Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Phân tích bộ nhiễm sắc thể (karyotype) ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.04 KB, 19 trang )


0
Phân tích bộ nhiễm sắc thể (karyotype) ở
những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh
con bị dị tật bẩm sinh


Đặng Thị Nhâm
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Chuyên ngành:Sinh học thực nghiệm; Mã số: 60 42 30
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Rực
Năm bảo vệ: 2011

Abstract. Trình bày tổng quan về Bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai
liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh: Lược sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể người;
Tiêu chuẩn và qui định quốc tế về đặc điểm bộ nhiễm sắc thể người; Tình hình
nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh trên thế giới; Tình hình nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở
những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh ở Việt Nam.
Trình bày các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu: Lập hồ sơ bệnh án di
truyền; Phương pháp nuôi cấy tế bào bạch cầu lympho máu ngoại vi để thu hoạch
cụm kỳ giữa, phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotype; Xử lý số liệu. Trình bày kết
quả và thảo luận: Tuổi của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật
bẩm sinh; Nghề nghiệp của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật
bẩm sinh; Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh; Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể giữa người vợ và
người chồng ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh;
Các biểu hiện về rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh; Các kiểu chuyển đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh; Sự phân bố các kiểu rối loạn
về số lượng nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật


bẩm sinh.
Keywords. Sinh học thực nghiệm; Di truyền học; Nhiễm sắc thể; Dị tật bẩm sinh;
Sảy thai

1
Content:
1. Lý do chọn đề tài
Ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh có thể do nhiều nguyên nhân như nhiễm trùng, hocmon, các bệnh mãn tính, bất
thường tử cung, bất thường NST… Đặc biệt đối với thai sảy sớm (dưới 3 tháng
trong thời kỳ mang thai) thì phôi thai mang bất thường NST đóng vai trò chủ yếu.
Trường hợp này nguyên nhân có thể do bố hoặc mẹ mang rối loạn NST cân bằng
dẫn đến không phân ly NST ở các cặp NST nào đó tạo nên những giao tử bất
thường và nguy cơ mang thai bất thường cao có thể chết trong thời kỳ bào thai hoặc
sinh ra những đứa trẻ dị tật bẩm sinh.
Ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh ra con bị dị tật bẩm sinh sẽ
tạo gánh nặng về tâm lý và kinh tế cho bệnh nhân, gia đình bệnh nhân và xã hội.
Xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ chồng này nhằm tìm ra nguyên nhân
gây sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh đồng thời đưa ra lời khuyên di
truyền góp phần chăm sóc sức khỏe sinh sản ở cộng đồng và xã hội.
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu NST và những báo
cáo về những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh mang rối loạn NST cân bằng như chuyển đoạn, lặp đoạn, đảo đoạn…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều phòng xét nghiệm di
truyền tế bào như Viện nhi Trung ương, Viện Sản Trung ương, phòng Di truyền tế
bào bệnh viện Từ Dũ, bộ môn Y Sinh học – Di truyền trường Đại học Y Hà Nội làm
xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh góp phần trong chẩn đoán và đưa ra những lời khuyên di
truyền.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Phân tích bộ nhiễm sắc thể (karyotype) ở

những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh”



2
2. Mục tiêu của đề tài
Phát hiện các trường hợp rối loạn NST ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 10 năm 2009 đến tháng 10 năm 2011, tổng số 350 cặp vợ chồng
(700 trường hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh từ các
bệnh viện Phụ sản Trung Ương, bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Khoa sản bệnh viện
Bạch Mai…. đã gửi đến bộ môn Y sinh học – Di truyền , trường Đại học Y Hà Nội
yêu cầu xét nghiệm NST
4. Tính cấp thiết của đề tài
Sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh là một vấn đề không ít các cặp
vợ chồng gặp phải và để lại tâm lý nặng nề, bất hành cho gia đình và xã hội.
Nhiều nghiên cứu đã đưa ra tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng
có hoàn cảnh nói trên.
Việc tìm ra căn nguyên của sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh sẽ
giúp cho các bác sỹ di truyền, bác sỹ sản khoa tư vấn di truyền và có những biện
pháp giảm thiểu tỷ lệ sinh con dị tật
Vì vậy tiến hành đề tài nghiên cứu với mục tiêu là phát hiện các trường hợp
rối loạn nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị
tật bẩm sinh là cần thiết.
5. Bố cục luận văn
Luận văn dày 66 trang kể cả phụ lục, 75 tài liệu tham khảo. Trong đó có 10
bảng, 12 hình
Đặt vấn đề 1,5 trang, tổng quan tài liệu 20 trang. Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu 5 trang. Kết quả và bàn luận 31 trang. Kết luận 1 trang. Tài liệu tham

khảo 8 trang.

3
6. Nội dụng
Lược sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể người
Công trình của Tjio, J.H và Levan (1956) kết hợp xử lý nhược trương và
colchicine đã công bố nghiên cứu xác định lại bộ NST 2n của người là 46 NST chứ
không phải là 48 NST và công trình này đã được Ford và Hamerton khẳng định.
Từ năm 1968 đến năm 1970, là sự ra đời của các kỹ thuật nhuộm băng cho
phép các nhà di truyền học đánh giá chính xác tới từng chiếc NST trong bộ NST và
phát hiện rối loạn cấu trúc NST. Từ sau 1970 trở đi, lần lượt với các kỹ thuật nhuộm
băng Q, băng G, băng R, băng C, băng T, N và nhuộm băng có độ phân giải cao
NST, dùng BrdU (Bromodeoxyuridin) gắn vào ADN trên NST và nhuộm phân biệt
chromatit chị em đã mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tế bào di truyền học
người ứng dụng các kỹ thuật băng để phát hiện các bất thường tinh tế đặc trưng trên
từng NST ứng với các bệnh, tật, các hội chứng trong lâm sàng.
Từ năm 1980 đặc biệt là sau năm 1985 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, vượt
bậc của di truyền tế bào lâm sàng và di truyền phân tử ứng dụng trong nghiên cứu
bộ gen loài người. Trong di truyền tế bào lâm sàng thì việc nghiên cứu NST chủ yếu
vẫn áp dụng các phương pháp nhuộm băng NST.
Tiêu chuẩn để xếp loại nhiễm sắc thể trong lập karyotype.
Lúc đầu người ta chỉ căn cứ vào chiều dài của NST để căn cứ và đặt tên cho
chúng từ 1 đến 23 theo thứ tự từ dài đến ngắn (công ước Denver 1960), nhưng ngay
sau đó cũng năm 1960 Patau không đồng ý và đề xuất thêm tiêu chuẩn vị trí phần
tâm, sau này được quốc tế chính thức chấp nhận.
Phân loại nhiễm sắc thể
Ở người bộ NST 2n = 46 trong đó có 22 cặp NST thường (autochromosome)
và 1 cặp NST giới tính (sex chromosome). Dựa vào đặc điểm hình thái như độ dài,
vị trí tâm động người ta sắp xếp các NST thành từng nhóm. 46 NST người được
chia thành 7 nhóm, kí hiệu là A, B, C, D, E, F và G trên nguyên tắc dài trước ngắn

sau, nếu các NST bằng nhau thì tâm giữa đặt trước, tâm lệch đặt sau.

4
 Nhóm A có 3 cặp NST có kích thước lớn nhất, gọi tên từ số 1 đến 3, cặp số 1
tâm giữa, cặp số 2 tâm lệch, cặp số 3 tâm giữa.
 Nhóm B có 2 cặp NST số 4 và 5. Các NST này có kích thước lớn và đều có
tâm lệch.
 Nhóm C có 7 cặp từ số 6 đến 12 có chiều dài trung bình. NST X cũng được
xếp vào nhóm này. Tất cả đều tâm gần giữa và khó phân biệt.
 Nhóm D có 3 cặp từ số 13 đến 15 gồm các NST có nhánh ngắn rất ngắn, gần
như không đáng kể gọi là các NST tâm đầu (acrocentric). Tất cả 3 cặp NST
này đều có vệ tinh ở nhánh ngắn.
 Nhóm E có 3 cặp 16, 17,18 tương đối ngắn. NST số 16 tâm giữa, 17 và 18
tâm lệch.
 Nhóm F có 2 cặp NST 19 và 20, ngắn và có tâm giữa.
 Nhóm G có 2 cặp 21 và 22, kích thước ngắn và tâm đầu, có vệ tinh. NST Y
cũng được xếp vào nhóm này nhưng không có vệ tinh.
Các rối loạn về bộ nhiễm sắc thể người
Rối loạn số lượng
* Đa bội thể: là hiện tượng tăng chẵn hoặc tăng lẻ cả bộ NST. Ví dụ: ở người 3n =
69 NST = thể tam bội (3n) thuộc dạng thể đa bội lẻ, 4n = 96 NST = thể tứ bội (4n)
thuộc dạng thể đa bội chẵn.
Ở người, các trường hợp đa bội phần lớn phôi thai chết ở giai đoạn trước
sinh, một vài trường hợp sống đến khi sinh hoặc sau sinh nhưng hầu hết là các sơ
sinh bị dị tật.
* Lệch bội: là hiện tượng số lượng NST của tế bào tăng lên hoặc giảm đi một hoặc
vài NST so với bộ NST lưỡng bội.
Rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể
* Mất đoạn (deletion): là hiện tượng NST bị đứt rời ra một hoặc nhiều đoạn, đoạn
bị đứt rời ra không có tâm sẽ tiêu biến đi hoặc gắn sang NST khác, phần còn lại


5
mang tâm trở lên ngắn hơn bình thường. Mất đoạn gồm các dạng: mất đoạn cuối
đơn, mất đoạn cuối kép, mất đoạn giữa.
* Chuyển đoạn (Translocation) Chuyển đoạn là hiện tượng trao đổi các đoạn của
NST. Chuyển đoạn NST đã được xác định là hay gặp nhất trong rối loạn cấu trúc
của NST [63]. Có hai kiểu chuyển đoạn là chuyển đoạn tương hỗ (reciprocal
translocation) và chuyển đoạn hòa hợp tâm (Robertsonian translocation).
* Lặp đoạn (duplication) là hiện tượng một đoạn nào đó của NST được nhân đôi
lên. Lặp đoạn xảy ra khi 2 NST tương đồng ghép đôi với nhau không tương xứng
trong kỳ đầu của phân bào giảm phân, có sự đứt của 2 NST và trao đổi đoạn giữa 2
đoạn khác nhau của 2 NST trong cặp tương đồng. Trong trường hợp này có 2 NST
bị thay đổi cấu trúc, nhưng không mất đi hoặc tăng thêm vật liệu di truyền trong tế
bào. Khi các NST trong cặp tương đồng này phân ly nhau trong giảm phân sẽ tạo ra
hợp tử mang NST lặp đoạn (trisomi từng phần) hoặc NST thiếu một đoạn có liên
quan (monosomi từng phần)…
* Đảo đoạn (invertion) là sự bất thường cấu trúc do NST bị đứt ở hai điểm, đoạn
giữa hai điểm đứt quay ngược 180
0
rồi nối lại, do đó một số gen bị đảo ngược thứ
tự so với đoạn ban đầu. Có ba kiểu đảo đoạn: đảo đoạn ngoài tâm, đảo đoạn quanh
tâm đối xứng, đảo đoạn quanh tâm không đối xứng.
- Đảo đoạn ngoài tâm: hai chỗ đứt ở cùng một nhánh của NST và đoạn đảo
không chứa tâm, NST không thay đổi hình thái.
- Đảo đoạn quanh tâm đối xứng: hai chỗ đứt ở hai nhánh và cách đều tâm,
NST không thay đổi hình thái.
- Đảo đoạn quanh tâm không đối xứng: hai chỗ đứt ở hai nhánh, khoảng cách
tâm không đều nhau, NST có cấu trúc lại và thay đổi hình thái.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp ít nhất từ hai lần trở lên

hoặc sảy thai và sinh con bị dị tật bẩm sinh

6
Tiêu chuẩn loại trừ
Những cặp vợ chồng có tiền sử mắc các bệnh mãn tính (viêm gan siêu vi
trùng, bệnh đái đường…) hoặc có tiếp xúc với các loại hóa chất độc, thuốc bảo vệ
thực vật, nghiện rượu hoặc thuốc lá… hoặc những cặp vợ chồng đang mang thai
nhưng bị tai nạn lao động hoặc giao thông v v.…
Phương pháp nghiên cứu.
- Lập hồ sơ bệnh án di truyền
- Nuôi cấy tế bào bạch cầu lympho máu ngoại vi theo phương pháp của
Hungerford D.A. (1965) [39].
- Phương pháp nhuộm băng theo Seabright M (1971) [65].
- Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotype: theo tiêu chuẩn
ISCN (2005) [67].
- Xử lý số liệu : bằng chương trình Microsoft Excel 2007.
Kết quả
Trong thời gian từ tháng 10 năm 2009 đến tháng 10 năm 2011, tổng số 350
cặp vợ chồng (700 trường hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh được thăm khám lâm sàng tại bệnh viện Phụ sản Trung Ương, bệnh viện Phụ
sản Hà Nội, Khoa sản bệnh viện Bạch Mai…đã gửi đến bộ môn Y sinh học – Di
truyền, trường Đại học Y Hà Nội yêu cầu xét nghiệm NST, phân tích và lập
karyotype, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Tuổi của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
Tổng số 350 cặp vợ chồng (700 trường hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh. Trong đó:
- Tuổi của người vợ thấp nhất là 19 tuổi, cao nhất là 40 tuổi, trung bình 28,94  4,3
- Tuổi của người chồng thấp nhất là 23 tuổi, cao nhất là 50 tuổi, trung bình 33  6.

7

Nhìn chung các bệnh nhân trong nghiên cứu này phần lớn nằm trong độ tuổi
mà khả năng sinh sản là cao nhất.
Nghề nghiệp của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh
Trong tổng số 350 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị
tật bẩm sinh đã được xét nghiệm, phân tích NST và lập karyotype bao gồm: cán bộ
viên chức (CBVC), công nhân, làm ruộng, bộ đội, lao động tự do.
Các cặp vợ chồng trong nghiên cứu của chúng tôi thuộc các nhóm nghề khác
nhau nhưng nhìn chung đều không phải tiếp xúc với các chất đồng vị phóng xạ, các
loại hóa chất độc hại, các thuốc bảo vệ thực vật. Những bệnh nhân này đã được chỉ
định xét nghiệm di truyền để xác định xem họ có bị rối loạn ở mức độ NST hay
không, mà những bất thường này có thể là nguyên nhân gây sảy thai sớm và sinh
con bị dị tật.
Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con
bị dị tật bẩm sinh
Trong số 350 cặp vợ chồng (700 trường hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp
hoặc sảy thai và sinh con bị dị tật bẩm sinh được xét nghiệm NST, phân tích và lập
karyotype chúng tôi đã phát hiện có 24 cặp vợ chồng ở 1 trong 2 người (người vợ
hoặc người chồng) mang rối loạn NST (chiếm tỷ lệ 6,86%), 326 cặp vợ chồng
(chiếm tỷ lệ 93,14%) có karyotype bình thường (46,XX hoặc 46,XY).
Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể giữa người vợ và người chồng ở các cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trong tổng số 24 cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh có biểu hiện rối loạn NST (hoặc ở
người vợ hoặc ở người chồng), trong đó chúng tôi phát hiện có 16 người vợ (chiếm
tỷ lệ 66,67%) và 8 người chồng (chiếm tỷ lệ 33,33%).

8
Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng phát hiện trong số các cặp vợ chồng có
biểu hiện rối loạn NST thì biểu hiện rối loạn gặp ở người vợ là cao hơn ở người

chồng.
Các biểu hiện về rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh.
Khi phân tích NST của 350 cặp vợ chồng (700 trường hợp) chúng tôi phát
hiện trong số 24 trường hợp mang rối loạn NST có 21 trường hợp (chiếm tỷ lệ
87,5%) có biểu hiện rối loạn về cấu trúc và 3 trường hợp (chiếm tỷ lệ 12,5%) là rối
loạn về số lượng ở cặp NST giới tính và ở thể khảm với hai dòng tế bào. Trong 21
trường hợp rối loạn về cấu trúc có 19 trường hợp là chuyển đoạn, 1 trường hợp mất
đoạn và 1 trường hợp đảo đoạn.

Các kiểu chuyển đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh
con bị dị tật bẩm sinh
Khi phân tích NST ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị
tật bẩm sinh chúng tôi đã phát hiện có 19 trường hợp mang chuyển đoạn trong đó:
- 11 trường hợp chuyển đoạn tương hỗ bao gồm 6 người vợ và 5 người chồng.
- 8 trường hợp chuyển đoạn hòa hợp tâm bao gồm 6 người vợ và 2 người chồng.
Sự chuyển đoạn tương hỗ giữa các nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng mang
nhiễm sắc thể chuyển đoạn
Trong số 21 cặp vợ chồng có biểu hiện về rối loạn cấu trúc mà chúng tôi phát
hiện được thì rối loạn cấu trúc kiểu chuyển đoạn tương hỗ xảy ra ở 11 cặp vợ chồng
(hoặc ở người vợ hoặc ở người chồng) chiếm tỷ lệ 52,38% tổng số các rối loạn cấu
trúc. Đó là sự chuyển đoạn xảy ra giữa 2 NST khác cặp tương đồng.
Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa các nhóm
Trong 8 trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm có 4 trường hợp có kiểu
chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với nhóm D: t(D/D) trong đó phát hiện 3

9
trường hợp ở người vợ và 1 trường hợp ở người chồng. 3 trường hợp có kiểu
chuyển đoạn giữa NST nhóm D với NST nhóm G: t(D/G) trong đó 2 trường hợp
xảy ra ở người vợ và 1 trường hợp ở người chồng. 1 trường hợp có kiểu chuyển

đoạn giữa NST nhóm G với NST nhóm G: t(G/G) xảy ra ở người vợ.
Chúng tôi cũng phát hiện các trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm
giữa NST nhóm D với NST nhóm D phần lớn xảy ra giữa NST số 13 và NST số 14,
một dạng chuyển đoạn thường gặp nhất ở người [13], trong 4 trường hợp mang
chuyển đoạn giữa NST nhóm D với NST nhóm D được phát hiện có 3 trường hợp là
chuyển đoạn giữa NST số 13 và NST số 14, t(13q;14q), gặp ở 2 người vợ và 1
người chồng, 1 trường hợp là chuyển đoạn giữa NST số 13 và NST số 13,
t(13q;13q), gặp ở 1 người vợ
Sự phân bố các kiểu rối loạn về số lượng nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
Tổng số 24 trường hợp có biểu hiện rối loạn NST, trong đó 21 trường hợp có
biểu hiện về rối loạn cấu trúc (87,5%), 3 trường hợp có biểu hiện về rối loạn số
lượng NST (12,5%). Trong số các rối loạn về số lượng chúng tôi phát hiện thấy có
sự rối loạn ở cặp NST giới tính và ở thể khảm với 2 dòng tế bào gặp ở người vợ
hoặc ở người chồng. Trong đó 1 trường hợp ở người vợ karyotype là
46,XX/47,XXX (96% là 46,XX, 4% là 47,XXX), 1 trường hợp ở người chồng
karyotype là 46,XY/47,XXY (95% là 46,XY, 5% là 47,XXY) và 1 trường hợp
người vợ karyotype là 45,X/46,XX (95% là 46,XX, 5% là 45,X).
Kết luận:
Kết luận 1: Phân tích karyotype của 350 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con
bị dị tật đã phát hiện 24 cặp có rối loạn NST. Những rối loạn này biểu hiện cả ở
người vợ và cả người chồng, rối loạn về cả số lượng và cấu trúc.
Kết luận 2: Đã phát hiện có sự rối loạn về số lượng NST ở 3 cặp (12,5%) tất cả đều
biểu hiện ở NST giới tính, trong đó 1 trường hợp 2n = 47 (XXX); 1 trường hợp 2n =
47 (XXY) và 1 trường hợp 2n = 45 (XO).

10
Kết luận 3: Đã phát hiện có sự rối loạn về cấu trúc NST ở 21 cặp (87,5%) trong đó
rối loạn về chuyển đoạn là chủ yếu (19 trường hợp) chỉ 1 trường hợp là mất đoạn và
1 trường hợp là đảo đoạn.

Kiến nghị:
Sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh có thể do rất nhiều nguyên
nhân. Về mặt di truyền có thể do phía bố mẹ hoặc phía thai, vì vậy cần phải tìm hiểu
tiếp các nguyên nhân như phân tích NST từ tế bào dịch ối hoặc tế bào gai rau hoặc
phân tích ADN ở những cặp bố mẹ có karyotype bình thường. Hy vọng những kết
quả này sẽ là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo.
References :
Tiếng Việt
1. Trịnh Văn Bảo, Phan Thị Hoan, Trần Thị Thanh Hương, Hoàng Thị Ngọc Lan,
Trần Đức Phấn, Đoàn Thị Kim Phượng, Nguyễn Văn Rực (2002), “Phân tích kết
quả xét nghiệm di truyền tế bào tại bộ môn Y Sinh học – Di truyền – trường đại học
Y Hà Nội”, Tạp chí di truyền và ứng dụng – Hội di truyền học Việt Nam, tr 70-78.
2. Phan Thị Hoan (2005), “Phân tích NST và nếp vân da của hai gia đình sinh hai
con hội chứng Down”, Tạp chí nghiên cứu y học, 34(2), 5-12.
3. Phan Xuân Khôi (2002), Nghiên cứu tình hình thai chết lưu trong tử cung tại viện
bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh trong 2 năm 1999-2000, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ
chuyên khoa cấp II, ĐH Y Hà Nội.
4.Nguyễn Văn Rực (2002), “Phát hiện NST chuyển đoạn ở một số cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp và sinh con dị tật bằng phương pháp nhuộm băng G”, Tạp chí di truyền
và ứng dụng – Hội di truyền học Việt Nam, tr 51-56.
5. Nguyễn Văn Rực (2004), Nguyên cứu đặc điểm karyotype, kiểu hình của trẻ
Down và karyotype của bố mẹ, Luận án tiến sĩ y học, ĐH Y Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Rực (2006), “Đặc điểm karyotype ở những cặp vợ chồng sảy thai
liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh”, Tạp chí nghiên cứu y học, 46(6).

11
7. Nguyễn Văn Rực (2006), “Nguy cơ bất thường về sinh sản ở một số cặp vợ
chồng mang NST chuyển đoạn cân bằng”, Tạp chí nghiên cứu y học Phụ trương,
40(1).
8. Nguyễn Văn Rực, Phạm Đức Phùng, Nguyễn Thị Phượng (2006), “Nghiên cứu

đặc điểm karyotype của trẻ Down và karyotype của bố mẹ”, Tạp chí nghiên cứu y
học, 40(1), tr 11-14.
9. Nguyễn Văn Rực (2008), “Nghiên cứu bất thường NST của hội chứng Down khi
bố mẹ mang chuyển đoạn cân bằng của NST số 21”, Tạp chí nghiên cứu y học,
54(2), tr 6-10.
10. Nguyễn Văn Rực, Lê Thúy Hằng (2010), “Phân tích NST ở 15 trẻ mắc hội
chứng Down do chuyển đoạn và NST của bố mẹ”, Tạp chí nghiên cứu y học, 66(1).
11. Ngô Gia Thạch, Trinh Văn Bảo, Phạm Đức Phùng, Trần Thị Liên(1985),
Chuyên đề di truyền Y học, Nhà xuất bản y học.
12. Nguyễn Nam Thắng (2004), Tình hình sảy thai, thai chết lưu ở một số xã của
tỉnh Thái Bình và đặc điểm NST của một số cặp vợ chồng sảy thai, thai chết lưu,
Luận văn thạc sỹ y học, ĐH Y Hà Nội
Tiếng Anh
13. Alippman-Hand and M. Vekemans (1983), “Balanced translocations among
couples with two or more spontaneous abortions: Are males and females equally
likely to be carriers?”, Human Genetics, Vol 63, No 3, 252-257.
14. Anil Biricik et al (2004). “A male (15;15) robertsonian translocation case with
11 previuos consecutive recurrent spontaneous abortions”. Marmara Medical
Journal, 17(1), 35-38.

12
15. Anton E, Blanco J, Egozcue J et al (2004), “Sperm FISH studies in seven male
carriers of Robertsonian translocation t(13;14)(q10;q10)”, Human Reproduction,
19(6), 1345-51.
16. Azim.M et al (2003), “Chromosomal Abnormalities as a Cause of Recurrent
Abortions: a Hospital Experience”, J Pak Med Assoc, 53(3), 117-9.
17. Blohm F et al (2003), “Expectant management of first-trimester miscarriage in
clinical practice”, Acta Obstet Gynecol Scand, 82, 654-8
18. Byrd JR. Askew DE, McDonouh PG (1977), “ Cytogenetic findings in fifty five
couples with recurrent fetal wastage”, Fetil Steril, 28, 246-9.

19. Claude Stoll (1981), “Cytogenetics findings in 122 couples with recurrent
abortions”, Human Genetics, 57(1), 101-103.
20. Cyril Cyrus et al (2006), “Faminial robertsonian translocation 13;21 in a Down
syndrome – Patient with XYY/XY mosaicism”, Int. J. Hum. Genet, 6(4), pp. 291-
295.
21. Davalos IP, Rivas F, Ramnos AL, et al (2000), “1nv (9) (p24q13) in three sterile
brothers”, Ann Genet, 43, 51-4.
22. Dubey.S et al (2005), “Cytogenetic causes for recurrent spontaneous abortions –
An experience of 742 couples (1484 cases)”, Indian Journal of Human Genetics,
11(2), 94 – 98.
23. Diedrich.U et al (1983), “Chromosome anomalies in 136 couples with a history
of recurrent abortions”, Biomedical and Life Sciences, Human Genetics, 65(1), pp.
48-52.
24. Doborah WH, Susan CE, Reuben BY. et al (1978), “Cytogentics of recurrent
abortions”, Fertil Steril, 29, 414-177.

13
25. Enrique C et al (1991), “Chromosome rearrangements among couples with
pregnancy losses and other adverse reproductive outcomes”, American Journal of
Medical Genetics, 41(3), pp. 279-281.
26. Flemming,W. (1982), In Zellsubstanz, Kern und Zellteilure, Volgel, Leipzig.
27. Figen Celepa et al (2006), “The frequency of chromosomal abnormalities in
patients with reproductive failure”, European Journal of Obstetrics & Gynecology
127(1), PP. 106-109.
28. Ford, C.E; Hamerton, J.L. (1956), “The chromosome of man”, Nature, 178,
1020-1023.
29. Ford, C.E. et al (1959), “A sex chromosome anormaly in a case of gonadal
dysgenesis (Turner’s sundrome)”, The Lancet I, 711 – 713.
30. Fortuny.A et al (1988), “Detection of balanced chromosome rearrangements in
445 with repeated abortion and cytogenetic prenatal testing in carriers”, Fertility

and Sterility, 49(5), 774-779.
31. Franssen M T M et al (2007), “Risk factors for structural chromosomal
abnormality in ≥ 2 miscarriages, as an instrument for selective karyotyping”, Ned
Tijdschr Geneeskd, 14:151(15), 863-7.
32. Fryns.J.P et al (1984), “Cytogenetic survey in couples with recurrent fetal
wastage”, Biomedical and Life Sciences, Human Genetics, 65(4), pp. 336-354.
33. Fryns JP, Buggenhout GV. (1998), “Structural chromosome rearrangements in
couples with recurrent fetal wastage”, Eur .J Obstet Gynecol Repro Biol, 81(2),
171-6.
34. Garcia-Enguidanos A, Calle ME, Valero J, et al (2002), “Risk factors in
miscarriage: a review”, Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 102, 111-9.

14
35. Gilgenkrantz S. (1989),” Robersonian translocations and abnormal phenotypes”.
Ann. Genet, 32(1), 5-9.
36. Griebel CP. et al (2005), “Management of spontaneous abortion”, American
Family Physician.,72(7), 1243-52.
37. Hamamah S, Fingnon A, Lansac J (1997), “The effect of male factors in
repeated spontaneous abortion: lesson from in vitro fertilization and
intracytoplasmic sperm injection”, Hum Reprod Update, 3, 393-400.
38. Hsu, T.C. (1952), Mammalian Chromosomes in vitro. I. The karyotype of man.
J. Hered, 43, 167-172.
39. Hungerford D.A. (1965), Luekocytes cultured from small inocula of whole
blood and the preparation of metaphase chromosome by treatment with hypotonic
KCl, Stain Technol, 40, pp. 333.
40. Husslin P. Huber .J. Wagenbiehler P. et al (1982), “Chromosome abnormalities
in 50 couples with multiple spontaneous abortions”, Feiti I Steri I, 37, 379-83.
41. Jacobs, P.A; Strong, J.A. (1959), “A case of human intersexuality having a
possible XXY sex – determineng mechanism”, Nature, 183, 302-303.
42. Jiang Jing et al (2001), “Cytogenetic analysis in 61 couples with spontaneous

abortions”, Chinese Medical Journal, 114(2).
43. Kajji T. Ohama K, Niikawa N, et al (1973), “Banding analysis of normal
karvotypes in spontaneous abortion”, Am J Hum Genet, 25, 539-47
44. Kroshikina VG et al (1984), “Cytogenetic study of married couples with
recurrent spontaneous abortions” , 18(3), 229-30.
45. Kim SR, Shaffer LG (2002), “Robertsonian translocations: mechanisms of
formation, aneuploidy, and uniparental disomy and diagnostic considerations”.
Genet Test, 6, 163-8.

15
46. Lakshmi Rao et al (2005), “Chromosome inversions and a novel chromosome
insertion associated with recurrent miscarriages in South India”, Archives of
Gyneconogy and Obstetrics, 272(4), 273-277.
47. Lewis.B.V and Ridler.M.A.C (1977), “Recurrent abortion associated with a
balanced 22;22 translocation, or isochromosome 22q in a monozygous twin”.
Biomedical and Life Sciences, Human Genetics, Vol.37, No.1, pp. 81-85.9.
48. Levine, H. (1971), Clinical cytogenetics. Little, Brown and company, Boston.
49. Levitsky,G.A.(1924), Materielle Grundlagen ger vererbung. Kiew.Staat –
sverlag.
50. Lippman HA. Veremans M (1983), “Balanced translocatmons among couples
with two or more spontaneous abortions: are male and females equally likely to be
carriers?”, Hum Genet, 63, 252-7.
51. Lyberatou ME, Grigorti KP, Retzepopoulouz. et al (1983), “Cytogenetics of
recurrent abortions”, Clin Genet, 23, 294-7.
52. Mauro Campana et al (1986), “Role of chromosome aberrations in recurrent
abortion: A study of 269 balanced translocation”, American Journal of Medical
Genetics, 24(2), pp. 341-356.
53. MoorheadPS et al (1960), “Chromosome preparations of leukocytes cultured
from human peripheral blood”, Expcell Res, 20, 613-616.
54. Micheles VV, Medrano C, Venue VL. et al (1982), “Chromosome

translocations in couples with multiple spontaneous abortions”, Am J Horn Genet,
34, 507-13.
55. Nagaishi M et al (2004), “Chromosome abnormalities identified in 347
spontaneous abortions collected in Japan”, Journal of Obstetrics and Gynaecology
Research, 30(3), 237-41.

16
56. Nowell,P.C, and Hungerford,D.A. (1960), ”Chromosome studies in human
leukemia: II. Chronic gramclocytic leukemia”, J.Nat. Cancer Inst, 27, 1013.
57. Painter, T.S. (1923), “Studies in mammalian spermatogenesis. II. The
spermatogenesis of man”, J. Exp. Zool, 37, 291-336.
58. Priya A.Iyer et al (2009), “A de novo Complex Chromosomal Rearrangement of
46,XX,t(7;15;13)(p15;q21;q31) in a Female with an Adverse Obstetric History”, Int
J Hum Genet, 9(2), 139-143.
59. Razied Dehghani Firoozabadi et al (2006), “Cytogenetic analysis in couples
with recurrent spontaneous abortion”, Iranian Journal of Reproductive Medicien,
4(1), pp. 13-17.
60. Robinson W.P., Bernasconi F., Basaran S., et al (1994), “ A somatic origin of
homologous robetsonian translocation and isochromosomes”, Am.J. Hum. Genet,
54, 290-302.
61. Scarbrough P R et al (1984), “Paternal robertsonian translocation t(13q;14q)
and maternal reciprocal translocation t(7p;13q) in a couple with repeated fetal loss”,
Journal of Medical Genetics, 21, 463-471.
62. Stoll, C et al (1998), “Study of Down syndrome in 238942 consecutive births”,
An. Genet, 41(1), pp. 44-51.
63. Simona Farcas et al (2007), “Role of chromosomal translocations in recurrent
spontaneous abortion”, TMJ, 57(2-3), 117-121.
64. Sei Kwang Kim et al (2001), “A case with balanced chromosome rearrangement
involving chromosomes 9, 14, and 13 in a woman with recurrent abortion”, Yonsei
Medical Journal, 42(3), pp. 345-348.

65. Seabright. M. (1971), A rapid banding technique for human chromosomes. The
Lancet 2. 971.

17
66. Stephenson MD, Awartani KA, Robinson WP (2002), “Cytogenetic analysis of
miscarriages from couples with recurrent miscarriage: a case-control study”, Hum
Reprod, 17, 446-51.
67. Shaffer L.G et al (2005), ISCN: an International for Human Cytogenetic
Nomenclature. S. Karger, Basel.
68. Tavokina.L.V et al (2007). “The most frequent chromosomal abnormalities in
karyotypes of patients with reproductive disorders”, Cytology and Genetics, 41(4),
237-242.
69. Teo SH, Tan M, Knight L, et al (1995). “Pericentric inversion 9-Incidence and
clinical significance”, Ann Acad Med Singapore, 24, 302-4.
70. Ulrike A Mau et al (2000), “Familial Robertsonian translocation 15;21 and rare
paracentric inv(21): unexpected re-inversion in a child with translocation trisomi
21”, European Journal of Human Genetics, 8, 815-819.
71. Usha R. Dutta et al (2010), “Cytogenetic abnormalities in 1162 couples with
recurrent miscarriages in Southern region of India: report and review”, Medicien
Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 28(2), 145-149.
72. Zarina A L et al (2006), “Unbalanced Chromosomal Translocation: A Cause of
Recurrent Spontaneous Abortion”, Med J Malaysia, Vol 61, No 2.
Tiếng Pháp
73. Lejeune, J.; Gautier, M. and Turpin, R. (1959). “Étude des chromosomes
somatiques de neuf enfants mogoliens”. Compt. Rent. Acad. Sci. 248, 1721 – 1722.
74. Lejeune. J. et al (1963). Trois cas de délétion partielle du bras court d’un
chromosome 5.C.K.Acad.Sci.(Paris)257:3098.

18
75. Von Winiwarter, H. (1912). “Étude sur la spermatogenes humaine. I. Cellule ge

sertoli. II. Hétérochromosome et mitoses gen l'epitheleum seminal”. Arch. Biol.
(Liege) 27, 91 – 189.





×