐT. Trong đó, 79% tổ
chức có phòng, ban hoặc khoa riêng về CNTT, TMĐT và 81% tổ chức có phòng máy
tính. Những con số này cho thấy một xu hướng khá rõ tại các cơ sở đào tạo là định
hướng về đào tạo CNTT và TMĐT trong những năm gần đây. Mặc dù việc tiến hành
mở thêm các khoa mới, các ngành học mới liên quan đến rất nhiều yếu tố như cơ sở vật

chất, trang thiết bị, đội ngũ giảng viên, nhưng các tổ chức vẫn mạnh dạn đầu tư cho lĩnh
vực đào tạo mới mẻ này.
Các chương trình đào tạo về CNTT và TMĐT trong thời gian qua không chỉ
tăng về số lượng mà còn cả mặt chất lượng. Chất lượng tài liệu, giáo trình và trình độ
giảng viên cũng đã được nâng lên một bước. Với sự phổ biến ngày càng rộng rãi của
Internet, các tài liệu trong lĩnh vực chủ yếu được thu thập, biên soạn và cập nhật qua
mạng từ các nguồn của nước ngoài. Lượng giảng viên có trình độ được đào tạo chính
thức về CNTT và TMĐT trong và ngoài nước cũng đang tăng lên. Ngoài ra, các hình
thức đào tạo cũng có bước chuyển biến rõ nét. Nhu cầu về đào tạo theo đơn đặt hàng và
đào tạo trực tuyến tăng mạnh. Chẳng hạn, các khoá đào tạo theo đơn đặt hàng chiếm
37% và đào tạo trực tuyến chiếm 9% trong tổng số các khoá đào tạo theo kết quả điều
tra. Chất lượng đào tạo cũng được nâng lên một bước khi một số khoá học được đào tạo
bằng tiếng Anh và có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài.
Qua điều tra của Vụ TMĐT, Bộ Thương mại trên 200 tổ chức có cung cấp dịch
vụ đào tạo CNTT và TMĐT cho thấy các khoá đào tạo về CNTT và TMĐT ở nước ta
chủ yếu được thực hiện dưới những hình thức sau: (1) Đào tạo chính quy dài hạn: 16%;
- 7 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
(2) Đào tạo tập trung ngắn hạn: 33%; (3) Đào tạo theo đặt hàng (tại tổ chức, công ty đối
tác): 37%. (4) Đào tạo trực tuyến: 9%. (5) Các hình thức khác: 5%. Nghiên cứu chi tiết
các chương trình đào tạo này cho thấy sự vận dụng đa dạng những quan điểm đào tạo
trên trong đào tạo ở nước ta.
2.1. Trong đào tạo sau đại học
Điểm đáng ghi nhận đầu tiên trong mô hình đào tạo chính quy là sự góp mặt của
khoá đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh chuyên ngành TMĐT. Chương trình của khoá
học này được xây dựng dựa trên quan điểm thứ nhất: Đào tạo CNTT đảm bảo cho
TMĐT. Cơ sở đào tạo điển hình là trường ĐH Bách Khoa Hà Nội (HUT) đã hợp tác với
trường ĐH North Central (NCU), Hoa Kỳ đào tạo thạc sỹ trong đó có thạc sỹ quản trị
kinh doanh chuyên ngành TMĐT (MBA with specialization in E-Commerce) do NCU
cấp bằng và kiểm định chất lượng. Ở một số trường đại học kinh tế như đại học Kinh tế

quốc dân Hà Nội, đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, đại học Thương mại, đại học Ngoại
thương… một số luận văn cao học, luận án tiến sỹ đã nghiên cứu theo định hướng
chuyên sâu về quản trị TMĐT.
2.2 Trong đào tạo đại học
Cho đến năm 2005, ở tất cả các trường đại học Kinh tế ở nước ta, một số môn
học TMĐT được xác lập trong chương trình đào tạo các chuyên ngành của ngành quản
trị kinh doanh. Hoạt động đào tạo TMĐT trong năm 2005 còn được ghi nhận lớn ở sự
xuất hiện của khoá đào tạo chính quy về TMĐT tại trường đại học Thương mại. Đây có
thể coi là một bước đột phá để tạo nên nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao
trong tương lai cho lĩnh vực ứng dụng TMĐT tại Việt Nam như đánh giá của Vụ TMĐT
- Bộ Thương mại. Các chương trình đào tạo này là sự vận dụng quan điểm thứ hai: Đào
tạo quản trị kinh doanh TMĐT. Có thể minh chứng sự vận dụng hữu hiệu quan điểm
đào tạo quản trị kinh doanh trong đào tạo TMĐT của trường đại học Thương mại qua
mục tiêu đào tạo các cử nhân quản trị kinh doanh có phẩm chất và năng lực cơ bản, đảm
nhiệm cương vị quản trị các chức năng và quá trình kinh doanh ở những doanh nghiệp
có định hướng và dự án kinh doanh TMĐT, hoặc doanh nghiệp TMĐT hàng hoá cũng
- 8 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
như dịch vụ, chương trình đào tạo với tổng số 205 đvht không kể GDTC- 5 đvht và
GDQP- 11 đvht, trong đó kiến thức ngành và chuyên ngành chiếm 66 đvht.
Trường ĐH Ngoại Thương, trường đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh cũng đã
triển khai kế hoạch đào tạo TMĐT với sự ra đời của môn học TMĐT. Môn học TMĐT
được mở ra với ý nghĩa là một môn học độc lập, giảng dạy cho sinh viên chính quy sau
khi đã hoàn thành các môn học chuyên ngành, tạo cơ sở nền móng quan trọng cho sự
phát triển chuyên ngành ở giai đoạn tiếp theo.
2.3. Trong đào tạo cao đẳng
Trường Cán bộ thương mại trung ương thuộc Bộ Thương mại, trường Đại học
bán công Marketing Hồ Chí Minh, trường đại học dân lập Tôn Đức Thắng… là những
trường đầu tiên xây dựng khung đào tạo cao đẳng cho lĩnh vực TMĐT. Mục tiêu đào tạo
của khoá học này là đào tạo sinh viên làm việc chủ yếu ở các loại hình doanh nghiệp

vừa và nhỏ và các doanh nghiệp liên doanh. Chương trình đào tạo cao đẳng TMĐT ở
nước ta được xây dựng trên cơ sở góc độ tiếp cận thứ nhất và thứ hai, trong đó, góc độ
tiếp cận thứ nhất vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Việc các trường đại học kinh tế - thương mại là lực lượng đi tiên phong cung
cấp các hình thức đào tạo chính quy chuyên ngành về TMĐT cho thấy một hướng phát
triển hợp với quy luật của thế giới, theo đó TMĐT là lĩnh vực ứng dụng thuộc phạm trù
kinh tế - thương mại, đòi hỏi những kỹ năng chuyên ngành về thương mại và nhằm mục
đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp.
2.4. Trong đào tạo ngắn hạn
Khác với đào tạo chính quy do các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp thực hiện, đào
tạo TMĐT theo nhu cầu là lĩnh vực có sự tham gia sâu rộng của nhiều thành phần trong
xã hội, từ các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp cho đến các tổ chức, hiệp hội và doanh
nghiệp. Đối tượng của loại hình đào tạo này cũng rất đa dạng, bao gồm cả sinh viên các
chuyên ngành khác muốn bổ sung thêm kiến thức về TMĐT, và cán bộ của các cơ quan
quản lý Nhà nước có nhu cầu nâng cao hiểu biết về lĩnh vực đang phát triển hết sức
- 9 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
nhanh chóng này. Tuy nhiên, đối tượng phục vụ thiết thực nhất của phương thức đào tạo
này là khối doanh nghiệp, lực lượng nòng cốt triển khai ứng dụng TMĐT trong xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực cho ứng dụng
CNTT và TMĐT nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, trong năm 2005
Chính phủ đã phê duyệt Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập
và phát triển giai đoạn 2005-2010, trong đó các chương trình dự án về đào tạo chiếm
một vai trò nổi bật. Đề án này cũng đồng thời đưa ra một mô hình mang tính xã hội hoá
cao cho việc tổ chức triển khai công tác đào tạo CNTT và TMĐT, đó là huy động sức
mạnh của các hiệp hội và bản thân doanh nghiệp. Đơn vị chủ trì thực hiện Đề án là
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, phối hợp với các cơ quan chức năng của
các Bộ, ngành, địa phương. Kinh phí thực hiện Đề án được huy động từ nhiều nguồn
khác nhau, bao gồm đóng góp của doanh nghiệp, hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước và hỗ
trợ của các tổ chức đối tác, trong đó mức hỗ trợ của Nhà nước chiếm từ 30% đến 50%

tuỳ theo nhiệm vụ của từng dự án.
Các cơ sở đào tạo tập trung ngắn hạn là: VCCI, sự phối hợp Vụ TMĐT với các
trường đại học, một số cơ sở đào tạo về quản lý, quản trị kinh doanh và các tổ chức đào
tạo… Các chương trình đào tạo tập trung vào: Công nghệ thông tin và khái quát về
TMĐT. Trong năm 2005 phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã phối hợp với
các đối tác tổ chức 27 khoá đào tạo về những nội dung ứng dụng CNTT trong doanh
nghiệp, trong đó có 5 khoá đào tạo dành cho lãnh đạo doanh nghiệp, 3 khoá đào tạo cán
bộ quản lý CNTT và 19 khoá đào tạo chuyên ngành cho người sử dụng ứng dụng CNTT
tại doanh nghiệp.
2.5. Đào tạo trực tuyến
Với sự phát triển và phổ cập của Internet, đào tạo trực tuyến đang trở thành một
kênh đào tạo không thể thiếu cho nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực CNTT và TMĐT.
Song song với sự lớn mạnh của đào tạo không trực tuyến, hình thức đào tạo trực tuyến
về TMĐT đang có xu hướng phát triển nhanh trong năm 2005. Mặc dù mới chiếm tỷ lệ
9% nhưng loại hình đào tạo này hứa hẹn nhiều tiềm năng cho tương lai. Hình thức đào
tạo trực tuyến đã bắt đầu phát triển tại Việt Nam từ đào tạo chứng chỉ tới đào tạo đại
- 10 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
học và sau đại học. Chẳng hạn, các bài giảng, các bài tiểu luận đã dần dần được tải trên
mạng Internet thông qua website của các trường, các buổi thảo luận, trao đổi sôi nổi trên
một số diễn đàn. Mặc dù kênh đào tạo này chưa phát triển thành một kênh đào tạo chính
thức riêng biệt cho một khoá đào tạo nào về TMĐT trong nước nhưng nó đã hỗ trợ rất
lớn cho hình thức đào tạo truyền thống. Đây cũng được xem như là một phần không thể
thiếu nhằm nâng cao hiệu quả của các khoá đào tạo CNTT hay TMĐT bằng các bài
thực hành trên Internet. Thực tế, khoá đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh chuyên ngành
TMĐT của Trường đại học Bách khoa Hà Nội đã áp dụng rất thành công phương pháp
đào tạo này.
3. MỘT SỐ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO TMĐT Ở VIỆT NAM ĐẾN
2010
Qua thực trạng đào tạo CNTT và TMĐT ở Việt Nam những năm qua cho ta

thấy, hoạt động đào tạo về TMĐT là giai đoạn khởi đầu. Bên cạnh những thành tựu đã
ghi nhận còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Cùng với xu hướng phát triển ứng dụng
TMĐT trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội nước ta, xu hướng phát triển đào tạo TMĐT
nước ta đến 2010 gồm:
3.1. Chính sách đào tạo TMĐT ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 là: Phát triển
nguồn nhân lực một cách đồng bộ và cân đối trên cơ sở huy động sự đóng góp nguồn
lực của toàn xã hội. Trước hết tập trung đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ đẩy mạnh ứng
dụng TMĐT giữa các doanh nghiệp lớn. Nhà nước có chính sách hỗ trợ trong giai đoạn
đầu đối với các chương trình mục tiêu cụ thể; Tiến hành đào tạo chính quy tại các
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thuộc các ngành kinh tế và luật,
đồng thời đào tạo theo chương trình đại cương tại các trường dạy nghề thuộc các
chuyên ngành thương mại, quản trị kinh doanh. Đào tạo cho cán bộ quản lý Nhà nước
làm công tác hoạch định chính sách và thực thi pháp luật về TMĐT ở Trung ương và
các tỉnh, thành phố, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ đào tạo
về TMĐT. Theo dự báo của vụ TMĐT - Bộ Thương mại và của cá nhân có đến 95% các
- 11 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
cơ sở đào tạo có chuyên ngành đào tạo về Thương mại và quản trị kinh doanh có kế
hoạch và sẽ triển khai kế hoạch mở rộng qui mô đào tạo TMĐT trong giai đoạn này.
3.2. Trong đào tạo Sau đại học và đại học: Sự phát triển nhanh về số lượng sinh
viên đại học, luận văn cao học, luận án tiến sỹ, định vị hình ảnh và vị thế của chuyên
ngành quản trị TMĐT trong ngành quản trị kinh doanh ở các trường ĐH Kinh tế quốc
dân Hà Nội, ĐH Kinh tế Tp.HCM, ĐH Thương Mại, ĐH Ngoại Thương… và đào tạo
CNTT TMĐT ở các trường có chuyên ngành CNTT như ĐH Bách Khoa HN, ĐH Bách
Khoa Tp.HCM, ĐH Công nghệ thông tin – ĐH Quốc Gia… là một xu thế phát triển
trong giai đoạn này. Hầu hết các chương trình đào tạo này được xác định trên cơ sở
quan điểm quản trị kinh doanh TMĐT. Có thể minh chứng xu hướng phát triển này qua
kế hoạch của một số trường ĐH giai đoạn đến 2010, ví dụ như kế hoạch phát triển của
khoa TMĐT trường đại học Thương mại:
* Về qui mô đào tạo:

- Đại học:

Chính qui: Mỗi khoá đào tạo 250 đến 350

Tại chức: Chú trọng tại chức bằng hai
- Sau đại học: Tham gia giảng dạy các môn học chuyên ngành và hướng dẫn
luận văn với cao học, luận án tiến sỹ.
* Về giáo trình: Biên soạn hoàn chỉnh các giáo trình các môn học chuyên ngành
và cơ sở trọng yếu, cơ bản là: Môi trường và chiến lược TMĐT, Quản trị B2B và B2C,
Marketing TMĐT, Thiết kế Web, Quản trị hệ thống TMĐT, Bảo mật thông tin trong
TMĐT…
* Về đội ngũ giáo viên:

Số lượng: Đến 2010 từ 25 – 27 giáo viên và chuyên viên.

Nâng cao trình độ giáo viên: thực hiện các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn,
dài hạn tập trung cho đội ngũ giáo viên để đến năm 2010 khoa có 1 giáo sư,
2 phó giáo sư, 5 tiến sỹ, 5 thạc sỹ. Chú trọng các chương trình bồi dưỡng
chuyên sâu chuyên ngành về CNTT TMĐT và TMĐT.
- 12 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
* Về cơ sở vật chất kỹ thuật cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học: tận dụng
triệt để phòng thực hành TMĐT, phòng học đa chức năng, thư viện điện tử. Có kế
hoạch nâng cao kỹ năng thực hành TMĐT cho sinh viên chuyên ngành qua việc tham
quan thực hành Cổng TMĐT, Sàn giao dịch của Vụ TMĐT – Bộ TM, Phòng Công
nghiệp Thương mại Việt Nam, thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp thực tiễn.
3.3. Về đào tạo cao đẳng: Một xu hướng đào tạo cao đẳng tích hợp CNTT và
TMĐT đã bắt đầu xuất hiện trong năm 2005-2006, sẽ phát triển mạnh hơn trong giai
đoạn 2006-2010. Một ví dụ điển hình khẳng định xu hướng phát triển này là chương
trình đào tạo cao đẳng TMĐT của Trường Cán bộ thương mại trung ương đã được thiết

lập. Theo bản kế hoạch, các khoá học sẽ được tiến hành trong 3 năm với 171 đơn vị học
trình trong đó có nhiều môn học thực hành về nghiệp vụ TMĐT.
3.4. Theo Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và phát
triển, chương trình đào tạo nhân lực ứng dụng CNTT mà đặc biệt là TMĐT dự kiến đào
tạo 42 khoá học về TMĐT trong năm 2006, trong đó 5 khoá đào tạo lãnh đạo doanh
nghiệp, 9 khoá đào tạo CIO có nội dung liên quan đến TMĐT và 28 khoá cho người sử
dụng. Các khoá đào tạo ngắn hạn tập trung theo nhu cầu của doanh nghiệp sẽ phát triển
về số lượng và dần hoàn thiện, nâng cao chất lượng.
Ngoài xu hướng phát triển theo chiều rộng ở tất cả các loại hình đào tạo, lĩnh
vực đào tạo về TMĐT trong những năm tới cũng hứa hẹn phát triển theo chiều sâu. Các
khoá học nghiên cứu sâu về TMĐT như là các chiến lược phát triển TMĐT, kỹ năng
trong kinh doanh trên mạng như quảng cáo trực tuyến, thanh toán điện tử, bảo mật
thông tin, chứng thực chữ ký số… sẽ thu hút được nhiều học viên hơn.
3.5. Xu hướng phát triển phối hợp đào tạo trực tuyến về TMĐT với sự tham gia
của các tổ chức, các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ chuyên môn
hóa trong và ngoài nước sẽ phát triển với nhịp điệu lớn.
- 13 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
KẾT LUẬN
Trên thế giới luôn tồn tại những quan điểm khác nhau về đào tạo TMĐT. Nổi
bật lên là ba quan điểm: Đào tạo CNTT-TT cho TMĐT, đào tạo Quản trị kinh doanh
TMĐT và đào tạo TMĐT liên ngành. Ở Việt Nam hai góc độ tiếp cận đầu được triển
khai đồng bộ trên các bậc, hình thức đào tạo với những bước khởi động mạnh sự phát
triển với nhịp điệu cao trong năm 2005, đầu năm 2006 về số lượng (số lượng người học,
số lượng cơ sở đào tạo), phát triển đa dạng về chương trình đào tạo mà chủ yếu nhất vẫn
là các chương trình đào tạo quản trị kinh doanh về TMĐT và CNTT TMĐT.
Hiệu quả vận dụng các quan điểm và sự phát triển của hoạt động TMĐT nước ta
trong giai đoạn 2006-2010 phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các hoạt động đào tạo
và tuyên truyền về TMĐT (hình thức, bậc đào tạo, chương trình và giáo trình, đội ngũ
giáo viên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo…). Chúng tôi hy vọng rằng những

nghiên cứu trên đây sẽ đóng góp thêm một cơ sở để các cơ quan quản lý các cơ sở đào
tạo hoạch định, thực thi hữu hiệu, phù hợp các chương trình đào tạo TMĐT nhằm phát
triển nguồn nhân lực cho TMĐT nói riêng, phát triển TMĐT nói chung ở nước ta giai
đoạn 2006-2010 theo kế hoạch phát triển tổng thể TMĐT đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt năm 2005.
- 14 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ -
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
ThS. Nguyễn Văn Thoan
Trưởng Bộ môn Thương mại điện tử
Trường Đại học Ngoại thương
1. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Trong những năm gần đây, với tốc độ phát triển mãnh mẽ, công nghệ thông tin
và thương mại điện tử đã xâm nhập vào mọi góc cạnh của đời sống xã hội nói chung và
hoạt động kinh tế nói riêng. Internet và Thương mại điện tử đã trở nên quen thuộc với
nhiều tầng lớp dân cư, từ học sinh, sinh viên đến các doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan
quản lý nhà nước. Thương mại điện tử góp phần hoàn thiện thương mại truyền thống
đồng thời hình thành những mô hình kinh doanh mới; giảm chi phí, nâng cao hiệu quả
kinh doanh và làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Với thương mại điện tử, người mua có thể lựa chọn hàng hoá, dịch vụ trên các
thị trường ở mọi nơi trên thế giới. Các tổ chức cá nhân có thể giới thiệu sản phẩm đến
mọi thị trường, đồng thời phối hợp sản xuất và kinh doanh với nhà cung cấp, nhà phân
phối thông qua Internet để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh hình thành những mô
hình kinh doanh mới với năng lực sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh cao hơn. Với sự
đầu tư, khuyến khích của các nước trên thế giới đặc biệt là Mỹ, Canada, EU, APEC,
Australia, Singapore, Nhật cùng với các tổ chức quốc tế như WTO, OECD, UNCTAD,
UNCITRAL, WIPO, ICANN thương mại điện tử ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động thương mại của các quốc gia và thế giới.

Tại Việt Nam từ đầu những năm 2000 đến nay thương mại điện tử thực sự đã
được đầu tư, khuyến khích phát triển từ phía các cơ quan quản lý nhà nước và sự tích
cực tham gia của các doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Kế hoạch tổng
thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 và Dự án quốc gia 191 “Hỗ trợ
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hội nhập và phát triển giai đoạn
2005 – 2010”. Các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại điện tử cũng triển khai
hàng loạt các biện pháp cụ thể nhằm phát triển thương mại điện tử như xây dựng sàn
- 15 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
giao dịch thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B)
www.vnemart.gom; xây dựng cổng thương mại điện tử quốc gia www.ecvn.gov.vn. Các
doanh nghiệp cũng đã tích cực và chủ động tham gia thương mại điện tử với nhiều mô
hình kinh doanh khác nhau như siêu thị trực tuyến như golmart.com.vn,
vdcsieuthi.com.vn; các cửa hàng điện tử trong mọi ngành nghề như thiết bị điện tử, viễn
thông, phần mềm, sản phẩm số hoá, sách, hàng thủ công mỹ nghệ, các dịch vụ như
CNTT và truyền thông, du lịch, thông tin, tư vấn, giáo dục và đào tạo trực tuyến. Hành
lang pháp lý cho thương mại điện tử cũng bắt đầu hình thành với sự bổ sung và sửa đổi
những điều khoản liên quan đến thương mại điện tử trong Luật Thương mại, Bộ luật
Dân sự, Luật Hải quan, Luật sở hữu trí tuệ và xây dựng thêm những luật mới điều chỉnh
về lĩnh vực này như Luật giao dịch điện tử, Luật công nghệ thông tin và bổ sung những
văn bản điều chỉnh cụ thể như Nghị định thương mại điện tử, nghị định về chữ ký điện
tử và dịch vụ chứng thực điện tử, nghị định về dịch vụ tài chính và ngân hàng điện tử.
Tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp Việt
Nam phải làm quen với thương mại điện tử và tận dụng những lợi thế của thương mại
điện tử để theo kịp với tốc độ phát triển của các doanh nghiệp trên thế giới nói riêng và
của kinh tế thế giới nói chung. Tuy nhiên, thương mại điện tử là một lĩnh vực mới,
gồm nhiều mảng kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, công nghệ thông tin và
truyền thông, luật, tài chính, ngân hàng, marketing do đó sự hiểu biết về thương
mại điện tử trên tất cả các khía cạnh trên giữa các doanh nghiệp còn khác nhau, thậm
chí giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp cũng không thống nhất, giữa các

doanh nghiệp ở các nước khác nhau sự khác biệt này càng rõ rệt đặc biệt là chưa có hoạt
động đào tạo các chuyên gia và các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này một cách chính
quy.
Hiện nay, ở nước ta mới chỉ có một số ít cơ sở đào tạo về Thương mại điện tử
như Trường Đại học Bách Khoa với chương trình Thạc sỹ Thương mại điện tử, Trường
Đại học Thương mại với chuyên ngành Thương mại điện tử và các chương trình đào
tạo ngắn hạn về Thương mại điện tử cho doanh nghiệp của Vụ Thương mại điện tử (Bộ
thương mại), Viện tin học doanh nghiệp (VCCI) Trường Đại học Ngoại thương là
một trong những trường đại học đầu tiên ở Việt Nam đào tạo về Thương mại điện tử
nhưng chỉ giới hạn ở một môn học 60 tiết từ năm học 2004-2005. Từ khi thành lập, Bộ
môn Thương mại điện tử của Trường Đại học Ngoại thương đã rất tích cực và đi đầu
trong xây dựng chương trình và đào tạo với hơn 800 sinh viên được đào tạo chính quy
mỗi năm và hàng trăm cán bộ, doanh nghiệp được đào tạo qua các khóa học ngắn hạn
được tổ chức tại Trường hoặc phối hợp với các tổ chức khác như Vụ Thương mại điện
- 16 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
tử (Bộ Thương mại), Viện tin học doanh nghiệp (VCCI), Viện Công nghệ thông tin (Đại
học Quốc gia) trên khắp cả nước.
Thương mại điện tử là một lĩnh vực rộng, cần sự kế thừa các kiến thức kinh tế,
thương mại truyền thống và sự sáng tạo trong áp dụng những kiến thức, kỹ năng mới và
thành tựu của công nghệ thông tin và truyền thông. Bên cạnh việc trang bị những kiến
thức chung về kinh tế, quản trị kinh doanh cho người học, thương mại điện tử bao gồm
thêm các kiến thức chuyên ngành như: chiến lược thương mại điện tử, các mô hình kinh
doanh thương mại điện tử, marketing điện tử, tài chính, ngân hàng điện tử, luật về
thương mại điện tử, giao dịch điện tử, chính phủ điện tử cùng những kiến thức về
công nghệ thông tin hỗ trợ trực tiếp cho thương mại điện tử như lập trình xây dựng các
ứng dụng và website thương mại điện tử, quản trị mạng trong thương mại điện tử, quản
trị hệ thống thông tin trong thương mại điện tử, quản trị dự án thương mại điện tử.
2. NHU CẦU ĐÀO TẠO
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự hội tụ giữa các dịch vụ viễn thông –

truyền thông như điện thoại, fax, internet, e-mail đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động
kinh doanh, thương mại của các tổ chức, cá nhân và sự phát triển kinh tế xã hội của các
nước. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông cũng đẩy nhanh tốc độ tự do
hóa kinh tế, toàn cầu hóa và khu vực hóa, điều này tạo ra nhiều sức ép về nâng cao năng
lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Đồng thời, cách duy nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các nền kinh tế vừa và
nhỏ cũng là đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực và đẩy nhanh tốc độ tham gia các thị
trường chung. Thương mại điện tử là một yêu cầu tiên quyết vì khi hội nhập kinh tế và
tham gia các thị trường chung, doanh nghiệp, cá nhân, cơ quan quản lý nhà nước đều
phải sử dụng hình thức giao dịch đang trở nên phổ biến hiện nay là thương mại điện tử.
Tính đến cuối năm 2005, Việt Nam có khoảng 200.000 doanh nghiệp, theo điều
tra về hiện trạng thương mại điện tử hàng năm của Vụ thương mại điện tử (Bộ thương
mại), hầu hết các doanh nghiệp đều nhận thấy lợi ích và tầm quan trọng của thương mại
điện tử đối với hoạt động kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên đội ngũ cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử hoàn toàn chưa có, chỉ
một số rất ít là các cán bộ kinh doanh, hoặc cán bộ tin học được đào tạo ngắn hạn về
thương mại điện tử. Hơn nữa, do đặc thù của lĩnh vực thương mại điện tử đòi hỏi người
làm phải có cả ba khối kiến thức về: thương mại, công nghệ thông tin và ngoại ngữ nên
đào tạo ngắn hạn không thể đem lại những kiến thức và kỹ năng đầy đủ, cần thiết để tổ
chức hoạt động thương mại hiệu quả nhất tại các doanh nghiệp.
- 17 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
Việt Nam đang cố gắng gia nhập WTO, tuy nhiên khoảng trống lớn về nhân lực
có kiến thức thương mại điện tử sẽ là khó khăn lớn cho các doanh nghiệp khi phải thích
nghi với các phương thức giao dịch thương mại của các nước phát triển. Nếu không
được đầu tư kịp thời về nhân lực, thương mại điện tử vốn là một lợi thế để nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ thành có thế sẽ trở thành một rào cản
nữa cho các doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cao, có khả năng quản lý các hoạt động liên quan đến thương mại điện
tử là một nhu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Làm thương mại trong môi trường

kinh doanh quốc tế đòi hỏi không chỉ am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nắm
vững luật pháp kinh doanh quốc tế mà còn phải biết tận dụng những thành tựu của
công nghệ thông tin và truyền thông và các hoạt động kinh doanh để tăng hiệu quả,
giảm chi phí, nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Với đặc thù của chuyên ngành Thương mại điện tử, việc đào tạo ra một nguồn
nhân lực vừa có kiến thức về kinh doanh quốc tế và chuyên sâu về thương mại điện tử,
giỏi ngoại ngữ, có kỹ năng và kiến thức đầy đủ về công nghệ thông tin, chắc chắn sẽ
đáp ứng được nhu cầu đang rất cấp bách của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc
tế, các cơ quan quản lý, nghiên cứu kinh tế.
3. CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Năm 2005 đánh dấu sự khép lại của giai đoạn hình thành và bước sang giai đoạn
phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam với nhiều sự kiện nổi bật như hình thành
chính sách và pháp luật về thương mại điện tử, sự phát triển hạ tầng công nghệ thông tin
và các dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử, ứng dụng thương mại điện tử trong doanh
nghiệp, khai trương cổng thương mại điện tử quốc gia, đặc biệt là pháp luật chính thức
thừa nhận thương mại điện tử với sự ra đời Luật giao dịch điện tử. Trong bốn điều kiện
cơ bản để thương mại điện tử phát triển gồm: nhận thức, nhân lực, nối mạng và nội
dung. Khi nhận thức về tầm quan trọng và lợi ích của thương mại điện tử đối với các tổ
chức và cá nhân đã rõ ràng, nhân lực trở thành yếu tố quyết định để đẩy mạnh phát triển
thương mại điện tử. Các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, tác động dần
dần đến thói quen giao dịch thương mại của tổ chức và cá nhân được triển khai đồng bộ
qua các phương tiện thông tin đại chúng như TV, báo, đài, báo điện tử, các cuộc thi.
Chính sách định hướng và nhu cầu thị trường là hai yếu tố quan trọng tác động đến hoạt
động tuyên truyền nói chung và đào tạo thương mại điện tử nói riêng.
3.1. Các hình thức đào tạo Thương mại điện tử
- 18 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
Theo Báo cáo Hiện trạng thương mại điện tử Việt Nam 2005, tại Việt Nam hiện
có những hình thức đào tạo thương mại điện tử sau.
- Đào tạo chính quy dài hạn 16 %

- Đào tạo tập trung ngắn hạn 33 %
- Đạo tạo theo đơn đặt hàng 37 %
- Đào tạo trực tuyến 9 %
- Các hình thức khác 5 %
Theo số liệu điều tra trên, tỷ lệ doanh nghiệp trả lời có nhân viên tham gia đào
tạo thương mại điện tử chính quy ít hơn so với đào tạo tập trung ngắn hạn và đào tạo
theo đơn đặt hàng, nguyên nhân một phần là do các chương trình đào tạo chính quy về
thương mại điện tử mới chỉ bắt đầu khởi động từ năm 2003-2004 đến thời điểm điều tra
(2005) số lượng sinh viên được đào tạo chính quy ra trường còn ít.
3.2. Các chương trình đào tạo thương mại điện tử
Có ba điểm sáng trong đào tạo thương mại điện tử tại khu vực miền bắc là:
Trường Đại học Bách khoa, Trường Đại học Thương mại và Trường Đại học Ngoại
thương.
Chương trình đào tạo sau đại học
Chương trình thạc sỹ quản trị kinh doanh chuyên ngành thương mại điện tử của
trường Đại học Bách khoa Hà Nội phối hợp với trường đại học North Central (NCU),
Hoa Kỳ gồm 36 tín chỉ, trong đó 18 tín chỉ (6 môn học) về chuyên ngành thương mại
điện tử:
1. Introduction to E-commerce
2. Managerial E-commerce
3. Electronic - Payment Systems
4. Integrated Supply Chain Management
5. E-Commerce for Entropreneurs
6. Master Graduate Project in E-Commerce
Các môn học đều do giảng viên Hoa Kỳ giảng dạy và đánh giá theo chương
trình của NCU, học viên sử dụng sách giáo khoa của nước ngoài và được cấp tên truy
- 19 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
cập và mật khẩu để sử dụng thư viện điện tử của trường NCU. Chương trình này đến
năm 2005 đào tạo được 24 học viên.

Chương trình đào tạo đại học
Khoa đào tạo chuyên ngành thương mại điện tử đầu tiên tại Việt Nam
Khoa Thương mại điện tử trường đại học Thương mại được thành lập theo
Quyết định 532 ngày 15/8/2005 của Hiệu trưởng trường đại học Thương mại là khoa
chuyên ngành với chức năng nhiệm vụ đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa
học ngành quản trị kinh doanh, chuyên ngành thương mại điện tử. Khoa chính thức
tuyển sinh từ năm học 2005 – 2006. Chương trình đào tạo được thiết kế tương đối toàn
diện bao gồm những môn học như: Môi trường và Chiến lược thương mại điện tử,
Marketing thương mại điện tử, Quản trị tác nghiệp thương mại điện tử B2B & B2C,
Phân tích và thiết kế hệ thống thương mại điện tử, Thương mại điện tử với doanh
nghiệp vừa và nhỏ và thực hành thương mại điện tử. Khóa tuyển sinh đầu tiên của
Khoa năm 2005-2006 có 252 sinh viên hệ đại học dài hạn chính quy.
Bộ môn đầu tiên về Thương mại điện tử
Trường Đại học Ngoại thương khởi động cho hoạt động đào tạo thương mại điện
tử ở bậc đại học với sự ra đời môn học Thương mại điện tử theo Quyết định ngày
1/4/2004 của Hiệu trưởng nhà trường. Môn học Thương mại điện tử được thành lập với
ý nghĩa là một môn học độc lập, giảng dạy cho sinh viên chính quy các chuyên ngành
Kinh tế đối ngoại và Quản trị kinh doanh. Với mục đích trang bị những kiến thức và kỹ
năng cho sinh viên Ngoại thương sau khi ra trường có thể tổ chức và tiến hành các hoạt
động kinh doanh qua mạng Internet và các phương tiện điện tử. Phương pháp giảng dạy
chú trọng đến cả lý thuyết và thực hành. Phần thực hành hướng tới mục tiêu trang bị các
kỹ năng để người học hiểu và ứng dụng các mô hinh kinh doanh trực tuyến phổ biến
hienẹ nay, thao tác các nghiệp vụ thương mại điện tử trên máy tính. Phần thực hành
nâng cao nhằm đạo tạo và phát triển những kỹ năng về công nghệ thông tin cần thiết để
người học vận dụng sáng tạo và xây dựng các mô hình kinh doanh điện tử. Đến nay,
môn học đã được giảng dạy cho sinh viên của Khoa Kinh tế Ngoại thương, chuyên
ngành Kinh tế đối ngoại, các khóa 40, 41 với tổng số khoảng 1.500 sinh viên.
3.3. Giáo trình cho đào tạo thương mại điện tử
- 20 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006

Nguồn tài liệu cho các chương trình giảng dạy về thương mại điện tử Việt Nam
chủ yếu từ nước ngoài và thông qua mạng Internet, cụ thể gồm:

Các chương trình đào tạo về thương mại điện tử ở bậc đại học, sau đại học
(chuyên ngành hoặc một số môn về thương mại điện tử) của các trường đại
học nước ngoài do các giảng viên, chuyên viên tham gia đào tạo mang về
nước sau khi tốt nghiệp

Các chương trình đào tạo về thương mại điện tử của các trường đại học nước
ngoài cung cấp công khai trên mạng Internet

Sách về thương mại điện tử của nước ngoài về Việt Nam theo nhiều nguồn
khác nhau

Sách về thương mại điện tử do các tác giả Việt Nam viết

Tài liệu đào tạo về Thương mại điện tử của chuyên gia nước ngoài

Tài liệu đào tạo về Thương mại điện tử do các chuyên gia trong nước biên
soạn
Về mặt nội dung, các giáo trình hiện nay chủ yếu cung cấp kiến thức cơ bản về
thương mại điện tử, các giáo trình chuyên sâu đến kỹ năng ứng dụng, an toàn, bảo mật,
thanh toán điện tử hay chiến lược thương mại điện tử chưa có nhiều.
Tại trường Đại học Ngoại thương, môn học Thương mại điện tử hiện nay sử
dụng giáo trình riêng do các giáo viên Bộ môn biên soạn, đồng thời sử dụng những
chuyên đề do các chuyên gia của Vụ thương mại điện tử (Bộ thương mại), Phòng
thương mại điện tử (Viện tin học doanh nghiệp, VCCI), và một số chuyên gia các doanh
nghiệp về thương mại điện tử làm tài liệu tham khảo cho sinh viên.
Ban đầu, khi xây dựng giáo trình năm 2003, giáo trình được biên soạn dựa trên
chương trình Thương mại điện tử (2003) của trường đại học tổng hợp New South Wales

(UNSW, Sydney, Úc). Trong giai đoạn dạy thử nghiệm ba năm từ 2003 đến 2005, giáo
trình liên tục được sửa đổi, bổ sung những nội dung từ cơ bản đến nâng cao, cả về nội
dung thương mại lẫn nội dung về công nghệ thông tin để phù hợp hơn với khả năng và
nhu cầu của sinh viên.
Khi biên soạn giáo trình, Bộ môn sử dụng những sách về thương mại điện tử
phổ biến và mới nhất thông qua tham khảo chương trình đào tạo của trường UNSW,
Latrobe và Queensland (Úc), đặc biệt Bộ môn sử dụng các sách thương mại điện tử mới
và điển hình nhất trên Amazon.com, trong đó phải kể đến hai đầu sách được tái bản liên
tục qua các năm là:
- 21 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006

Electronic commerce: A managerial perspective, tác giả Efraim Turban, tái
bản lần thứ 4, năm 2006, nhà xuất bản Prentice Hall

Electronic commerce, tác giả Gary Schneider, tái bản lần thứ 6, năm 2006,
nhà xuất bản Thomson
Khó khăn lớn nhất mà các giảng viên gặp phải khi biên soạn giáo trình thương
mại điện tử là các ví dụ điển hình về các mô hình kinh doanh thương mại điện tử tại
Việt Nam, bài học thành công và thất bại Trong quá trình này, nhờ sự giúp đỡ của
lãnh đạo Vụ Thương mại điện tử (Bộ thương mại) và các chuyên viên, Bộ môn đã có
những thông tin rất chi tiết, cập nhật và hữu ích để đưa vào giáo trình.
Khó khăn thứ hai khi biên soạn giáo trình là nội dung thực hành, để thực hành
các nội quan trọng của thương mại điện tử như giao dịch thương mại điện tử, khai thác
thông tin thị trường, quản trị website thương mại điện tử, bên cạnh yêu cầu về cơ sở vật
chất như phòng máy, đường truyền Internet, khó khăn về mặt giáo trình thể hiện ở khâu
xây dựng những phần mềm ứng dụng thương mại điện tử để sử dụng trong các bài tập
thực hành. Với sự nỗ lực của các giáo viên Bộ môn và sự giúp đỡ của nhiều chuyên gia
lập trình, Bộ môn đã từng bước xây dựng và nghiên cứu được một số giải pháp thương
mại điện tử để cài đặt trên máy chủ của trường cho sinh viên sử dụng trong các bài thực

hành.
4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
4.1. Về phía lãnh đạo Vụ đại học và Sau đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo

Tạo điều kiện và khuyến khích các trường có điều kiện mở chuyên ngành
đào tạo về Thương mại điện tử

Hỗ trợ các trường trong việc xây dựng khung chương trình chuyên ngành
Thương mại điện tử thống nhất, xây dựng đề cương chi tiết các môn học
chuyên sâu về TMĐT

Cho phép các trường đào tạo Thương mại điện tử theo hình thức tín chỉ, vì
đây là chuyên ngành có sự giao thoa rộng với các chuyên ngành khác như
quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, hệ thống thông tin quản trị
4.2. Về phía lãnh đạo Vụ Thương mại điện tử, Bộ Thương mại
- 22 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006

Tăng cường hợp tác và hỗ trợ các trường để xây dựng các giáo trình chuyên
sâu về thương mại điện tử, đặc biệt là các kiến thức thực tiễn và chính sách,
pháp luật về thương mại điện tử

Phối hợp với các trường triển khai các dự án đào tạo về thương mại điện tử
4.3. Về phía lãnh đạo các Trường đại học

Thành lập chuyên ngành đào tạo chuyên sâu về thương mại điện tử nhằm
đáp ứng nhu cầu xã hội

Tạo điều kiện đào tạo đội ngũ giảng viên, giỏi cả về thương mại và công
nghệ thông tin


Tạo điều kiện và khuyến khích xây dựng giáo trình cho các môn học chuyên
sâu về thương mại điện tử

Tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất đặc biệt là phòng lab, đường truyền
Internet, các giải pháp phần mềm thương mại điện tử để đào tạo các kỹ năng
thực hành
4.4. Về phía các giảng viên

Chủ động nâng cao trình độ về cả kiến thức thương mại và công nghệ thông
tin để có khả năng giảng dạy các môn học chuyên sâu về thương mại điện tử

Chủ động nghiên cứu các chương trình đào tạo về thương mại điện tử trên
thế giới để xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo hiện nay
Với những thành công ban đầu và một số thuận lợi, khó khăn trong đào tạo
thương mại điện tử đã phân tích ở trên, nhằm đảm bảo tính liên tục và kế thừa, hy vọng
lãnh đạo Vụ Đại học và Sau đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), lãnh đạo Vụ thưong mại
điện tử (Bộ thương mại) và lãnh đạo các Trường đại học tiếp tục có chính sách khuyến
khích, hỗ trợ và đẩy mạnh đào tạo về thương mại điện tử ở cả chiều rộng và chiều sâu
thông qua việc thành lập các Khoa, các chuyên ngành đào tạo về Thương mại điện tử
linh hoạt và liên thông với các chuyên ngành khác, phát triển đội ngũ giảng viên, đầu tư
vào cơ sở vật chất và đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao năng lực đào tạo
cũng như chất lượng đào tạo đội ngũ nhân lực về thương mại điện tử ngang bằng với
các nước trong khu vực và quốc tế.
Đối với Trường Đại học Ngoại thương, việc triển khai mở chuyên ngành
Thương mại điện tử, thuộc ngành Quản trị Kinh doanh sẽ góp phần đa dạng hóa các
chuyên ngành của Trường Đại học Ngoại thương, phù hợp với xu hướng và nhu cầu đào
- 23 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
tạo hiện nay của xã hội là đào tạo đa ngành và chuyên sâu hóa các ngành đào tạo, linh

hoạt trong chương trình, tạo điều kiện cho sinh viên lựa chọn các chuyên ngành phù hợp
và yêu thích. Trường Đại học Ngoại thương sẽ thực hiện được nhiệm vụ cao cả của
mình là đào tạo cho đất nước đội ngũ nhân lực có đầy đủ kiến thức, kỹ năng và khả
năng tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương
mại điện tử.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo Hiện trạng Thương mại điện tử Việt Nam các năm 2003, 2004, 2005
2. Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010
3. Dự thảo Chương trình Chuyên ngành Thương mại điện tử của Trường Đại học Ngoại
thương
- 24 -
Hội thảo "Đào tạo thương mại điện tử trong các trường đại học, cao đẳng", Hà Nội, 29/8/2006
PHỤ LỤC 1
Dự thảo
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN HỆ CHÍNH QUY
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH -
CHUYÊN NGÀNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Tên học phần ĐVHT Ghi chú
I. Kiến thức đại cương 56
1. Triết học Mác-Lênin
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin
3. Chủ nghĩa xã hội khoa học
4. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh
6. Toán cao cấp
7. Lý thuyết xác xuất và thống kê toán
8. Pháp luật đại cương
9. Tin học đại cương
10. Ngôn ngữ cơ sở I
11. Ngôn ngữ cơ sở II

12. Ngôn ngữ cơ sở III
6
8
4
4
3
6
4
3
6
4
4
4
II. Kiến thức chuyên nghiệp 109
a. Kiến thức cơ sở khối ngành
13. Kinh tế vi mô I
14. Kinh tế vĩ mô I
8
4
4
b. Kiến thức cơ sở ngành
15. Marketing căn bản
16. Nguyên lý kế toán
17. Kinh tế lượng
18. Nguyên lý thống kê
19. Phân tích hoạt động kinh doanh
20. Ngôn ngữ kinh tế thương mại 1
21. Ngôn ngữ kinh tế thương mại 2
27
4

4
4
4
3
4
4
- 25 -

×