Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

phân tích bộ nhiễm sắc thể (karyotype) ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 75 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn
Văn Rực, Phó trưởng bộ môn Y sinh học – Di truyền, Đại học Y Hà Nội, người thầy
trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Giang Liên người đã tận tình góp ý
cũng như động viên, cổ vũ tinh thần cho tôi trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, các kỹ thuật viên tại Bộ môn Y sinh
học – Di truyền, Đại học Y Hà Nội đã chỉ bảo, động viên, tạo điều kiện tốt và giúp
đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn Tế bào – Mô phôi, Đại
học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tận tình giúp đỡ, tạo điều
kiện để tôi hoàn thành bản luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè những
người đã luôn động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập để tôi hoàn
thành được bản luận văn này.

Hà Nội, tháng 11 năm 2011
Tác giả




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BrdU: Bromodeoxyuridin
ISCN: An International System for Human Cytogenetic Nomenclature
PHA: Phytohemagglutinin
cs : Cộng sự
NST: Nhiễm sắc thể






















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN 3

1.1.

Lược sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể người 3

1.2.


Tiêu chuẩn và qui định quốc tế về đặc điểm bộ nhiễm sắc thể người. 5

1.2.1.

Tiêu chuẩn để xếp loại nhiễm sắc thể trong lập karyotype. 5

1.2.2.

Phân loại nhiễm sắc thể 5

1.2.3.

Các rối loạn về bộ nhiễm sắc thể người 6

1.2.3.1.

Rối loạn số lượng 6

1.2.3.2.

Rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể 8

1.3.

Tình hình nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh trên thế giới 12

1.3.1.


Tần số rối loạn nhiễm sắc thể trong những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp
và sinh con bị dị tật bẩm sinh 12

1.3.2.

Tần số rối loạn nhiễm sắc thể giữa người bố hoặc người mẹ ở những cặp
vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh 14

1.3.3.

Tần số các kiểu chuyển đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai
và sinh con bị dị tật 15

1.3.3.1.

Tần số giữa chuyển đoạn tương hỗ và chuyển đoạn hòa hợp tâm . 16

1.3.3.2.

Tần số các kiểu rối loạn khác ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp
và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 19

1.4.

Tình hình nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh ở Việt Nam 20

CHƯƠNG 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23

2.1.


Đối tượng nghiên cứu. 23

2.1.1.

Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân 23

2.1.2.

Tiêu chuẩn loại trừ 23

2.2.

Phương pháp nghiên cứu. 23

2.2.1.

Lập hồ sơ bệnh án di truyền 23

2.2.2.

Phương pháp nuôi cấy tế bào bạch cầu lympho máu ngoại vi để thu
hoạch cụm kỳ giữa, phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotype. 24

2.2.2.1.

Nuôi cấy tế bào bạch cầu lympho máu ngoại vi theo phương pháp
của Hungerford D.A. (1965). 24

2.2.2.2.


Thu hoạch tế bào 24

2.2.2.3.

Phương pháp nhuộm băng theo Seabright M (1971) . 25

2.2.2.4.

Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và lập karyotype: theo tiêu
chuẩn ISCN (2005) . 26

2.2.3.

Xử lý số liệu 27

CHƯƠNG 3 - KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 28

3.1.

Tuổi của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh . 28

3.2.

Nghề nghiệp của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh 30

3.3.

Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh

con bị dị tật bẩm sinh 32

3.4.

Biểu hiện rối loạn nhiễm sắc thể giữa người vợ và người chồng ở các cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 35

3.5.

Các biểu hiện về rối loạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp
và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 36

3.6.

Các kiểu chuyển đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh 42

3.6.1.

Sự chuyển đoạn tương hỗ giữa các nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng
mang nhiễm sắc thể chuyển đoạn 45

3.6.2.

Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa các nhóm 48

3.7.

Sự phân bố các kiểu rối loạn về số lượng nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh 55


TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

Tiếng Việt 59

Tiếng Anh 60

Tiếng Pháp 66

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. Sự phân bố theo tuổi của các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị
dị tật bẩm sinh. 28

Bảng 2. Sự phân bố về nghề nghiệp ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh
con bị dị tật bẩm sinh. 31

Bảng 3. Bảng thống kê tỷ lệ rối loạn NST ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh của một số tác giả. 34

Bảng 4. Sự phân bố các kiểu rối loạn cấu trúc NST ở các cặp vợ chồng sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 37

Bảng 5. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn NST. 42

Bảng 6. Bảng thống kê tỷ lệ chuyển đoạn NST ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp
và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 43

Bảng 7. Sự phân bố các kiểu karyotype về sự chuyển đoạn tương hỗ. 45


Bảng 8. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa các nhóm. 48

Bảng 9. Sự phân bố các kiểu chuyển đoạn giữa các NST trong các nhóm 50

Bảng 10. Sự phân bố các rối loạn xảy ra ở cặp NST giới tính ở các cặp vợ chồng sảy
thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 55









DANH MỤC HÌNH

Hình 1. Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử ở người mang chuyển đoạn tương hỗ
giữa NST số 3 và NST số 21. 9

Hình 2. Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa hợp
tâm t(14q;21q). 10

Hình 3. Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa hợp
tâm t(21q;21q). 11

Hình 4. Tỷ lệ rối loạn NST ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị
tật bẩm sinh. 32

Hình 5. Tỷ lệ rối loạn NST giữa người vợ và người chồng ở những cặp vợ chồng

sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh. 35

Hình 6. Karyotype của bệnh nhân Nguyễn T Thu Tr. 46 ,XX del(18)(q21) 39

Hình 7. Karyotype của bệnh nhân Nguyễn Thanh T. 46,XX,inv(9)(p13q13) 41

Hình 8. Karyotype của bệnh nhân Lê Đức T. 46,XY,t(1;5)(q44;q15) 47

Hình 9: Karyotype của bệnh nhân Đặng Thị Anh D. 45,XX,t(13q;14q) 52

Hình 10. Karyotype của bệnh nhân Đinh Thị Kim D. 45,XX,t(14q;21q) 53

Hình 11. Karyotype của bệnh nhân Nguyễn T Thanh T. 45,XX,t(21q;21q) 54

Hình 12. Karyotype của bệnh nhân Trương Thị Ng. 47,XXX/46,XX 57




1
MỞ ĐẦU
Năm 1956 Tijo và Levan là người đầu tiên đã nuôi cấy tế bào thai người và
gây sốc nhược trương để làm cho các NST (NST) dàn đều trên tiêu bản đã phát hiện
chính xác số lượng NST của người là 46 chiếc gồm 23 cặp, trong đó 22 cặp NST
thường và 1 cặp NST giới tính (ở người nữ là XX, ở người nam là XY). Từ đó đến
nay, NST của người luôn là đề tài nghiên cứu của các nhà di truyền học trên nhiều
đối tượng và các bệnh lý lâm sàng khác nhau.
Những năm gần đây các phương pháp nuôi cấy mô và các kỹ thuật nhuộm
tiêu bản ngày càng phát triển và được cải tiến không ngừng, đặc biệt là kỹ thuật
nhuộm băng G (GTG) đã cho phép các nhà di truyền học phát hiện được chính xác

từng chiếc NST và những rối loạn cấu trúc của NST như mất đoạn, lặp đoạn,
chuyển đoạn, đảo đoạn…
Ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh có thể do nhiều nguyên nhân như nhiễm trùng, hocmon, các bệnh mãn tính, bất
thường tử cung, bất thường NST… Đặc biệt đối với thai sảy sớm (dưới 3 tháng
trong thời kỳ mang thai) thì phôi thai mang bất thường NST đóng vai trò chủ yếu
[11]. Trường hợp này nguyên nhân có thể do bố hoặc mẹ mang rối loạn NST cân
bằng dẫn đến không phân ly NST ở các cặp NST nào đó tạo nên những giao tử bất
thường và nguy cơ mang thai bất thường cao có thể chết trong thời kỳ bào thai hoặc
sinh ra những đứa trẻ dị tật bẩm sinh.
Ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh ra con bị dị tật bẩm sinh sẽ
tạo gánh nặng về tâm lý và kinh tế cho bệnh nhân, gia đình bệnh nhân và xã hội.
Xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ chồng này nhằm tìm ra nguyên nhân
gây sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh đồng thời đưa ra lời khuyên di
truyền góp phần chăm sóc sức khỏe sinh sản ở cộng đồng và xã hội.

2
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu NST và những báo
cáo về những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh mang rối loạn NST cân bằng như chuyển đoạn, lặp đoạn, đảo đoạn…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều phòng xét nghiệm di
truyền tế bào như Viện nhi Trung ương, Viện Sản Trung ương, phòng Di truyền tế
bào bệnh viện Từ Dũ, bộ môn Y Sinh học – Di truyền trường Đại học Y Hà Nội làm
xét nghiệm và phân tích NST ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh góp phần trong chẩn đoán và đưa ra những lời khuyên di
truyền.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Phân tích bộ nhiễm sắc thể
(karyotype) ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm
sinh” nhằm mục tiêu:
Phát hiện các trường hợp rối loạn NST ở những cặp vợ chồng sảy thai

liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh.













3
CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN
1.1. Lược sử nghiên cứu về nhiễm sắc thể người
Bộ NST người là đối tượng chính trong các nghiên cứu tế bào di truyền học
loài người. Các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu NST người từ cuối thế kỷ XIX
và được đánh dấu bằng công trình mở đầu của Walther Flemming (1882) [26]. Ông
đã quan sát NST của người ở các kỳ phân bào trên tiêu bản tươi, cắt mảnh lấy từ
tinh hoàn. Trong thời gian đó, NST của người là vấn đề được các nhà di truyền học
quan tâm, nghiên cứu và cũng là đề tài được đem ra tranh luận nhiều lần. Tuy nhiên
ở thời kỳ ấy do những hạn chế về kỹ thuật làm tiêu bản, mẫu vật không đáp ứng và
không phù hợp cho việc nghiên cứu chi tiết NST. Ở người, số lượng NST nhiều,
kích thước nhỏ và thường tập trung thành từng đám, với những kỹ thuật cắt mảnh,
cố định và nhuộm thông thường, các nhà di truyền tế bào chưa thể đếm chính xác
nên đã cho rằng trong nhân của tế bào người có 48 NST, gồm 23 cặp NST thường
và 1 cặp NST giới tính (Winiwarter. V, 1912; Painter, T.S, 1923; Levitsky, G.A,
1924) [48,58,75].

Những năm thuộc thập kỉ 50 của thế kỉ XX có những phát hiện quan trọng
khai sinh ra chuyên ngành di truyền tế bào người, bằng việc xử lý tế bào bằng sốc
nhược trương của Hsu, T.C (1952), Ford, C.E và Hamerton, J.L (1956) tiền xử lý tế
bào nuôi cấy bằng colchicine để tích lũy nhiều cụm kì giữa. Công trình của Tjio,
J.H và Levan (1956) kết hợp xử lý nhược trương và colchicine đã công bố nghiên
cứu xác định lại bộ NST 2n của người là 46 NST chứ không phải là 48 NST và
công trình này đã được Ford và Hamerton khẳng định [28].
Từ năm 1956 có nhiều phòng thí nghiệm tế bào di truyền được xây dựng để
nghiên cứu NST. Các công trình đầu tiên công bố các rối loạn NST liên quan với
bệnh là công trình của Lejeune (1958-1959) về hội chứng Down do thừa một NST
21 dạng trisomi 21, hội chứng Turner do tế bào cơ thể chỉ có 45 NST dạng 45,X

4
thiếu một NST giới tính X (Ford, 1959), hội chứng Klinefelter ở nam với 47 NST
trong đó có ba NST giới XXY (Jacobs và Strong, 1959) [40].
Từ năm 1956 đến năm 1960 là thời kỳ còn khó khăn của nghiên cứu tế bào di
truyền học người các nghiên cứu đều mới chỉ phân biệt được các rối loạn số lượng
và rối loạn cấu trúc lớn gây bất thường ở người do mới chỉ sử dụng phương pháp
nhuộm bình thường bằng Giemsa, nhuộm đồng đều các NST.
Năm 1960, Moorhead và cs công bố phương pháp làm tiêu bản NST từ
lympho bào nuôi cấy ngắn hạn với việc dùng PHA (phytohemagglutinin) để kích
thích phân bào[53].
Năm 1960, Nowell và Hungerford đã mô tả NST Philadelphia (mất đoạn
nhánh dài của NST 22) trong bệnh bạch cầu thể tủy mãn tính (Chronic myeloid
leukemia) [57].
Năm 1963, hội chứng mèo kêu, một hội chứng do bị mất đoạn nhánh ngắn
của NST số 5 (5p
-
), lần đầu tiền được phát hiện bởi Lejeune và cs [74].
Từ năm 1968 đến năm 1970, là sự ra đời của các kỹ thuật nhuộm băng cho

phép các nhà di truyền học đánh giá chính xác tới từng chiếc NST trong bộ NST và
phát hiện rối loạn cấu trúc NST. Từ sau 1970 trở đi, lần lượt với các kỹ thuật nhuộm
băng Q, băng G, băng R, băng C, băng T, N và nhuộm băng có độ phân giải cao
NST, dùng BrdU (Bromodeoxyuridin) gắn vào ADN trên NST và nhuộm phân biệt
chromatit chị em đã mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tế bào di truyền học
người ứng dụng các kỹ thuật băng để phát hiện các bất thường tinh tế đặc trưng trên
từng NST ứng với các bệnh, tật, các hội chứng trong lâm sàng.
Từ năm 1980 đặc biệt là sau năm 1985 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ, vượt
bậc của di truyền tế bào lâm sàng và di truyền phân tử ứng dụng trong nghiên cứu
bộ gen loài người. Trong di truyền tế bào lâm sàng thì việc nghiên cứu NST chủ yếu
vẫn áp dụng các phương pháp nhuộm băng NST.

5
1.2. Tiêu chuẩn và qui định quốc tế về đặc điểm bộ nhiễm sắc thể người.
1.2.1. Tiêu chuẩn để xếp loại nhiễm sắc thể trong lập karyotype.
Lúc đầu người ta chỉ căn cứ vào chiều dài của NST để căn cứ và đặt tên cho
chúng từ 1 đến 23 theo thứ tự từ dài đến ngắn (công ước Denver 1960), nhưng ngay
sau đó cũng năm 1960 Patau không đồng ý và đề xuất thêm tiêu chuẩn vị trí phần
tâm, sau này được quốc tế chính thức chấp nhận.
- Chiều dài tương đối của NST : đó là tỷ lệ giữa chiều dài của một NST so
với chiều dài của cả bộ NST trung bình, tức là chiều dài tổng cộng của tất cả các
NST thường của bộ đơn bội có chứa NST X tính theo phần nghìn trong cùng một
tế bào.
- Vị trí của phần tâm được biểu hiện bằng chỉ số phần tâm, tức là tỷ lệ giữa
chiều dài nhánh ngắn trên tổng chiều dài của cả NST.
Ngoài ra còn có một số tiêu chuẩn chi tiết khác vận dụng cho các NST có
nhánh ngắn rất ngắn (NST tâm đầu) và các vệ tinh của chúng, NST Y có đặc thù
riêng.
1.2.2. Phân loại nhiễm sắc thể
Ở người bộ NST 2n = 46 trong đó có 22 cặp NST thường (autochromosome)

và 1 cặp NST giới tính (sex chromosome). Dựa vào đặc điểm hình thái như độ dài,
vị trí tâm động người ta sắp xếp các NST thành từng nhóm. 46 NST người được
chia thành 7 nhóm, kí hiệu là A, B, C, D, E, F và G trên nguyên tắc dài trước ngắn
sau, nếu các NST bằng nhau thì tâm giữa đặt trước, tâm lệch đặt sau.
• Nhóm A có 3 cặp NST có kích thước lớn nhất, gọi tên từ số 1 đến 3, cặp số 1
tâm giữa, cặp số 2 tâm lệch, cặp số 3 tâm giữa.
• Nhóm B có 2 cặp NST số 4 và 5. Các NST này có kích thước lớn và đều có
tâm lệch.

6
• Nhóm C có 7 cặp từ số 6 đến 12 có chiều dài trung bình. NST X cũng được
xếp vào nhóm này. Tất cả đều tâm gần giữa và khó phân biệt.
• Nhóm D có 3 cặp từ số 13 đến 15 gồm các NST có nhánh ngắn rất ngắn, gần
như không đáng kể gọi là các NST tâm đầu (acrocentric). Tất cả 3 cặp NST
này đều có vệ tinh ở nhánh ngắn.
• Nhóm E có 3 cặp 16, 17,18 tương đối ngắn. NST số 16 tâm giữa, 17 và 18
tâm lệch.
• Nhóm F có 2 cặp NST 19 và 20, ngắn và có tâm giữa.
• Nhóm G có 2 cặp 21 và 22, kích thước ngắn và tâm đầu, có vệ tinh. NST Y
cũng được xếp vào nhóm này nhưng không có vệ tinh.
1.2.3. Các rối loạn về bộ nhiễm sắc thể người
1.2.3.1. Rối loạn số lượng
Rối loạn số lượng NST gồm hai dạng: đa bội (polyploidy) và lệch bội
(aneuploidy).
* Đa bội thể: là hiện tượng tăng chẵn hoặc tăng lẻ cả bộ NST. Ví dụ: ở người 3n =
69 NST = thể tam bội (3n) thuộc dạng thể đa bội lẻ, 4n = 96 NST = thể tứ bội (4n)
thuộc dạng thể đa bội chẵn.
Ở người, các trường hợp đa bội phần lớn phôi thai chết ở giai đoạn trước
sinh, một vài trường hợp sống đến khi sinh hoặc sau sinh nhưng hầu hết là các sơ
sinh bị dị tật.

Một số trường hợp đa bội thể ở người:
- Đa bội thể ở người hầu hết quan sát thấy ở những thai sảy tự nhiên hoặc ở
một số thai sống sót vài giờ sau khi sinh hoặc ở phần lớn các khối u.
- Thể tam bội (3n) thuần (69,XXY hoặc 69,XYY) đã quan sát ở những thai
sảy tự nhiên hoặc ở một số thai sống sót vài giờ sau khi sinh.

7
- Thể khảm (3n/2n) hoặc (4n/2n) đứa trẻ có thể sống được vài năm nhưng
chậm phát triển trí tuệ và nhiều dị tật bẩm sinh khác: dị dạng mắt, thoát vị
màng tủy, dị tật tim, dị tật cơ quan sinh dục…
Karyotype ở những đứa trẻ này là:
46,XY/69,XXY hoặc 46,XX/92,XXYY
* Lệch bội: là hiện tượng số lượng NST của tế bào tăng lên hoặc giảm đi một hoặc
vài NST so với bộ NST lưỡng bội.
* Lệch bội NST thường
Ở người, hợp tử trisomi thuần NST thường có được tiếp tục phát triển hay
không, số lượng các dị tật và khả năng sống sót của thai ở bên trong hay bên ngoài
tử cung còn phụ thuộc vào trisomi về NST nào trong bộ NST. Trong số 22 cặp NST
thường, chỉ có trisomi nhóm D (13,14,15), trisomi 18 và trisomi 21 thai nhi có thể
sống ở bên ngoài tử cung, đặc biệt trisomi 21 có khả năng sống lâu hơn, thậm chí có
thể sống đến tuổi trưởng thành. Nhìn chung trisomi của nhóm A (1-3), nhóm B (4-
5) hoặc nhóm C (6-12), phôi thai thường chết ở giai đoạn sớm trong tử cung.
Những dòng tế bào hoặc hợp tử monosomi NST thường, nhìn chung không
có khả năng phát triển và thường chết ở giai đoạn sớm.
* Lệch bội NST giới tính
Trường hợp trisomi thuần NST giới tính, thai nhi có thể phát triển được đến
tuổi trưởng thành, nhưng thường có các bất thường, dị tật ở cơ quan sinh dục và một
số tính trạng khác bất thường, dị tật.
Chỉ có trường hợp monosomi NST giới X là có khả năng sống đến tuổi
trưởng thành nhưng có những biểu hiện rối loạn phát triển hình thái của cơ thể, về

cơ quan sinh dục và có thể chậm phát triển trí tuệ.

8
* Thể khảm lệch bội: NST thường và giới tính tức là cá thể có từ hai hoặc nhiều
dòng, hay gặp nhất là một dòng tế bào lưỡng bội và một dòng tế bào lệch bội hoặc
là thừa một NST (trisomi) hoặc là thiếu một NST (monosomi).
* Lệch bội phức tạp – (lệch bội kép): trong tế bào của cơ thể có dư 2 NST ở hai cặp
tương đồng khác nhau (thông thường là một cặp NST thường và một cặp NST giới
tính).
1.2.3.2. Rối loạn cấu trúc nhiễm sắc thể
* Mất đoạn (deletion): là hiện tượng NST bị đứt rời ra một hoặc nhiều đoạn, đoạn
bị đứt rời ra không có tâm sẽ tiêu biến đi hoặc gắn sang NST khác, phần còn lại
mang tâm trở lên ngắn hơn bình thường. Mất đoạn gồm các dạng: mất đoạn cuối
đơn, mất đoạn cuối kép, mất đoạn giữa.
Sự mất đoạn NST tức là sự mất đi vật liệu di truyền và tùy theo mức độ tổn
thương nhiều hay ít mà ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của phôi thai, hoặc thai nhi
sinh ra với nhiều dị tật. Ở người tần số gặp mất đoạn rất hiếm. Ví dụ: hội chứng
mèo kêu: 46, XX(XY), del (5p)… đã được mô tả bởi Lejeune và cs năm 1963. Triệu
chứng lâm sàng là trọng lượng khi sinh thấp, thời kỳ sơ sinh, trẻ nhỏ có tiếng khóc
không bình thường, yếu, rên rỉ giống như tiếng mèo kêu, đầu nhỏ, mặt tròn như mặt
trăng, hai mắt xa nhau, có nếp quạt, lẹm cằm… Nhiều bệnh nhân sống đến tuổi
trưởng thành nhưng cơ thể vẫn trong tình trạng kém phát triển. Một số trường hợp
có biểu hiện chậm phát triển trí tuệ và rối loạn cơ quan sinh dục, hay gặp trong số
đó là NST X hình vòng. Ví dụ: Hội chứng Turner: 46,Xr(Xq).
* Chuyển đoạn (Translocation) Chuyển đoạn là hiện tượng trao đổi các đoạn của
NST. Chuyển đoạn NST đã được xác định là hay gặp nhất trong rối loạn cấu trúc
của NST [64]. Có hai kiểu chuyển đoạn là chuyển đoạn tương hỗ (reciprocal
translocation) và chuyển đoạn hòa hợp tâm (Robertsonian translocation).

9

- Chuyển đoạn tương hỗ (reciprocal translocation): là hiện tượng trao đổi
đoạn giữa hai NST. Mỗi NST đứt một chỗ, trao đổi đoạn đứt cho nhau và hình
thành hai NST mới. Cả hai đều thay đổi hình thái nếu những đoạn trao đổi khác
nhau về kích thước. Người mang NST chuyển đoạn tương hỗ có phenotype hoàn
toàn bình thường và trong bộ NST chứa 46 chiếc với 2 NST bất thường. Trong quá
trình hình thành giao tử, hợp tử và sinh ra những đứa con hoặc là monosomi
(thường chết) hoặc trisomi hoặc có karyotype bình thường hoặc mang chuyển đoạn
cân bằng giống bố mẹ. Dưới đây là sơ đồ mô tả quá trình hình thành giao tử và hợp
tử ở những người mang chuyển đoạn tương hỗ.

Hình 1. Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử ở người mang chuyển đoạn tương
hỗ giữa NST số 3 và NST số 21.
- Chuyển đoạn hòa hợp tâm (Robertsonian translocation): Chuyển đoạn hòa
hợp tâm là do phần tâm của hai NST hợp nhất hình thành và hay gặp nhất là sự
chuyển đoạn giữa các NST tâm đầu số 13,14,15 (nhóm D), số 21,22 (nhóm G) bao
gồm là sự chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với nhóm D (D/D) hoặc giữa nhóm
D với nhóm G (D/G) hoặc giữa nhóm G với nhóm G (G/G). Nhìn chung trong quần

10
thể, chuyển đoạn hòa hợp tâm chiếm tỷ lệ khoảng 1,23% ở trẻ sơ sinh còn sống
[15].
Ở những người mang chuyển đoạn hòa hợp tâm trong bộ NST có 45 chiếc
thiếu 2 NST tâm đầu và thay vào đó 1 NST tâm giữa có kích thước lớn nếu là sự
chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với nhóm D (D/D) hoặc 1 NST có kích thước
trung bình tâm lệch nếu là sự chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với các NST
nhóm G (D/G) hoặc 1 NST kích thước nhỏ tâm giữa nếu là sự chuyển đoạn giữa các
NST nhóm G với các NST nhóm G (G/G).
Những người mang NST chuyển đoạn hòa hợp tâm thì có phenotype bình
thường nhưng trong quá trình hình thành giao tử, hợp tử và sinh ra những đứa con
hoặc là monosomi (thường chết trong thời kỳ bào thai) hoặc có bộ NST bình thường

hoặc mang chuyển đoạn hòa hợp tâm giống như bố mẹ, hoặc mang chuyển đoạn
không cân bằng (chết trong thời kỳ bào thai hoặc sinh ra bị dị tật bẩm sinh) [49].

Hình 2. Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa
hợp tâm t(14q;21q).


11

Hình 3. Sơ đồ hình thành giao tử và hợp tử của người mang chuyển đoạn hòa
hợp tâm t(21q;21q).
* Lặp đoạn (duplication) là hiện tượng một đoạn nào đó của NST được nhân đôi
lên. Lặp đoạn xảy ra khi 2 NST tương đồng ghép đôi với nhau không tương xứng
trong kỳ đầu của phân bào giảm phân, có sự đứt của 2 NST và trao đổi đoạn giữa 2
đoạn khác nhau của 2 NST trong cặp tương đồng. Trong trường hợp này có 2 NST
bị thay đổi cấu trúc, nhưng không mất đi hoặc tăng thêm vật liệu di truyền trong tế
bào. Khi các NST trong cặp tương đồng này phân ly nhau trong giảm phân sẽ tạo ra
hợp tử mang NST lặp đoạn (trisomi từng phần) hoặc NST thiếu một đoạn có liên
quan (monosomi từng phần)…
Ở người hay gặp trisomi một phần nhánh dài hoặc monosomi một phần
nhánh dài hoặc nhánh ngắn của NST số 18 (nhóm E). Biểu hiên lâm sàng với triệu
chứng là chậm phát triển trí tuệ, đặc biệt là dị dạng về mắt, sọ nhỏ, cổ ngắn, kèm
theo dị tật chân và tay…
* Đảo đoạn (invertion) là sự bất thường cấu trúc do NST bị đứt ở hai điểm, đoạn
giữa hai điểm đứt quay ngược 180
0
rồi nối lại, do đó một số gen bị đảo ngược thứ

12
tự so với đoạn ban đầu. Có ba kiểu đảo đoạn: đảo đoạn ngoài tâm, đảo đoạn quanh

tâm đối xứng, đảo đoạn quanh tâm không đối xứng.
- Đảo đoạn ngoài tâm: hai chỗ đứt ở cùng một nhánh của NST và đoạn đảo
không chứa tâm, NST không thay đổi hình thái.
- Đảo đoạn quanh tâm đối xứng: hai chỗ đứt ở hai nhánh và cách đều tâm,
NST không thay đổi hình thái.
- Đảo đoạn quanh tâm không đối xứng: hai chỗ đứt ở hai nhánh, khoảng cách
tâm không đều nhau, NST có cấu trúc lại và thay đổi hình thái.
1.3. Tình hình nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể ở những cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh trên thế giới
1.3.1. Tần số rối loạn nhiễm sắc thể trong những cặp vợ chồng sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
U Diedrich và cs (1983) nghiên cứu di truyền tế bào ở 136 cặp vợ chồng với
tiến sử sảy thai hai lần trở lên. Các tác giả đã phát hiện 15 trường hợp (chiếm tỷ lệ
11%) có bất thường NST [70].
Báo cáo của J.P. Fryns và cs (1984) khi phân tích NST trong 1068 cặp với
tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh ra con bị dị tật bẩm sinh. Trong tổng số 1068 cặp
được nghiên cứu, có 59 trường hợp mang bất thường NST (chiếm 5,5%) [41].
Một nghiên cứu khác trên 202 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp được thực hiện
bởi Kroshikina VG và cs năm 1984 cho thấy tỷ lệ các cặp mà một trong hai người
có rối loạn NST là 2,5% [44].
Năm 1998 Fryns JP và Buggenhout GV khi phân tích NST của 1743 cặp vợ
chồng sảy thai liên tiếp các tác giả đã phát hiện 5,34% trong số họ mang bất thường
NST [31].

13
Khi tiến hành làm xét nghiệm NST cho 61 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai
liên tiếp từ hai lần trở lên. Jiang J. và cs (2001) đã phát hiện 7 cặp vợ chồng (chiếm
tỷ lệ 11,5%) có một trong hai người bị rối loạn NST [42].
M. Azim năm 2003 đã sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G phân tích NST ở cả
hai vợ chồng của 300 cặp có hai hoặc nhiều hơn hai lần sảy thai tự nhiên. Kết quả

cho thấy có 16 cặp (chiếm tỷ lệ 5,3%) có bất thường NST ở một trong hai vợ hoặc
chồng [54].
Nghiên cứu ở 742 cặp vợ chồng (1484 trường hợp) có tiền sử sảy thai liên
tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh. Dubey và cs (2005) phân tích NST và lập
karyotype ở những cặp vợ chồng này đã phát hiện được 31 trường hợp ( chiếm tỷ lệ
2%) có bất thường về NST [23].
Lakshmi Rao và cs (2005) đã phân tích NST tổng số 160 cặp với tiền sử sảy
thai liên tiếp sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G. Kết quả phát hiện 18 trường hợp
mang rối loạn NST chiếm 11,25% tổng số các cặp nghiên cứu [46].
Năm 2006 Figen Celepa và cs đã phân tích NST của 645 cặp ( 1290 trường
hợp) có tiền sử sảy thai liên tiếp. Kết quả tìm thấy có 25 trường hợp (chiếm tỷ lệ
3,86%) mang bất thường NST [27].
Theo Razied Dehghani Firoozabadi và cs năm 2006: Phân tích NST của 88
cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp. Kết quả cho thấy 12.5% trong số họ mang
bất thường NST [61].
L.V.Tavokina và cs (2007) đã phát hiện 46 trường hợp (10,95%) có
karyotype mang rối loạn NST khi phân tích NST của 210 cặp vợ chồng có vấn đề
về sinh sản [51].
Usha R. Dutta (2010) và cs đã phân tích sự bất thường về di truyền tế bào
trong 1162 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp ở vùng phía nam Ấn độ. Sử
dụng phương pháp nhuộm băng G các tác giả đã phát hiện 78 trường hợp có bất
thường NST [72].

14
1.3.2. Tần số rối loạn nhiễm sắc thể giữa người bố hoặc người mẹ ở những cặp
vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh
Năm 1981 Claude Stoll đã phân tích NST của 122 cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai liên tiếp từ ba lần trở lên. Sử dụng phương pháp nhuộm băng R các tác giả
đã phát hiện 5 người nữ và 1 người nam mang chuyển đoạn NST t(2;17), t(5;9),
t(11;12),t(17;22) và t(13q14q) [20].

Năm 1983 A.Lippman-Hand đã phân tích NST của 177 cặp vợ chồng có tiền
sử sảy thai liên tiếp từ hai lần trở lên. Kết quả chỉ ra rằng số phụ nữ mang rối loạn
NST chiếm tỷ lệ nhiều hơn nam giới [13].
J.P. Fryns và cs (1984) đã phân tích NST trong 1068 cặp với tiền sử sảy thai
liên tiếp và sinh ra con bị dị tật bẩm sinh. Các tác giả đã phát hiện trong số những
người mang NST chuyển đoạn thì chuyển đoạn hòa hợp tâm xảy ra ở nữ cao hơn ở
nam còn chuyển đoạn tương hỗ thì ngược lại xảy ra ở nam cao hơn ở nữ [41].
Phân tích NST của 391 cặp vợ chồng sinh con mắc bệnh Down Stoll.C và cs
(1998) đã phát hiện được 7 cặp bố mẹ (5 người mẹ và 2 người bố) mang NST
chuyển đoạn hòa hợp tâm [63].
M. Azim (2003) sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G phân tích NST ở cả hai vợ
chồng của 300 cặp có hai hoặc nhiều hơn hai lần sảy thai tự nhiên. Tác giả phát hiện
thấy có 5 trường hợp mang đảo đoạn bao gồm: 1 trường hợp bố mẹ mang đảo đoạn
quanh tâm NST số 16, 3 người mẹ và 1 người bố mang đảo đoạn NST số 9 [54].
Theo Razied Dehghani Firoozabadi và cs (2006): Phân tích NST của 88 cặp
vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp cho thấy số phụ nữ mang bất thường về NST
nhiều hơn đáng kể so với nam giới [61].
Một báo cáo khác của Franssen M T M và cs (2007) khi nghiên cứu về vai
trò của bất thường cấu trúc NST ở những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp từ 2 lần trở

15
lên. Các tác giả cũng cho biết bất thường NST ở người vợ cao hơn ở người chồng
[32].
Simona Farcas và cs (2007) khi phân tích NST tế bào máu ngoại vi ở cả hai
bố và mẹ của 260 cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp. Các tác giả đã phát hiện được ở
người nam mang NST chuyển đoạn chiếm tỷ lệ 1,53%, người nữ mang NST chuyển
đoạn chiếm tỷ lệ 4,23% [64].
1.3.3. Tần số các kiểu chuyển đoạn nhiễm sắc thể ở các cặp vợ chồng sảy thai
và sinh con bị dị tật
Chuyển đoạn NST được ghi nhận là kiểu rối loạn cấu trúc NST hay gặp nhất

ở những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp ở giai đoạn sớm và sinh con bị dị
tật bẩm sinh [64].
Phân tích NST trên 136 cặp vợ chồng với tiền sử sảy thai 2 lần trở lên. U
Diedrich và cs (1983) đã chỉ ra rằng chuyển đoạn của NST số 1,7 hoặc 22 thì có
nhiều khả năng dẫn đến sảy thai. Trong khi đó chuyển đoạn ở những NST khác ví
dụ: NST số 5, 9, 14, 21 thì có nhiều khả năng sinh ra những đứa trẻ dị tật [70].
A.Lippman-Hand (1983) đã phân tích NST của 177 cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai liên tiếp từ hai lần trở lên. Kết quả chỉ ra rằng 2-3% các cặp vợ chồng có
tiền sử sảy thai sớm mang chuyển đoạn cân bằng [13].
Fortuny và cs (1988) đã phân tích NST và lập karyotype ở 445 cặp vợ chồng
có tiền sử sảy thai liên tiếp. Trong tổng số các cặp nghiên cứu các tác giả đã phát
hiện 19 cặp vợ chồng (chiếm tỷ lệ 4,2%) mang NST chuyển đoạn [30].
M. Azim năm 2003 đã sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G phân tích NST ở cả
hai vợ chồng của 300 cặp có hai hoặc nhiều hơn hai lần sảy thai tự nhiên. Kết quả
cho thấy có 7 trường hợp mang rối loạn NST kiểu chuyển đoạn [54].
Razied Dehghani Firoozabadi M.D và cs (2006): Phân tích NST của 88 cặp
vợ chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp kết quả cho thấy 2,27% trong số họ mang rối
loạn NST kiểu chuyển đoạn cân bằng [61].

16
Theo A L Zarina và cs (2006) sảy thai tự nhiên là một hiện tượng phổ biến
chiếm tỉ lệ 1/8 các trường hợp mang thai. Các tác giả cũng cho biết gần 5% các
trường hợp sảy thai là do bố mẹ mang rối loạn NST chuyển đoạn cân bằng [14].
Phân tích NST tế bào máu ngoại vi ở cả hai bố và mẹ của 260 cặp vợ chồng
sảy thai liên tiếp từ 2 lần trở lên được thực hiện bởi Simona Farcas và cs (2007).
Kết quả cho thấy trong tổng số 260 cặp này các trường hợp bất thường NST kiểu
chuyển đoạn chiếm 2,88% [64].
1.3.3.1. Tần số giữa chuyển đoạn tương hỗ và chuyển đoạn hòa hợp tâm
Năm 1984 J.P. Fryns và cs đã báo cáo kết quả phân tích NST trong 1068 cặp
với tiền sử sảy thai liên tiếp và sinh ra con bị dị tật bẩm sinh. Có 33 trường hợp

mang chuyển đoạn tương hỗ (chiếm tỷ lệ 3,09%) và 20 trường hợp mang chuyển
đoạn hòa hợp tâm (chiếm tỷ lệ 1,87%) [41].
Mauro Campana và cs (năm 1986) nghiên cứu 5445 cặp vợ chồng có sảy thai
tự nhiên liên tiếp. Kết quả 5% trong số những cặp vợ chồng này có một trong hai
người vợ hoặc chồng mang chuyển đoạn cân bằng, trong đó chuyển đoạn tương hỗ
chiếm 2/3 và chuyển đoạn hòa hợp tâm chiếm 1/3 [52].
Phân tích NST và lập karyotype ở 445 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai liên
tiếp, Fortuny và cs (1988) đã phát hiện trong các cặp vợ chồng mang rối loạn NST
kiểu chuyển đoạn có 16 cặp mang chuyển đoạn tương hỗ và 3 cặp mang chuyển
đoạn hòa hợp tâm [30].
Jiang J. và cs năm 2001 đã tiến hành làm xét nghiệm NST cho 61 cặp vợ
chồng có tiền sử sảy thai liên tiếp từ hai lần trở lên. Các tác giả phát hiện 1 trường
hợp mang chuyển đoạn tương hỗ và 5 trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm
[42].
Năm 2007 khi Simona Farcas và cs phân tích NST của 260 cặp vợ chồng có
tiền sử sảy thai liên tiếp . Kêt quả trong tổng các trường hợp bất thường NST kiểu

17
chuyển đoạn có 9 trường hợp mang chuyển đoạn tương hỗ (chiếm 1,73%) và 6
trường hợp mang chuyển đoạn hòa hợp tâm (chiếm 1.15%) [64].
A L Zarina và cs (2006) cho biết chuyển đoạn tương hỗ chiếm 0,2% trong
dân số. Tuy nhiên ở những cặp vợ chồng có nhiều hơn 3 lần sảy thai ở 3 tháng đầu
tiên thì tỷ lệ này có thể tăng tới 9,2% [14].
Usha R. Dutta (2010) và cs đã phân tích NST của 1162 cặp vợ chồng có tiền
sử sảy thai liên tiếp ở vùng phía nam Ấn độ. Nghiên cứu này chỉ ra rằng phần lớn
các trường hợp bất thường được tìm thấy là chuyển đoạn tương hỗ cân bằng. Trong
78 trường hợp bất thường có 3 loại chuyển đoạn giữa các cặp NST lần đầu tiên
được phát hiện bao gồm (3;14), (18;22) và (X;22) [72].
Trong rối loạn cấu trúc NST kiểu chuyển đoạn hòa hợp tâm có chuyển đoạn
giữa các NST nhóm D với nhóm D (D/D), chuyển đoạn giữa các NST nhóm D với

các NST nhóm G (D/G) hoặc chuyển đoạn giữa các NST nhóm G với các NST
nhóm G (G/G). Dưới đây là một số các nghiên cứu về chuyển đoạn hòa hợp tâm ở
những cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và sinh con bị dị tật bẩm sinh.
Khi nghiên cứu một cặp vợ chồng 25 tuổi với tiền sử 2 lần sảy thai liên tiếp.
PR Scarbrough và cs (1984) thực hiện băng G trên tế bào của người chồng phát hiện
sự có mặt của chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 13 (thuộc nhóm D) với NST
số 14 (thuộc nhóm D), karyotype của chồng 45,XY,t(13q;14q). Phân tích NST của
người vợ phát hiện chuyển đoạn tương hỗ cân bằng giữa NST số 7 và NST số 13,
karyotype là 46,XX,t(7;13)(p21;q22) [59].
Một cặp vợ chồng 41 tuổi có tiền sử 11 lần sảy thai liên tiếp được Anil
Biricik và cs (2004) phân tích NST và lập karyotype. Kết quả người chồng mang
NST chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 15 (thuộc nhóm D) với NST số 15
(thuộc nhóm D), karyotype là 45,XY,t(15q;15q), người vợ có karyotype bình
thường 46,XX [15].

18
391 cặp vợ chồng có con mắc bệnh Down được Stoll.C và cs (1998) phân
tích NST. Các tác giả đã phát hiện được 7 cặp bố mẹ mang NST chuyển đoạn hòa
hợp tâm cân bằng giữa NST số 14 (nhuộc nhóm D) và NST số 21 (thuộc nhóm G).
Karyotype ở những người mẹ là 45,XX,t(14q;21q) và ở những người bố là
45,XY,t(14q;21q) [63].
Phân tích NST trong một gia đình mang thai lần thứ nhất có con gái bình
thường, lần thứ 2 bị sảy và lần thứ 3 sinh được một trẻ trai mắc bệnh Down. Cyril
cyrus và cs (2006) phát hiện ở người vợ có karyotype bình thường là 46,XX, chồng
là người bình thường nhưng mang NST chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 13
(thuộc nhóm D) với NST số 21 (thuộc nhóm G), karyotype của chồng là
45,XY,t(13q;21q) [21].
Ngoài rối loạn cấu trúc kiểu chuyển đoạn giữa 2 NST như trên, đã có một số
báo cáo về chuyển đoạn NST phức tạp sau đây:
Ulrike A Mau và cs (2000) đã báo cáo kết quả phân tích NST trong một gia

đình có một trẻ mắc bệnh Down do chuyển đoạn với karyotype là
46,XY,t(15q;21q). Người bố có karyotype bình thường 46, XY, người mẹ mang
NST chuyển đoạn hòa hợp tâm giữa NST số 15 (thuộc nhóm D) với NST số 21
(thuộc nhóm G) và đảo đoạn quanh tâm NST số 21, karyotype là
45,XX,t(15q;21q),inv(21)(q21.1q22.1) [71].
Một trường hợp rối loạn NST cân bằng phức tạp bao gồm NST số 9, 14 và
13 ở người phụ nữ với tiền sử sảy thai liên tiếp được Sei Kwang Kim và cs (2001)
nghiên cứu. Phân tích NST cho thấy karyotype của chồng bình thường, karyotype
của vợ mang rối loạn NST cân bằng phức tạp bao gồm NST 9, 14 và 13, có 3 điểm
đứt: 9p21.2, 14q21 và 13q12.2, karyotype của vợ là
46,XX,t(9;14;13)(p21.2,q21;q12.2) [65].
Năm 2009 Priya A.Iyer và cs đã báo cáo về một trường hợp ở người phụ nữ
25 tuổi với tiền sử sảy thai liên tiếp ba lần. Khi phân tích NST phát hiện karyotype

19
của người phụ nữ này mang một chuyển đoạn phức tạp bao gồm NST số 7, 13 và
15, karyotype là 46,XX, t(7;15;13)(p15;q21;q31). Trong khi đó karyotype của bố
mẹ và của chồng là hoàn toàn bình thường [60].
1.3.3.2. Tần số các kiểu rối loạn khác ở các cặp vợ chồng sảy thai liên tiếp và
sinh con bị dị tật bẩm sinh.
Năm 1981 Claude Stoll đã phân tích NST của 122 cặp vợ chồng có tiền sử
sảy thai liên tiếp từ ba lần trở lên, 2 karyotype bất thường khác được phát hiện là
46,XXq- và 47,XXX [20].
J.P. Fryns và cs (1984) đã phân tích NST trong 1068 cặp với tiền sử sảy thai
liên tiếp và sinh ra con bị dị tật bẩm sinh. Ngoài bất thường NST kiểu chuyển đoạn
các tác giả đã phát hiện có 6 trường hợp mang các loại bất thường NST khác (chiếm
tỷ lệ 0,56%) [41].
Năm 1986 Mauro Campana và cs nghiên cứu vai trò của bất thường NST
trong sảy thai liên tiếp ở 5445 cặp vợ chồng (396 cặp được các tác giả tiến hành
phân tích NST, 5049 cặp được tập hợp từ các tài liệu khác) có sảy thai tự nhiên 2

lần trở lên. Các tác giả cho biết trong 1% những cặp có bất thường NST, phần lớn là
lệch bội tế bào soma hoặc thể khảm, đảo đoạn quanh tâm của vùng dị nhiễm sắc
NST số 9 được phát hiện trong 3% của 396 cặp đã được phân tích NST và 1% trong
số 5049 cặp tập hợp từ các tài liệu khác [52].
Khi tiến hành làm xét nghiệm NST cho 61 cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai
liên tiếp từ hai lần trở lên, Jiang J. và cs (2001) đã phát hiện 1 trường hợp mang
đảo đoạn quanh tâm [42].
M. Azim (2003) sử dụng kỹ thuật nhuộm băng G phân tích NST ở cả hai vợ
chồng của 300 cặp có hai hoặc nhiều hơn hai lần sảy thai tự nhiên. Kết quả cho thấy
trong các trường hợp mang bất thường NST có 5 trường hợp là đảo đoạn, 2 trường
hợp mất đoạn và 2 trường hợp có bất thường NST giới tính [54].

×