Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ứng dụng kỹ thuật phân tử lai huỳnh quang (FISH) nhằm xác định nhanh một số loài tảo độc hại biển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.48 KB, 11 trang )

Application of fluorescent in situ
hybridization (FISH) to identify quickly some
marine toxic algae species in Vietnam

Luu Xuan Hoa

Hanoi University of Science,VNU; Faculty of Biology
Major: Genetics; Code: 60 42 70
Supervisors: Ass. Prof. Dr. Dinh Doan Long
Date of Presenting Thesis: 2011

Abstract. Tổng quan về kỹ thuật FISH: khái quát về kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ
(FISH); tình hình nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật FISH tại Việt Nam; các bước cơ bản
của quy trình lai huỳnh quang tại chỗ FISH; đặc điểm sinh thái của một số loài vi tảo
biển độc hại nghiên cứu. Nghiên cứu về vật liệu và phương pháp nghiên cứu: địa điểm
thu mẫu và đối tượng nghiên cứu; phương pháp thu và lưu giữ mẫu; phương pháp phân
loại hình thái; phương pháp kiểm tra phân loại bằng AND và thiết kế đầu dò; phương
pháp lai huỳnh quang tại chỗ. Trình bày các kết quả nghiên cứu: kết quả phân lập và
phân loại các chủng vi tảo độc hại bằng hình thái; ảnh hưởng của độ mặn tới nuôi sinh
khối vi tảo tạo nguyên liệu; kết quả giải trình tự và phân loại bằng ADN các mẫu nghiên
cứu; tối ưu nhiệt độ lai và thử nghiệm đầu dò

Keywords. Di truyền học; Kỹ thuật phân tử lai huỳnh quang; Tảo độc; Biển


Content
MỞ ĐẦU
Trong nghiên cứu phân loại sinh vật phù du biển nói chung và vi tảo biển độc hại nói
riêng, nhiều nhóm loài sinh vật rất khó hoặc hoàn toàn không thể phân loại đến loài nếu chỉ
bằng phương pháp so sánh hình thái. Sự giống nhau về nhiều đặc điểm hình thái bên ngoài và
khó nhận biết những đặc điểm khác nhau của chúng rất dễ dẫn đến nhầm lẫn trong nghiên cứu


phân loại. Cùng với số lượng loài rất lớn có nhiều đặc điểm hình thái giống nhau, công tác
nghiên cứu phân loại vi tảo biển trong nhiều trường hợp gặp nhiều khó khăn, tốn thời gian.
Những điều này đã gây cản trở đối với công tác nghiên cứu hệ sinh thái biển, đánh giá và quản
lý nguồn lợi sinh vật biển nói chung và các nghiên cứu chuyên sâu về các nhóm loài nói riêng.
Kế thừa các đặc tính ưu việt của các kỹ thuật di lai các axit nucleic và trên nền tảng của
kỹ thuật lai tại chỗ (in situ hybridization - ISH), kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ (fluorescence
in situ hydridization - FISH) đã được phát triển. Kể từ khi ra đời, nó đã trở thành một công cụ
mạnh trong nhiều nghiên cứu sinh học, không chỉ các lĩnh vực sinh học phân tử và tế bào, mà
cả trong các nghiên cứu về sinh thái học, môi trường, trong chẩn đoán và nghiên cứu phát sinh
loài. Kỹ thuật FISH ra đời đã khắc phục được nhiều trở ngại trong nghiên cứu phân loại sinh
vật. Các trở ngại, như các vấn đề khó khăn do phân loại bằng hình thái, nhược điểm về thời
gian phân tích kéo dài, các yêu cầu đòi hỏi về lượng mẫu lớn hay các yêu cầu về môi trường
nuôi cấy đặc chủng để sàng lọc loài… có thể được khắc phục bằng kỹ thuật FISH. Bên cạnh đó,
bằng kỹ thuật này, các nhà nghiên cứu không chỉ phân tích định tính mà còn có thể định lượng
chính xác số lượng tế bào sinh vật, không gian phân bố hay mối tương quan với môi trường của
các vi sinh vật. Kỹ thuật FISH đặc biệt hữu ích trong nghiên cứu phân loại sinh vật phù du
trong môi trường biển nói chung và các loài tảo độc hại nói riêng.
Nhằm từng bước ứng dụng kỹ thuật FISH để giải quyết những khó khăn trong phân loại
các loài vi tảo độc hại biển, chúng tôi tiến hành đề tài “Ứng dụng kỹ thuật phân tử lai huỳnh
quang (FISH) nhằm xác định nhanh một số loài tảo độc hại biển Việt Nam”. Kết quả mong
đợi của đề tài sẽ giúp cho việc nghiên cứu đánh giá, quan trắc biến động các loài vi tảo độc hại,
cảnh báo các hiện tượng ô nhiễm môi trường biển (như thủy triều đỏ) trở nên thuận tiện, nhanh
chóng và hiệu quả hơn.
PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ KỸ THUẬT FISH
1.1. Các bƣớc cơ bản của quy trình lai huỳnh quang tại chỗ - FISH
Sự ra đời của kỹ thuật FISH dựa trên các cải tiến của kỹ thuật ISH đã ra đời và là sự kết
hợp chính xác của phép lai một đoạn oligonucleotit (đầu dò) có gắn tín hiệu huỳnh quang với
một trình tự ADN đích đặc trưng. Bằng quan sát trực quan từ kính hiển vi huỳnh quang, các
phân tử huỳnh quang phát sáng với những màu sinh động cho phép hiển thị các đoạn ADN,
nhiễm sắc thể hay tế bào đích. Nhờ đó mà các nhà nghiên cứu có thể nhận dạng, liệt kê và định

vị các tế bào sinh vật trong mẫu môi trường tự nhiên hay trong các mô bệnh phẩm
Quy trình này bao gồm các bước cơ bản sau:
- Bước 1: Chuẩn bị mẫu và đầu dò có trình tự nucleotit bổ sung đặc hiệu với trình tự đặc hiệu
cần nhận biết.
- Bước 2: Cố định mẫu nghiên cứu.
- Bước 3: Lai giữa đầu dò và trình tự đích đặc hiệu nằm trong tế bào của mẫu.
- Bước 4: Rửa mẫu để loại bỏ các đầu dò không được lai (đầu dò tự do).
- Bước 5: Hiển thị, quan sát và phân tích kết quả bằng kính hiển vi huỳnh quang.
1.2. Tình hình nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật FISH tại Việt Nam
Cho đến nay, tại Việt Nam, kỹ thuật FISH chủ yếu được nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh
vực y học. Một số nghiên cứu xây dựng quy trình chẩn đoán trước sinh bằng kỹ thuật FISH đã
được tiến hành. Các nghiên cứu này được dựa trên các trình tự ADN đích thuộc các nhiễm sắc
thể nhằm phát hiện một cách chính xác các bất thường trên các nhiễm sắc thể (NST) tương ứng
với các bệnh di truyền được quan tâm (Đặng Thị Hồng Nhung và cộng sự, 2008). Trong một
số nghiên cứu khác, ứng dụng kỹ thuật lai tại chỗ huỳnh quang được dùng để chẩn đoán trước
sinh hội chứng Đao, hội chứng Tớc-nơ cũng đã cho kết quả thành công. Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy, việc sử dụng kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ đã cho kết quả rất chính xác khi
so sánh với phương pháp phân tích nhiễm sắc thể của tế bào ối (Trần Thị Thu Hương và cộng
sự, 2005; 2006). Bên cạnh đó, các nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật FISH trong việc phát hiện các
lệch bội nhiễm sắc thể số 13, 18, 21, X, Y từ tế bào dịch ối bằng kỹ thuật lai huỳnh quang tại
chỗ cũng đã thành công. Trên cơ sở phân tích các mẫu thu từ các phụ nữ mang thai giai đoạn
17 - 25 tuần có nguy cơ cao bị dị tật, kỹ thuật FISH đã giúp phát hiện 1 trường hợp mắc hội
chứng Patau (trisomy 13), 1 trường hợp mắc hội chứng Đao (trisomy 21), 1 trường hợp bất
thường cánh dài của NST 16. Kết quả cũng cho thấy 100% mẫu kết quả FISH phù hợp với kết
quả phân tích về NST liên quan đến các NST số 13, 18, 21, X, Y. Quy trình chuẩn nhằm chẩn
đoán trước sinh bằng chọc ối làm xét nghiệm FISH an toàn cũng đã được hoàn thiện (Nguyễn
Thị Tân Sinh và cộng sự, 2011). Sử dụng kỹ thuật FISH nhằm phát hiện sự khuếch đại gen
NMYC trên các bệnh nhân u nguyên bào thần kinh đã được tiến hành tại các bệnh viện Nhi
trung ương và cho kết quả tốt đẹp. Một số biến đổi di truyền trong u nguyên bào thần kinh có ý
nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn phác đồ điều trị và tiên lượng bệnh, trong đó sự khuếch

đại gen NMYC được xem là yếu tố quan trọng nhất đã được tìm thấy. Kết quả thành công này
có ý nghĩa quan trọng hỗ trợ các bác sỹ lâm sàng trong việc phân nhóm bệnh nhân và lựa chọn
phác đồ điều trị thích hợp (Vũ Đình Quang và cộng sự, 2010).
Các nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ FISH đối với các loài sinh vật
thủy sinh tại Việt Nam gần như rất ít. Trong một nghiên cứu gần đây tại Viện nghiên cứu hải
sản về ứng dụng kỹ thuật FISH cho việc nhận diện nhanh 2 loài tảo giáp độc hại A. tamarense
và A. catenella, một số thử nghiệm đã được tiến hành. Các trình tự đích thuộc vùng D1- D2
trên nhiễm sắc thể mã hóa cho tiều phần lớn LSU của ribosome của loài được lấy làm cơ sở
thiết kế đầu dò. Tín hiệu huỳnh quang FITC được thiết kế gắn với đầu dò đặc hiệu. Kết quả
nghiên cứu đã cho thấy các trùng lặp, giống nhau về đặc điểm hình thái của các loài tảo giáp
từng gây khó khăn trong quan trắc tảo độc hại đã phần nào được giải quyết nhờ kỹ thuật FISH.
Đây cũng là một trong những cơ sở ban đầu cho việc ứng dụng kỹ thuật này trong quan trắc
cảnh báo về sự bùng phát các đối tượng thủy sinh gây thủy triều đỏ tại Việt Nam (Nguyễn Văn
Nguyên và cộng sự, 2011).
PHẦN 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm thu mẫu và đối tƣợng nghiên cứu
Hai mẫu tảo độc hại được thu tại vùng biển Cát Bà – Hải Phòng, gồm có:
+ Mẫu A. sp6 (Alexandrium affine) được thu vào ngày 20/7/2010 tại khu vực cửa biển
thuộc Bến Bèo (Cát Bà, Hải Phòng) với điều kiện môi trường như sau: độ mặn nước biển:
27‰, pH 7,72.
+ Mẫu A. sp7 (Alexandrium pseudogonyaulax) được thu vào ngày 27/4/2011 tại khu
vực vịnh cảng Cát Bà (Hải Phòng) với các điều kiện môi trường nước biển như sau: độ mặn
nước biển: 29‰, pH 7,44.
2.2. Phƣơng pháp thu và lƣu giữ mẫu
Mẫu được thu bằng lưới thu thực vật phù du có đường kính 20cm, kích thước mắt lưới
20µm, thu theo phương thẳng đứng. Mẫu sau đó được bảo quản trong lọ và giữ trong điều kiện
nhiệt độ từ 4 – 15
o
C. Mẫu này sau đó được chuyển về phòng thí nghiệm để phân lập
(Hallegraeff và cộng sự, 1995; Anderson, 1995).

2.3. Phân lập các chủng vi tảo
Theo phương pháp thu tế bào đơn lẻ bằng micropipet của Richmon (2004) và Andersen
(2005): Môi trường nuôi được sử dụng là môi trường IMK (Daigo IMK – mua từ hãng Nihon
Pharmaceutical Co., Ltd.) dành cho nhóm tảo giáp (Alexandrium).
2.4. Phƣơng pháp nuôi giữ các chủng vi tảo biển
Theo Shoko và cộng sự (2005); Nguyễn Văn Nguyên và cộng sự (2011):
- Cường độ chiếu sáng: 2.500 lux, bằng hệ thống ánh sáng trắng (đèn neon);
- Chế độ chiếu sáng: 13h sáng liên tục/11h tối liên tục, được điều khiển bởi đồng hồ đóng
ngắt tự động;
- Nhiệt độ nuôi: ổn định ở 24
o
C liên tục trong buồng có điều hòa nhiệt độ;
- Môi trường nuôi: IMK.
2.5. Phƣơng pháp phân loại hình thái
Phân loại các mẫu tảo giáp được thực hiện chủ yếu dựa vào công thức tấm vỏ tế bào đã
được nhuộm Calco - fluor, quan sát dưới kính hiển vi quang học. Các tài liệu chính để phân loại
là: Balech (1995), Abe (1967a,b), Larsen và cộng sự (2004).
2.6. Phƣơng pháp chuẩn bị ADN khuôn cho PCR
Các ống mẫu chứa tế bào được sốc nhiệt qua lại 3 lần giữa -20
o
C và 90
o
C trong thời
gian mỗi 20 giây ở mỗi điều kiện, nhằm làm vỡ tế bào và dung giải ADN ra ngoài. Các mẫu
được lắc rung (votex) và ly tâm trở lại (5.000vòng/phút) chuẩn bị cho phản ứng PCR (Sebastián
và cộng sự (2001).
2.7. Phƣơng pháp Singel cell PCR
Theo Sebastián và cộng sự (2001); Shoko và cộng sự (2005): Phản ứng PCR được tiến
hành 2 lần để nhân vùng D1 – D2 của gen mã hóa tiểu đơn vị lớn 28s ARN ribosome. Cặp mồi
dùng cho PCR lần 1: S1R (5’-TACCTGG TTGATCCTG CCAG-3’) và 28-1483R (5’-

GCTACTACCACCAAGATCTGC-3’). Cặp mồi dùng cho PCR lần 2 là: D1R (5’-
ACCCGCTGAATTTAAGCATA-3’) và D2C (5’-CCTT GGTCCGTTTCAAGA-3’).
2.8. Phƣơng pháp kiểm tra phân loại bằng ADN
Giải trình tự ADN vùng D1-D2 trên máy Applied Biosystems 3130 Series. Xây dựng
cây phát sinh chủng loại theo phương pháp kết nối lân cận (neighbor joining) sử dụng thuật
toán Jukes-Cantor với độ lặp lại 1000 lần. Cây phát sinh chủng loại được xây dựng trên phần
mềm Mega phiên bản 5.03.
2.9. Phƣơng pháp thiết kế đầu dò đặc hiệu
Sử dụng công cụ ClustalW, phần mềm BioEdit để sắp xếp, so sánh các trình tự nucleotit
thu được với trình tự của những loài gần gũi về mặt phân loại. Trên cơ sở đó, lựa chọn đoạn
ADN đặc trưng nhất cho loài để thiết kế đầu dò. Đầu dò được chế tạo với yêu cầu gắn thêm
chất phát huỳnh quang fluorescein isothiocyanate (FITC) ở đầu 5’ hiển thị sự hiện diện của
trình tự đặc trưng.
2.10. Phƣơng pháp lai huỳnh quang tại chỗ (dựa theo phương pháp của Shoko và cộng sự
(2005)):
 Mẫu được đưa vào ly tâm thu tế bào (3000vòng/phút trong 1 phút ở 4
o
C).
 Cố định tế bào bằng 1ml dung dịch PBS (5x). Ly tâm thu mẫu và loại nước trong mẫu
lần lượt bằng dung dịch ethanol 50% và 80%. Ly tâm thu tế bào, lai với đầu dò trong
dung dịch Formamide (40%), SSC (5x) ở các thang nhiệt độ khác nhau: 37°C, 40°C,
43°C, 46°C, 49°C, 52°C trong 5 phút.
- Mẫu được rửa 2 lần trong SSC (5x).
Tế bào lai huỳnh quang sau đó được quan sát trên kính hiển vi huỳnh quang .
PHẦN 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phân lập và phân loại các chủng vi tảo độc hại bằng hình thái
Trên cơ sở các mẫu thu được từ vùng biển Cát Bà, 2 chủng vi tảo độc hại đã được phân
lập, nuôi giữ và phân loại sơ bộ dựa trên các đặc điểm về hình thái. Hai loài tảo giáp được xác
định sơ bộ là thuộc chi Alexandrium bao gồm:
3.1.1. Loài Alexandrium affine





Hình dạng ngoài của tế bào (A); Tấm
1' với lỗ bụng và tổ hợp lỗ đỉnh (B, C); Tấm
S.a hình thang, không có phần phụ (D).

3.1.2. Loài A. pseudogonyaulax







3.2. Ảnh hƣởng của độ mặn tới nuôi sinh khối vi tảo tạo nguyên liệu
Trong điều kiện nuôi có độ mặn 30‰ (cường độ chiếu sáng 2500lux, chế độ chiếu sáng
13 giờ sáng: 11 giờ tối) loài A. affine phát triển tốt nhất trong các chế độ nuôi cấy. Đối với loài
A. pseudogonyaulax, kết quả thí nghiệm cho thấy, điều kiện về độ mặn thuận lợi nhất cho sự
sinh trưởng và phát triển của chúng với những điều kiện phòng thí nghiệm như đã nêu trên là ở
29‰.
3.3. Kết quả giải trình tự và phân loại bằng ADN các mẫu nghiên cứu
Ở mỗi mẫu thí nghiệm, đoạn mồi D1R, D2C đã nhân được một đoạn ADN duy nhất có
kích thước tương ứng với đoạn dự kiến. Vùng D1-D2 của mẫu L3 (xác định hình thái là A.
affine) có kích thước gồm 651bp. Đối với mẫu L4 (xác định hình thái là A. pseudogonyaulax),
vùng D1-D2 có trình tự bao gồm 650 bp. Kết quả phân tích BLAST 2 trình tự nói trên cũng đã
khẳng định hai loài này là A. affine và A. pseudogonyaulax.
3.4. Thiết kế đầu dò lai huỳnh quang tại chỗ
Phần mềm Bioedit được sử dụng để sắp xếp, so sánh với các trình tự tham khảo (từ

NBCI) tại vùng tương đồng D1 - D2 của các loài thuộc chi Alexandrium. Những khác biệt từ
các trình tự bảo thủ này so với các loài khác là cơ sở cho việc chọn lọc trình tự phù hợp để thiết
kế đầu dò đặc hiệu cho từng loài. Kết quả sắp xếp và so sánh đối với loài A. affine tìm ra trình
tự nucleotit từ vị trí 657 đến 676 phù hợp để thiết kế đầu dò. Trình tự đầu dò cho loài A. affine
được xác định là: 5’-TGTAAGCTCTAGTAGGGTAG-3’. Tương tự như vậy, các kết quả so
sánh đối với trình tự đoạn D1 – D2 của loài A. pseudogonyaulax cũng tìm được trình tự 774
đến 794 phù hợp cho thiết kế đầu dò đặc trưng cho loài này. Trình tự đầu dò được xác định là:
5’-ACAGCTGACAATCGCAA TTG-3’.
Các trình tự này sau đó được đặt sản xuất bởi công ty TOS (Nhật Bản) với điều kiện có
gắn tín hiệu Fluorescein 5-isothiocyanate (FITC) vào đầu 5’ để phục vụ cho các thí nghiệm lai
huỳnh quang tiếp theo.
3.5. Tối ƣu nhiệt độ lai và thử nghiệm đầu dò
Trên cơ sở đầu dò thiết kế được, các thí nghiệm lai huỳnh quang tại chỗ kiểm tra cho 2
loài A. affine và A. pseudogonyaulax đã được tiến hành. Kết quả thử nghiệm cho thấy, có sự
tương đối giống nhau về nhiệt độ lai lai đối với cả 2 đầu dò trên hai đối tượng vi tảo.



Tấm 1’ hình 5 cạnh, không liên kết
với lỗ bụng và có 1 lỗ bụng lớn tròn tiếp
giáp với mép; ở một vài tế bào, lỗ bụng ở vị
trí tiếp giáp của các tấm 1’-4’6”














3.6. Thử nghiệm đầu dò với các mẫu vi tảo thu ngoài tự nhiên
Nhằm hoàn thiện ứng dụng kỹ thuật này, thử nghiệm lai huỳnh quang với các mẫu thu
ngoài tự nhiên đã được tiến hành với nhiệt độ lai ở 43°C. Kết quả cho thấy, trong số 32 mẫu thu
từ biển Cát Bà, đầu dò cho loài A. affine đã phát hiện ra 17 mẫu có sự hiện diện của loài này
với mật độ tế bào khác nhau (Hình 3.11). Trong 15 mẫu còn lại, đầu dò không tìm được trình tự
đích nào. Trong khi đó, một số phân tích thành phần của mẫu thì chỉ thu được rất ít thành phần
loài của nhóm Alexandrium.













Quy trình lai huỳnh quang tại chỗ (FISH) sử dụng đầu dò rARN có gắn tín hiệu FITC
đối với hai loài A. affine và A. pseudogonyaulax được tổng hợp lại và đề nghị như sau:
 Mẫu (5000-7000 tế bào/ml) được đưa vào ly tâm thu tế bào (3000vòng/phút trong 1
phút, 4
o

C).
 Cố định tế bào bằng 1ml dung dịch PBS (5x) có chứa paraformandehyde (4%), để mẫu
trên đá lạnh trong 5 phút.
 Ly tâm mẫu 3000vòng/phút trong 1 phút (4
o
C).
 Loại nước trong mẫu theo 2 bước:

Đối với loài A. affine, nhiệt độ
lai phù hợp là 40°C và 43°C. Trong đó,
tín hiệu huỳnh quang thu được rõ nét
nhất ở tại 43°C.


Tương tự đối với loài A.
pseudogonyaulax, kết quả thử nghiệm
cũng đã cho thấy, đối với mẫu được lai
ở nhiệt độ 43°C cho kết quả tốt nhất,
hình ảnh sắc nét.

Lai đầu dò A. affine với
mẫu tự nhiên. Các mũi tên chỉ
các tế bào A. affine dưới ánh
sáng thường (trái) và được
phát hiện với màu xanh đặc
trưng (phải).

Lai đầu dò A.
pseudogonyaulax với mẫu tự
nhiên. Các mũi tên chỉ các tế

bào A. pseudogonyaulax dưới
ánh sáng thường (trái)
và được phát hiện với màu
xanh đặc trưng (phải)

- Thêm 1ml dung dịch ethanol 50% vào mẫu, ủ trên đá trong 5 phút. Ly tâm thu tế bào
(3000vòng/phút trong 1 phút, 4
o
C).
- Thêm 1ml dung dịch ethanol 80% vào mẫu, ủ trên đá trong 5 phút. Ly tâm thu tế bào
(3000vòng/phút trong 1 phút, 4
o
C).
 Thêm 500µl dung dịch lai (gồm: Formamide (40%), SSC (5x), mẫu dò có gắn huỳnh
quang (50 pmol)).
 Lai tế bào ở 43°C trong 5 phút.
 Sau khi lai, mẫu được rửa 2 lần:
- Thêm 1ml SSC (5x) vào mẫu, ủ mẫu ở 50
o
C trong 5 phút. Ly tâm thu tế bào
(3000vòng/phút trong 1 phút, 4
o
C).
- Thêm 1ml SSC (5x) vào mẫu, ủ mẫu ở 50
o
C trong 5 phút. Ly tâm thu tế bào
(3000vòng/phút trong 1 phút, 4
o
C).
Sản phẩm lai huỳnh quang sau đó được quan sát trên kính hiển vi huỳnh quang

(ECLIPSE E800, Nikon, Tokyo, Japan) với kính lọc sắc B-2A, bước sóng kích thích tín hiệu
FITC 490 nm, hiển thị và chụp ảnh tế bào bằng camera DS Nikon. Tổng thời gian thao tác cho
quá trình này đã được tính toán là khoảng 2,5 giờ. Điều này cho phép các thí nghiệm nghiên
cứu phát hiện các loài vi tảo biển độc hại chính xác, nhanh hơn nhiều so với các phương pháp
phân tích truyền thống bằng hình thái trước đây.

KẾT LUẬN
Chúng tôi đã rút ra được một số kết luận chính sau từ nghiên cứu này:
1. Đã xác định trình tự gen vùng mã hóa cho đoạn D1 – D2 của tiểu phần lớn (LSU) thuộc
ribosome của hai loài tảo giáp độc hại A. affine và A. pseudogonyaulax biển Việt Nam.
2. Đã thiết kế và thử nghiệm thành công hai đầu dò phân tử gắn tín hiệu huỳnh quang
FITC phục vụ cho ứng dụng kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ đối với hai loài tảo độc A.
affine và A. pseudogonyaulax biển Việt Nam. Các đầu dò hoạt động tốt trên cả mẫu nuôi
cấy và mẫu thu ngoài tự nhiên và các đầu dò đảm bảo tính đặc hiệu của loài.
3. Đã ứng dụng thành công kỹ thuật FISH trong việc xác định nhanh chóng và chính xác 2
loài tảo độc hại biển Việt Nam nói trên, làm cơ sở cho việc ứng dụng phương pháp quan
trắc, đánh giá nhanh môi trường biển, nghiên cứu dự đoán diễn biến thủy triều đỏ tại các
vùng ven biển Việt Nam sau này.

KIẾN NGHỊ
Cần nghiên cứu và thiết kế thêm các đầu dò nhằm ứng dụng kỹ thuật lai huỳnh quang
để nhận diện nhanh, nhiều loài tảo biển độc hại khác trong các vùng biển và ven biển Việt
Nam.
Cần có các nghiên cứu, ứng dụng các kỹ thuật di truyền trong việc quan trắc, phân loại
nhanh đối với các loài vi tảo biển Việt Nam nhằm có thể theo dõi thường xuyên, đánh giá
nhanh những biến đổi môi trường gây thủy triều đỏ do tảo biển độc hại gây ra, hạn chế thiệt hại
trong nuôi trồng thủy sản ven biển.

References


Tài liệu tiếng Việt

1. Trần Thị Thu Hương, Hoàng Thu Lan, Trần Thị Ngọc Lan, Trịnh Đức Cường (2005), “Ứng
dụng kỹ thuật lai tại chỗ huỳnh quang để chẩn đoán trước sinh hội chứng down”, Tạp chí y học
thực hành, 11, tr. 9-11.
2. Trần Thị Thu Hương, Hoàng Thu Lan, Trần Thị Ngọc Lan, Trịnh Đức Cường, Nguyễn Thị
Quỳnh Thơ (2006), “Chẩn đoán trước sinh hội chứng Down, hội chứng Turner bằng kỹ thuật
lai tại chỗ huỳnh quang kết hợp phân tích nhiễm sắc thể của tế bào ối”, Tạp chí nghiên cứu y
học, 1, tr. 4-8.
3. Nguyễn Văn Nguyên, Lê Thanh Tùng, Lưu Xuân Hòa, Vũ Tuấn Nam, Vũ Minh Hào, Đinh
Thái Bình (2011), “Thử nghiệm kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ F.I.S.H nhận diện nhanh và
chuẩn xác một số loài tảo giáp độc hại”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học và công nghệ
biển toàn quốc lần thứ V, Quyển 4 - Sinh học và nguồn lợi biển, tr. 261-268.
4. Đặng Thị Hồng Nhung, Nguyễn Duy Ngọc (2008), “Áp dụng kỹ thuật huỳnh quang tại chỗ
trong phát hiện bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể tại Bệnh viện Nhi Trung ương”, Tạp chí
nghiên cứu y học, 57, tr. 57-62.
5. Vũ Đình Quang, Ngô Diễm Ngọc, Nguyễn Thị Phương Mai, Đinh Thị Hồng Nhung, Phùng
Tuyết Lan, Trần Đức Hậu, Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Liêm (2010), “Đánh giá sự khuếch
đại gen NMYC trên bệnh nhân Neuroblastoma”, Tạp chí Nhi khoa, 3 (3), tr. 358-363.
6. Nguyễn Thị Tân Sinh, Ngô Diễm Ngọc, An Thuỳ Lan, Đinh Thị Hồng Nhung, Lê Thị Liễu,
Nguyễn Thanh Liêm (2011), “Ứng dụng kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ trong chẩn đoán
trước sinh các lệch bội nhiễm sắc thể thường gặp”, Tạp chí Y học lâm sàng, số đặc biệt, tháng
2, tr. 253-258.
7. Chu Văn Thuộc (2002), “Nghiên cứu thành phần loài, phân bố và thăm dò khả năng gây hại
của một số loài tảo độc hại (harmful algae) thuộc ngành tảo giáp (Dinophyta) ở vùng cửa sông,
ven biển miền Bắc Việt Nam”, Luận án tiến sĩ ngành sinh học, Viện nghiên cứu hải sản.

Tài liệu tiếng Anh

8. Abé, T. H. (1967a), “The armoured Dinoflagellata: II. Prorocentridae and Dinophysidae

(A)”, Publ. Seto Mar. Biol., 14(5), pp. 369 - 389.
9. Abé, T. H. (1967b), “The armoured Dinoflagellata: II. Prorocentridae and Dinophysidae (B),
Dinophysis and its allied genera”, Publ. Seto Mar. Biol., 15(1), pp. 37 - 78.
10. Adachi M., Sako Y., Ishida Y. (1996), “Analysis of Alexandrium (Dinophyceae) species
using sequences of the 5,8S ribosomal DNA and internal transcribed spacer regions”. J. Phycol,
32, pp. 424–432.
11. Alfreider A., Pernthaler J., Amann R., Sattler B., Glöckner F. O., Wille A., and Psenner R.
(1996), “Community analysis of the bacterial assemblages in he winter cover and pelagic layers
of a high mountain lake by in situ hybridization”, Appl. Environ. Microbiol, 62, pp: 2138 -
2144.
12. Amann R., Fuchs B. M., Beherens S. (2001), “The identification of microorganisms by
fluorescence in situ hybridization”, Curr. Opin. Biotechnol., 12, pp. 231 – 236.
13. Andersen, G. (2005), “Traditional Microalgae Isolation Techniques, Algal cuturing
techniques”, Phycologycal society of America, 578p.
14. Anderson, P. (1996), “Design and implementation of some harmful agal monitoring
system”, IOC Technical Series, 44, UNESCO
15. Anderson, D.M. (1995), “Identification of harmful algal species using molecular probes, an
emerging technology”, Harmful Marine Algal Blooms, Lavoiser Science Publishers, pp. 3–13.
16. Balech, I. (1995), “The genus Alexandrium Halim (Dinoflagellata)”, Trans. Am.
Microscop. Soc., 113, pp. 216 - 220.
17. Baoyu Z., Guofu C., Guangce W., Douding L. (2010), “Identification of two Skeletonema
costatum-like diatoms by fluorescence in situ hybridization”. Chinese Journal of Oceanology
and Limnology, 28(2), pp. 310 - 314.
18. Benedetta B., Danilo E., Monica G., Erasmo N. (2006), “Application of FISH technology
for microbiological analysis: current state and prospects”, Appl. Microbiol. Biotechnol., 73, pp.
485 – 494.
19. Bouvier T., Del G. (2003), “Factors influencing the detection of bacterial cells using
fluorescence in situ hybridization (FISH)”, FEMS Microbiol. Ecol., 44, pp. 3 – 15.
20. Cho E. S., Hur H. J., Byun H. S., Lee S. G., Rhodes L. L., Jeong C. S. and Park J.
G.(2002), “Monthly monitoring of domoic acid producer Pseudo-nitzschia multiseries (Hasle)

Hasle using species-specific DNA probes and WGA lectins and abundance of Pseudo-nitzschia
species (Bacillariophyceae) from Chinhae Bay”, Korea. Bot. Mar., 45, pp. 364 - 372.
21. Choi, B. K. (1994), “Diversity of cultivable and uncultivable oral spirochetes from a
patient with severe destructive periodontitis”. Infect. Immun., 62, pp. 1889 – 1895.
22. Choong J. K., Yoshihiko S. (2005), “Molecular identification of toxic Alexandrium
tamiyavanichii (Dinophyceae) using two DNA probes”, Harmful Algae, 4, pp. 984 - 991.
23. Deere, D. (1998), “Evaluation of fluorochromes for flow cytometric detection of
Cryptosporidium parvum oocysts labelled by fluorescence in situ hybridization”, Lett. Appl.
Microbiol., 27, pp. 352 – 356.
24. DeLong, E. F. (1989), “Phylogenetic stains: ribosomal RNA-based probes for the
identification of single microbial cells”, Science, 243, pp. 1360 –1363.
25. DeLong E. F., Taylor L. T., Marsh T. L. and Preston C. M. (1999), “Visualization and
enumeration of mMarine planktonic archaea and bacteria by using polyribonucleotide probes
and fluorescent in situ hybridization”, Applied and Environmental Microbiology, 65, pp. 5554
- 5563.
26. Felske, A. (1998), “In situ detection of an uncultured predominant Bacillus in dutch
grassland soils”, Appl. Environ. Microbiol., 64, pp. 4588 – 4590.
27. Fuchs B. M., Syutsubo K., Ludwig W., Amann R. (2000), “In situ accessibility of
Escherichia coli 23S rRNA to fluorescently labeled oligonucleotide probes”, Appl. Environ.
Microbiol., 67, pp. 961 – 968.
28. Gersdorf H. (1993a), “Identification of bacteroides forsythus in subgingival plaque from
patients with advanced periodontitis”, J. Clin. Microbiol., 31, pp. 941 – 946.
29. Gersdorf, H. (1993b), “Fluorescence in situ hybridization for direct visualization of Gram-
negative an aerobes in subgingival plaque samples”, FEMS Immunol. Med. Microbiol., 6, pp.
109 – 114.
30. Glockner, F. O. (1996), “An in situ hybridization protocol for detection and identification
of planctonic bacteria”, Syst. Appl. Microbiol., 19, pp. 403 – 406.
31. Glöckner F. O., Fuchs B. M. and Amann R. (1999), “Bacterioplankton compositions of
lakes and oceans: a first comparison based on fluorescence in situ hybridization”, Appl.
Environ. Microbiol., 65, pp. 3721 - 3726.Hallegraeff G. M., Anderson D. M., Cembella A. D.,

Enevoldsen H. O. (1995), “Manual on harmful marine microalgae, IOC Manual and Guides”,
UNESCO, 33, 794p.
33. Hogardt M., (2000), “Specific and rapid detection by fluorescent in situ hybridization of
bacteria in clinical samples obtained from cystic fibrosis patients”, J. Clin. Microbiol., 38, pp.
818 – 825.
34. Hogardt M., (2000), “Specific and rapid detection by fluorescent in situ hybridization of
bacteria in clinical samples obtained from cystic fibrosis patients”, J. Clin. Microbiol. 38, pp.
818 – 825.
35. Hougaard D. M., Hansen H. and Larsson L. I. (1997), “Non-radioactive in situ
hybridization for mRNA with emphasis on the use of oligodeoxynucleotide probes”,
Histochem. Cell Biol., 108, pp. 335 - 344.
36. Inacio J., Beherens S., Fuchs B. M., Fonseca A., Spencer M. I., Amann R. (2003), “In situ
accessibility of Saccharomyces cerevisiae 26S rRNA to Cy3-labeled oligonucleotide probes
comprising the D1 and D2 domains”, Appl. Environ. Microbiol., 69, pp. 2899 – 2905.
37. Jansen, G. J. (2000), “Rapid identification of bacteria in blood cultures by using
fluorescently labeled oligonucleotide probes”, J. Clin. Microbiol., 38, pp. 814 – 817.
38. Jeffrey M. L. and Robert H. S. (2003), “Fluorescence in situ hybridization: past, present
and future”, Journal of Cell Science, 116, pp. 2833 – 2838.
39. Johannes Z., Wolfgang L., Karl H. S. (2001), “DNA polynucleotide probes generated from
representatives of the genus acinetobacter and their application in fluorescence in situ
hybridization of environmental samples”, System. Appl. Microbiol., 24, pp. 238 – 244.
40. Kagiyama, N. (1993), “A novel fluorescent method for in situ hybridization”, Acta
Histochem. Cytochem., 26, pp. 441 – 445.
41. Kempf, V. A. (2000), “Fluorescent in situ hybridization allows rapid identification of
microorganisms in blood cultures”, J. Clin. Microbiol., 38, pp. 830 – 838.
42. Kenzaka, T. (1998), “rRNA targeted fluorescent in situ hybridization analysis of bacterial
community structure in river water”, Microbiology, 144, pp. 2085 – 2093.
43. Kim C. J., Kim C. H., Sako Y. (2005), “Development of molecular identification method
for genus Alexandrium (Dinophyceae) using whole-cell FISH”, Marine Biotechnology, 7, pp.
215 – 222.

44. Langendijk P. S, Schut F., Jansen G. J., Raangs G. C., Kamphuis G. R., Wilkinson M. H.
F., Welling G. W. (1995), “Quantitative fluorescence in situ hybridization of Bifidobacterium
spp. with genus-specific 16S rRNA-targeted probes and its application in faecal samples”,
Appl. Environ. Microbiol., 61, pp. 3069 – 3075.
45. Larsen J. and Nguyen N. L. (2004), “Potentially toxic microalgae of Vietnamese waters”,
Opera Botanica, 140, 216p.
46. Llobet B., Rosselló M., and Amann R. (1998), “Microbial community composition of
wadden sea sediments as revealed by fluorescence in situ hybridization”, Appl. Environ.
Microbiol., 64, pp. 2691 - 2696.
47. Manuelidis L., Langer P. R. and Ward D. C. (1982), “High-resolution mapping of satellite
DNA using biotin-labeled DNA probes”, J. Cell Biol., 95, pp. 619 - 625.
48. Michael H., Ralph W., Georg H., Jutta F., Andrea W., Alexander R., Eberhard S., Siegfried
J., Christoph C. (2003), “COMBO-FISH: specific labeling of nondenatured chromatin targets
by computer-selected DNA oligonucleotide probe combinations”, BioTechniques, 35(3), pp.
564 – 577.
49. Miller P. E., Scholin C. A. (2000), “On detection of Pseudo-nitzschia
(Bacillariophyceae) species using whole cell hybridization: sample fixation and stability”, J.
Phycol., 36, pp. 238 – 250.
50. Miller P. E., Scholin C. A. (1996), “Identification of cultured Pseudonitzschia
(Bacillariophyceae) using species-specific LSU rRNAtargeted fluorescent probes”, J. Phycol.,
32, pp. 646 – 655.
51. Miller P. E., Scholin C. A. (1998), “Identification and enumeration of cultured and wild
Pseudo-nitzschia (Bacillariophyceae) using species-specific LSU rRNA-targeted fluorescent
probes and filter-based whole cell hybridization”, J. Phycol., 34, pp. 371 – 382.
52. Moter, A. (1998), “Molecular epidemiology of oral treponemes associated with periodontal
disease”, J. Clin. Microbiol., 36, pp. 1399 – 1403.
53. Niels B. R., Henrik F., Timothy G. F., Finn A., Bo T. (1996), “Distribution of bacterial
populations in a stratified fjord (Mariager Fjord, Denmark) quantified by in situ hybridization
and related to chemical gradients in the water column”, Appl. Environ. Microbiol., 62, pp. 1391
– 1404.

54. Pardue, M. L. (1969), “Molecular hybridization of radioactive DNA to the DNA of
cytological preparations”, Proc. Natl. Acad. Sci., 64, pp. 600 –604.
55. Pernthaler J., Glöckner F. O., Schönhuber W., and Amann. R. (2001), “Fluorescence in
situ hybridization (FISH) with rRNA-targeted oligonucleotide probes”, Methods in
Microbiology: Marine Microbiology, 30, pp. 207 – 210.
56. Puvion D., and Puvion E., (1996), “Non-isotopic electron microscope in situ hybridization
for studying the functional sub-compartmentalization of the cell nucleus”, Histochem. Cell
Biol., 106, pp. 59 - 78.
57. Richmon, A. (2004), “Handbook of Microalgal culture: Biotechnology and Applied
Phycology”, Blackwell Science, 577p.
58. Rudkin G. T., and Stollar B. D. (1977), “High resolution detection of DNA-RNA hybrids
in situ by indirect immunofluorescence”, Nature, 265, pp. 472-473.
59. Scholin C., Miller P. E., Buck K., Chavez F., Harris P., Haydock P., Howard J. (1997),
“Detection and quantification of Pseudo-nitzschia australis in cultured and natural populations
using LSU rRNA-targeted probes”, Limnol. Oceanogr. 42(5), pp. 1265 –1272.
60. Shoko H. T., Sako Y. (2005), “Rapid detection of natural cells of Alexandrium tamarense
and A. catenella (Dinophyceae) by fluorescence in situ hybridization”, Harmful Algae, 4, pp.
319 – 328.
61. Singer R. H., and Ward D. C. (1982), “Actin gene expression visualized in chicken muscle
tissue culture by using in situ hybridization with a biotinated nucleotide analog”, Proc. Natl.
Acad. Sci., 79, pp. 7331 - 7335.
62. Sebatián C. R., and Ryan C. O’. (2001), “Single-cell sequencing of dinoflagellate
(Dinophyceae) nuclear ribosomal genes”, Molecular Ecology Resources, 1(4), pp. 329-331.
63. Tanabe S. H., Sako Y. (2006), “Development and application of fluorescence in situ
hybridization (FISH) method for simple and rapid identification of the toxic dinoflagellates
Alexandrium tamarense and Alexandrium catenella in cultured and natural seawater”,
Fishersies science, 72(1), pp. 77 - 82.
64. Trebesius K., Amann R., Ludwig W., Mühlegger K., and Schleifer K. (1994),“
Identification of whole fixed bacterial cells with nonradioactive 23S rRNA-targeted
polynucleotide probes”, Appl. Environ. Microbiol. 60, pp. 3228 - 3235.

65. Wagner M., Schmid S. J., Trebesius K., Bubert A., Goebel W., and Schleifer K. (1998),
“In situ detection of a virulence factor mRNA and 16s rRNA in Listeria monocytogenes”,
FEMS Microbiology Letters, 160, pp. 159 - 168.
66. Werner M., Rudolf A., Wolfgang L., Marc V., and Karl H. S. (1996), “Application of a
suite of 16s rRNA-specific oligonucleotide probes designed to investigate bacteria of the
phylum cytophaga-flavobacter-bacteroides in the natural environment”, Microbiology, 142, pp.
1097 – 1106.
67. Yamaguchi, N. (1996). “Detection of specific bacterial cells with 2-hydroxy-3-naphthoic
acid-29-phenylanilide phosphate and Fast Red TR in situ hybridization”, Appl. Environ.
Microbiol., 62, pp. 275–278.
68. Ylmaz L. S., Hatice E. O., Noguera D. R. (2005), “Making all parts of the 16S rRNA of
Escherichia coli accessible in situ to single DNA oligonucleotides”, Appl. Environ.
Microbiol., 72, pp. 733 – 744.
69. Zarda, B. (1991), “Identification of single bacterial cells using digoxigeninlabelled,
rRNA-targeted oligonucleotides”, J. Gen. Microbiol., 137, pp. 2823 – 2830.

×