Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Hệ thống phân phối xăng dầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.3 KB, 45 trang )

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN PHỐI
1. Khái niệm và vai trò của phân phối
1.1 Khái niệm phân phối và hệ thống phân phối
Trong hoạt động kinh doanh, để tiêu thụ được sản phẩm, ngoài việc tạo
ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu và đặc điểm tiêu
dùng ở từng thị trường nhất định, các doanh nghiệp còn phải chú ý đến chính
sách phân phối và vận động hàng hoá của mình. Đó là một chính sách bộ phận
không thể thiếu được trong chiến lược Marketing, nó đảm bảo mối quan hệ
giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu trên thị trường.
Trong Marketing phân phối được hiểu là các quá trình kinh tế, tổ chức,
kỹ thuật nhằm điều hành và vận chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu
dùng đạt hiệu quả kinh tế cao

1
. Với giác độ này phân phối bao gồm các hoạt
động diễn ra trong khâu lưu thông, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Nội
dung của phân phối là thực hiện hàng loạt các dịch vụ sau quá trình sản xuất và
trước quá trình tiêu dùng.
Đứng trên quan điểm của nhà kinh tế thì hoạt động phân phối sản phẩm
là tổng hợp các hoạt động chuẩn bị, tổ chức tiêu thụ và các hoạt động sau tiêu
thụ. Cũng có khái niệm cho rằng: hoạt động phân phối sản phẩm là hoạt động
bán hàng của doanh nghiệp. Một khái niệm khác mang tính khái quát hơn: hoạt
động phân phối sản phẩm là hoạt động lưu thông hàng hoá trong xã hội…Quan
điểm của các nhà quản trị cho rằng: hoạt động phân phối sản phẩm là việc trả
lời các câu hỏi: Cung cấp sản phẩm cho ai? Bằng cách nào? và như thế nào?
1 Philip Koler, “Qu¶n trÞ Marketing , ” NXB Thèng kª, 1996
1
1
- 1 -
Như vậy, với những quan điểm khác nhau về hoạt động phân phối sản


phẩm thì việc hiểu biết bản chất về nó cũng ít nhiều có sự khác nhau. Nhưng tất
cả các khái niệm đó đều có một điểm chung và chúng ta có thể hiểu hệ thống
phân phối sản phẩm (HTPPSP) là : toàn bộ các công việc để đưa một sản phẩm
dịch vụ từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng có nhu cầu, bảo đảm về chất
lượng, thời gian, số lượng, chủng loại, kiểu dáng, màu sắc… mà người tiêu
dùng mong muốn.
Tuỳ thuộc vào điều kiện khác nhau mà các doanh nghiệp xem xét bản
chất của hoạt động phân phối sản phẩm theo góc độ nào.
Trong khuôn khổ của báo cáo này, chúng ta xem xét bản chất và nội
dung của hoạt động phân phối trên cơ sở kết hợp giữa quan điểm của
Marketing và quan điểm của các nhà quản trị về vấn đề này. Ngoài nhiệm vụ
mang lại hiệu quả kinh tế, hệ thống phân phối còn có ý nghĩa mang đến sự hài
lòng nhất cho khách hàng của mình. Điều này rất quan trọng bởi vì hoạt động
phân phối sản phẩm tốt có ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ các hoạt động khác
trong doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại. Đây là
nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và là điều kiện tiên
quyết đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, bởi ngay cả đối với
doanh nghiệp sản xuất nếu tạo ra sản phẩm mà không tiêu thụ được thì doanh
nghiệp sớm muộn cũng phải đóng cửa sản xuất.
1.2 Vai trò của phân phối trong các doanh nghiệp thương mại
Đối với một doanh nghiệp thương mại, tiêu thụ hàng hoá luôn là một vấn
đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của toàn doanh nghiệp. Đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay, môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh
khốc liệt, hàng hoá phải được tiêu chuẩn hoá và việc đưa hàng hoá ra thị trường
như thế nào luôn làm các nhà quản trị phải trăn trở. Hãng ôtô Nissan đã đưa ra
2
2
- 2 -
nhận định hết sức thực tế về vai trò quan trọng của Marketing hiện đại: Vấn đề
không chỉ là anh đưa cho người tiêu dùng cái gì mà còn là anh đưa nó như thế

nào sẽ quyết định thành công trên thương trường.
Các doanh nghiệp cần nhận thấy rằng họ không chỉ cạnh tranh bằng sản
phẩm, dịch vụ tốt mà còn phải cạnh tranh bằng sự sẵn sàng của sản phẩm: mọi
lúc, mọi nơi. Doanh nghiệp sẽ đạt được mục tiêu thoả mãn khách hàng tốt nhất
nếu họ thiết lập được cho mình một hệ thống phân phối hợp lý và hiệu quả. Hệ
thống phân phối sản phẩm bao gồm các kênh khác nhau, trong đó các thành
viên kênh có những chức năng chủ yếu sau:
Thông tin: Thu thập và phổ biến thông tin cần thiết để hoạch định chiến
lược và tạo thuận lợi cho sự trao đổi,
Cổ động: Triển khai và phổ biến những thông tin có sức thuyết phục cao
về những sản phẩm hiện tại và những sản phẩm mới,
Tiếp xúc: Tìm ra và thông tin với khách hàng tương lai,
Thương lượng: Thoả thuận về giá cả và các vấn đề khác đối với hàng hoá
mà khách hàng định mua,
Tài trợ: Phân tích và huy động và tài chính để thanh toán chi phí kênh,
cấp tín dụng cho khách hàng,
Chịu may rủi: Chấp nhận các rủi ro liên quan đến hoạt động của kênh
2
Các chức năng trên có thể thay đổi được giữa các thành viên trong kênh.
Néu nhà sản xuất tự thực hiện các chức năng này thì chi phí sẽ tăng và giá cả sẽ
cao, khi một số chức năng được chuyển sang cho cấp trung gian thì chi phí và
giá sẽ giảm nhưng vẫn phải tính đến chi phí cho trung gian.
Các quyết định về hệ thống phân phối đã và đang trở thành những quyết
định cạnh tranh của doanh nghiệp, là một công cụ quan trọng và phức tạp trong
2 Philip Kotler, QT Marketing , “ ” NXB thèng kª 1996, trang 594
3
3
- 3 -
chiến lược Marketing hỗn hợp. Do cần thời gian và chi phí để xây dựng và
quản lý một hệ thống phân phối hiệu quả, bởi vậy các quyết định đúng đắn về

phân phối giúp doanh nghiệp tạo dựng được lợi thế cạnh tranh bền vững, dài
hạn trên thương trường, thành công trong kinh doanh. Một hệ thống phân phối
phù hợp có thể nâng cao hiệu quả các biến số Marketing hỗn hợp nhằm đáp
ứng tốt các nhu cầu thị trường, hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và giá
trị của doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy các Tập đoàn xuyên quốc gia như: Cocacola, Pepsi
Cola, Unilever, G&P, Samsung…thành công và phát triển trên khắp thế giới
bên cạnh chất lượng sản phẩm họ còn xây dựng cho mình một chính sách phân
phối hợp lý, phù hợp với đặc điểm của từng thị trường.
2. Nội dung của hoạt động phân phối
2.1 Xây dựng hệ thống kênh phân phối
Các nhân tố cấu thành của hệ thống phân phối
Hệ thống phân phối của các doanh nghiệp có cấu trúc như các mạng
lưới, do chúng bao gồm các doanh nghiệp và các cá nhân độc lập và phụ thuộc
lẫn nhau, nói cách khác các thành viên của nó liên quan đến nhau trong quá
trình hoạt động và tạo ra kết quả là hàng hoá được đưa đến người tiêu dùng
cuối cùng. Các thành viên hay các nhân tố cấu thành một hệ thống phân phối
bao gồm:
Người sản xuất
Bao gồm rất nhiều loại thuộc nhiều ngành kinh doanh từ nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng…đến các ngành dịch vụ. Đó là những nhà sản xuất với
các chủng loại và quy mô khác nhau, tuy nhiên họ đều nhằm mục đích là thoả
mãn nhu cầu thị trường, bởi theo quan điểm Marketing hiện đại: bán cái thị
4
4
- 4 -
trường cần chứ không phải bán cái doanh nghiệp sẵn có. Hơn nữa, nhà sản xuất
phải quan tâm đến việc sản phẩm của họ sẽ đến tay người tiêu dùng như thế
nào? Nhiều doanh nghiệp lựa chọn phương thức phân phối trực tiếp sản phẩm
đến người tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp xây dựng cho mình một hệ thống

phân phối đồng bộ và rộng khắp.. Nhà sản xuất chính là điểm nút đầu tiên của
tất cả các kênh phân phối.
Đại lý
Đại lý là các trung gian độc lập, họ không sở hữu hàng hoá, nhưng có
liên quan trực tiếp đến chức năng đàm phán về mua bán thay cho doanh nghiệp.
Thu nhập của đại lý là hoa hồng trên doanh thu bán hàng hoặc theo khoản lệ
phí nhất định. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với đại lý thông qua Hợp đồng
đại lý, với kênh trung gian này người sản xuất có thể kiểm soát được lượng
hàng tiêu thụ và xác định nhu cầu thị trường thông qua các đại lý.
Người bán lẻ
Bao gồm các tổ chức, cá nhân kinh doanh liên quan trực tiếp đến bán
hàng hoá cho tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình…Vai trò của người bán lẻ
trong các kênh phân phối phụ thuộc vào quy mô của kênh (hoặc việc lựa chọn
kênh của doanh nghiệp). Người bán lẻ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng
cuối cùng nên có khả năng nắm bắt tốt thông tin về nhu cầu thị trường. Do vậy,
họ có khả năng thích ứng với những biến động của thị trường và rất năng động.
Tuy nhiên người bán lẻ chịu sự chi phối của người bán buôn hoặc các đại lý, do
vậy họ có xu hướng muốn thiết lập quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất.
Người tiêu dùng cuối cùng
Là người trực tiếp sử dụng các sản phẩm của nhà sản xuất. Người tiêu
dùng là thị trường mục tiêu được đáp ứng bởi các hệ thống thương mại của
kênh, là thành phần ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của các thành viên trong
5
5
- 5 -
hệ thống phân phối và là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Từ những ưu, nhược điểm của các thành viên trong hệ thống kênh phân
phối, các doanh nghiệp phải luôn nghiên cứu và phát triển các thành viên của
kênh sao cho phù hợp với quy mô của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị

trường một cách có hiệu quả nhất đảm bảo cho mục tiêu mà doanh nghiệp
hướng tới đó là tối đa hoá lợi nhuận và tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Cấu trúc của hệ thống phân phối
Có 3 yếu tố cơ bản phản ánh cấu trúc hệ thống phân phối:
- Chiều dài của hệ thống phân phối: Được xác định bởi cấp độ trung gian
có mặt trong hệ thống phân phối.
- Bề rộng của hệ thống phân phối: Biểu hiện ở số lượng trung gian ở mỗi
cấp.
- Các loại trung gian ở mỗi cấp độ của hệ thống phân phối.
Cấu trúc của hệ thống phân phối thông thường được chia thành hai dạng:
một dành cho hàng hoá dịch vụ tiêu dùng, một dành cho hàng hoá dịch vụ công
nghiệp. Sau đây là các dạng kênh phân phối với các cấp độ trung gian khác
nhau:
Kênh trực tiếp
Doanh nghiệp
Đại lý
Lực lượng bán hàng của DN
Khách hàng
(Sơ đồ kênh phân phối trực tiếp)
Là hệ thống phân phối trực tiếp bởi nhà sản xuất tới người tiêu dùng mà
không hề qua trung gian thương mại nào. Ba phương thức bán hàng trực tiếp cơ
bản là: bán hàng lưu động, bán theo đơn đặt hàng và bán qua cửa hàng của nhà
6
6
- 6 -
sản xuất. Thông thường các nhà sản xuất lựa chọn kênh này khi họ không có
các trung gian hoặc khi bắt đầu tung sản phẩm mới ra thị trường hoặc do đặc
thù của sản phẩm, mục tiêu của doanh nghiệp và tính chất của vòng đời sản
phẩm.
Ưu điểm: Ưu điểm cơ bản của việc sử dụng dạng kênh này là doanh

nghiệp có thể thông qua tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để hiểu rõ và đáp ứng
tốt nhu cầu của họ. Đồng thời với việc sử dụng kênh trực tiếp doanh nghiệp có
thể kiểm soát tốt hơn quá trình bán hàng, kiểm soát và điều chỉnh tốt hơn các
mục tiêu và công cụ Marketing của mình.
Nhược điểm: Trong trường hợp sử dụng kênh trực tiếp có thể mang lại
hiệu quả không mong muốn cho doanh nghiệp, để sử dụng kênh trực tiếp đòi
hỏi doanh nghiệp phải phát triển mạnh lực lượng bán hàng của mình, bộ phận
bán hàng phải rất lớn, chi phí cho bộ phận này cao và doanh nghiệp không có
khả năng chuyên môn hoá. Khi khu vực thị trường mục tiêu rộng và nhóm
khách hàng phân tán, kênh phân phối trực tiếp sẽ gặp khó khăn. Để khắc phục
nhược điểm này của kênh trực tiếp, doanh nghiệp nên lựa chọn kênh phân phối
có sự tham gia của các thành viên khác nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
kinh doanh của mình.
Kênh gián tiếp
Dưới đây là sơ đồ kênh phân phối gián tiếp:
Doanh nghiệp
Đại lý
Lực lượng bán hàng của DN
Khách hàng
Người mua trung gian
Kênh gián tiếp bao gồm các kênh chủ yếu sau đây:
7
7
- 7 -
Kênh 1 cấp: ở dạng kênh này doanh nghiệp không trực tiếp bán hàng tới
tận tay người tiêu dùng mà thông qua hệ thống các trung gian bán lẻ. Hệ thống
phân phối này thường hình thành khi người bán lẻ có quy mô lớn có thể mua
khối lượng lớn sản phẩm từ người sản xuất. Ở đây người sản xuất và người bán
lẻ thấy rằng họ tự đảm nhận các chức năng bán buôn sẽ hiệu quả hơn là sử
dụng thêm các nhà bán buôn độc lập.

Ưu điểm: Ưu điểm của loại kênh này là một mặt vẫn phát huy được
những lợi thế của loại kênh trực tiếp, mặt khác phần nào giải phóng cho nhà
sản xuất chức năng lưu thông để chuyên môn hoá và phát triển năng lực sản
xuất của mình, đảm bảo một trình độ quản lí cao hơn, ổn định và hợp lý hơn
trong việc phân phối các sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra.
Nhược điểm`: Dạng kênh này vẫn có những hạn chế nhất định, nó chưa
phát huy được hết các ưu thế của phân công lao động xã hội ở trình độ cao, các
nhà sản xuất hoặc người bán lẻ phải kiêm chức năng bán buôn. Do vậy làm hạn
chế trình độ xã hội hoá lưu thông, phân bổ dự trữ trong kênh phân phối sẽ
không cân đối và chưa hợp lý. Vì vậy, loại hình này chỉ áp dụng có hiệu quả
đối với một số kiểu cơ sở sản xuất bán lẻ nhất định, một số mặt hàng xác định
phục vụ nhu cầu thường xuyên và ổn định của người tiêu dùng.
Kênh 2 cấp: Đây là kênh phân phối điển hình, phổ biến nhất trong phân
phối hàng tiêu dùng. Các doanh nghiệp sản xuất với một số lượng hàng hoá
tương đối lớn trên thị trường nên không có khả năng tiếp xúc trực tiếp với hàng
nghìn các cửa hàng bán lẻ trên thị trường rộng lớn, trong trường hợp này nhà
sản xuất thường tổ chức tập hợp những người bán buôn để tập hợp, điều chỉnh
dự trữ hàng hoá và làm hậu cần cho thị trường bán lẻ tổng hợp.
Ưu điểm: Ưu điểm của dạng kênh này là trình độ chuyên môn hoá cao
hơn trong hoạt động lưu thông.
8
8
- 8 -
Nhược điểm: Hệ thống phân phối có thêm cấp thành viên do đó bắt đầu
xuất hiện mâu thuẫn giữa các thành viên trong kênh.
Kênh 3 cấp (dạng kênh đầy đủ): Được nhiều nhà sản xuất sử dụng. ở đây
đại lý được sử dụng để giúp tập hợp hàng hoá và phân phối với khối lượng lớn.
Kênh phân phối dạng đầy đủ đáp ứng tốt nhất yêu cầu phân công lao
động xã hội giữa sản xuất và lưu thông và cả trong nội bộ lưu thông. Nó cho
phép xã hội tối đa hoá hoạt động thương mại trên mọi vị trí bán lẻ và mọi địa

bàn dân cư.
Kênh hỗn hợp
Doanh nghiệp
Đại lý
Khách hàng
Lực lượng bán hàng của DN
Người mua trung gian
Khách hàng
Đây là dạng kênh phân phối được xác lập dựa trên cơ sở sử dụng đồng
thời cả hai dạng kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp. Doanh nghiệp vừa tổ
chức bán hàng đến tận tay người sử dụng vừa khai thác lợi thế trong hệ
thống phân phối cúa người mua trung gian. Dạng kênh này được miêu tả như
sau:
2.2 Quản trị hệ thống phân phối
Tổ chức quá trình phân phối có ảnh hưởng là nhờ hoạt động quản lý tốt
hệ thống kênh phân phối. Do vậy nắm chắc các nội dung cơ bản về quản trị
kênh phân phối là điều hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp. Việc quản lý
hệ thống phân phối ở một doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sau:
9
9
- 9 -
2.2.1 Lập kế hoạch
Việc hoạch định một kênh phân phối hiệu quả bắt đầu bằng sự định rõ
cần phải hướng tới thị trường mục tiêu nào, các mục tiêu có thể là mức phục vụ
khách hàng tới đâu và các trung gian phải hoạt động như thế nào? Những ràng
buộc của kênh bao gồm: Đặc điểm của khách hàng, đặc điểm về sản phẩm, đặc
điểm của giới trung gian (tiếp cận, thương thảo, quảng cáo, lưu kho…), đặc
điểm của công ty (quy mô, khả năng tài chính, chiến lược Marketing…)
Xác định những lựa chọn chủ yếu bao gồm: Các kiểu trung gian
Marketing, số lượng trung gian (phân phối rộng rãi, tổng kinh tiêu, phân phối

chọn lọc…), quyền hạn và trách nhiệm của các thành viên kênh.
Các mục tiêu của hệ thống phân phối được xác định trên cơ sở mục tiêu
chung của doanh nghiệp và các mục tiêu cụ thể về bán hàng. Mục tiêu của hệ
thống phân phối có thể xác định theo các định hướng cơ bản:
- Mức độ thoả mãn của khách hàng về thời gian, địa điểm các dịch vụ đi
kèm với sản phẩm hiện vật,
- Doanh số bán tổng thể, cho từng nhóm khách hàng, bán mới, duy trì
hay mở rộng doanh số,
- Tăng cường khả năng chiếm lĩnh hay phát triển thị trường,
- Giảm chi phí bán hàng hay điều chỉnh chi phí vận chuyển…
Tuỳ theo đặc điểm sản phẩm, đặc điểm ngành kinh doanh và thị trường,
doanh nghiệp có thể lựa chọn mục tiêu cho thích hợp. Mục tiêu có thể được
định hướng theo một trong các mục tiêu cơ bản trên đây cho việc thiết kế hệ
thống phân phối và xây dựng chính sách phân phối. Một kênh phân phối có thể
đáp ứng yêu cầu mục tiêu định hướng này nhưng lại không thoả mãn yêu cầu
định hướng khác, bởi vậy cần có sự cân nhắc ký lưỡng khi lựa chọn mục tiêu,
10
10
- 10 -
tốt nhất nên có sự kết hợp yêu cầu đặt ra cho từng loại định hướng mục tiêu.
2.2.2 Tuyển chọn các thành viên của kênh phân phối sản phẩm
Trên cơ sở các mục tiêu kế hoạch đề ra doanh nghiệp phải biết thu hút
các trung gian có chất lượng cho kênh dự định. Những trung gian tốt cần có
những đặc điểm gì? Đó là khả năng am hiểu và quan hệ tốt đối với khách hàng,
thâm niên và kinh nghiệm, khả năng hợp tác hiệu quả và uy tín trong kinh
doanh. Đôi khi cũng cần xem xét đến địa điểm kih doanh, khả năng phát triển
trong tuương lai, đánh giá những lựa chọn kênh theo tiêu chuẩn kinh tế, tính
thích nghi và tính dễ kiểm soát.
2.2.3 Đánh giá và động viên các thành viên trong kênh phân phối
Trước hết doanh nghiệp cần tìm hiểu nhu cầu và mong muốn của các

thành viên trong kênh. Trong nhiều trường hợp, quan điểm của người trung
gian khác quan điểm của nhà cung cấp, do vậy nhà cung cấp phải điều tra để có
chính sách thích ứng với nhu cầu và mong muốn của họ nhằm đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm cho mình.
Người trung gian đồng thời là một doanh nghiệp nhỏ, một khách hàng
lớn, mục tiêu của họ cũng là lợi nhuận. Việc khuyến khích về vật chất là cần
thiết với đối tượng này. Tuy nhiên, ngoài việc chiết khấu (hoa hồng) doanh
nghiệp có thể thưởng doanh số, chiết khấu số lượng, cấp tín dụng…Việc tạo
mối quan hệ mang tính văn hoá nội bộ sẽ tốt hơn mối quan hệ đơn thuần dựa
trên hợp đồng. Doanh nghiệp có thể tặng quà, khuyến mại cho họ vào các dịp
lễ, Tết…điều này gây được thiện cảm đối với nhà trung gian dẫn đến họ sẽ
trung thành và tích cực trong công tác phân phối sản phẩm.
Ngoài ra, nhà sản xuất phải định kỳ đánh giá hoạt động của các trung
gian theo các tiêu chí nhất định như: Doanh số, mức độ lưu kho trung bình,
thời gian giao hàng, cách xử lý hàng hoá thất thoát, hư hỏng…Mức doanh
11
11
- 11 -
số có thể so sánh với kế hoạch đề ra, so với kỳ trước và tính ra tỷ lệ tăng
trưởng trung bình.
Trên đây là một số lý luận cơ bản về phân phối và hệ thống phân phối
làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng hoạt động phân phối tại Xí nghiệp
Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN PHỐI XĂNG DẦU TẠI XÍ NGHIỆP
DỊCH VỤ XĂNG DẦU VÀ CƠ KHÍ
1. Tổng quan về Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí
1.1 Lịch sử hình thành
12
12

- 12 -
Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí tiền thân là Xí nghiệp Cơ khí,
một trong 5 đơn vị thành viên trực thuộc Tổng Công ty xăng dầu khu vực I.
Được thành lập từ tháng 08/1995 trên cơ sở Xưởng cơ khí 104, Xí
nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995, là đơn vị kinh tế cơ sở của
Công ty xăng dầu khu vực I, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam theo quyết định
số 156/ XD-QĐ ngày 06/03/1997 của Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam. Theo
Quyết định này của Tổng Giám đốc Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam, 18 Cửa
hàng bán lẻ xăng dầu khu vực Bắc sông Hồng mà Công ty xăng dầu khu vực I
đang trực tiếp quản lý được chuyển về trực thuộc Xí nghiệp Cơ khí và đổi tên
thành Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí.
Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí hiện nay là doanh nghiệp Nhà nước thuộc
Công ty xăng dầu khu vực I, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là
“Petrolimex & Michemical Services Enterprise” viết tắt là PMSE.
Trụ sở chính của Xí nghiệp tại Thị trấn Sài Đồng - Gia Lâm - Hà Nội
Điện thoại : 04.8276.657
Fax : 04.8751.158
Biểu tượng của Xí nghiệp là chữ P chính là biểu tượng của Tổng Công ty
xăng dầu Việt Nam.
Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí ra đời trong giai đoạn Tổng Công
ty xăng dầu Việt Nam thực hiện chiến lược đổi mới và phát triển theo chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước, chuyển hoạt động sản xuất kinh
doanh sang cơ chế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, từng bước xây
dựng Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam trở thành hãng xăng dầu quốc gia mạnh
và năng động để tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Năm 2006, kỷ niệm 50 năm thành lập Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam,
thương hiệu chữ P và một số thương hiệu, nhãn hàng hoá khác như dầu nhớt
13
13
- 13 -

Racer, bảo hiểm Petrolimex (PJICO) đã lọt vào danh sách “500 thương hiệu
nổi tiếng nhất Việt Nam”. Hiện tại, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam là tổ
chức kinh doanh thương mại xăng dầu và các sản phẩm hoá dầu ở khâu hạ
nguồn lớn nhất ở Việt Nam với 43 Công ty thành viên, 25 chi nhánh, 20 Công
ty Cổ phần, 30 Công ty liên doanh, 1 chi nhánh tại Singapore. Xí nghiệp Dịch
vụ xăng dầu và Cơ khí là một trong 09 Xí nghiệp trực thuộc Công ty thành viên
100% vốn Nhà nước.
Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí là đơn vị kinh tế hạch toán phụ
thuộc Công ty xăng dầu khu vực I, được mở tài khoản tại ngân hàng và được sử
dụng con dấu riêng để hoạt động. Xí nghiệp không được vay vốn nếu không
được sự đồng ý của Công ty và có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ,
kế hoạch của Tổng công ty và Công ty giao, thực hiện đúng các chế độ, chính
sách của Nhà nước đối với người lao động và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối
với Nhà nước. Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và cơ khí cũng được quyền chủ
động trong sản xuất kinh doanh theo quyết định số 244/XD-QĐ ngày 30 tháng
06 năm 1997 của Giám đốc Công ty xăng dầu khu vựcI.
1.2 Chức năng hoạt động và bộ máy tổ chức
1.1.1 Chức năng hoạt động
Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam là một Doanh nghiệp Nhà nước trọng
yếu được xếp hạng đặc biệt trực thuộc Bộ Thương mại, có quy mô toàn quốc,
giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, điều tiết, ổn định phát
triển thị trường xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, và có nhiệm vụ đáp ứng mọi
nhu cầu về xăng dầu và các sản phẩm hoá dầu cho phát triển kinh tế xã hội, an
ninh quốc phòng. Nhận thức rõ “Xăng dầu là mạch máu của Quốc gia”, Tổng
14
14
- 14 -
Công ty xăng dầu Việt Nam coi kinh doanh xăng dầu không chỉ là vì lợi nhuận
mà còn là nhiệm vụ chính trị đối với đất nước. Petrolimex xác định phải đảm
bảo cung cấp cung cấp đủ nhiên liệu với chất lượng tốt cho toàn nền kinh tế

trong mọi hoàn cảnh.
Là một trong 5 đơn vị trực thuộc Công ty xăng dầu khu vực I, Tổng
Công ty xăng dầu Việt Nam, Xí nghiệp Dịch vụ xăng dầu và Cơ khí có chức
năng chính là kinh doanh xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, cơ khí và các dịch
vụ khác nhằm phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, các tổ chức kinh tế
xã hội trên địa bàn được phân công, đảm bảo mục tiêu chính trị, an ninh quốc
phòng.
Nhiệm vụ cụ thể của Xí nghiệp là tổ chức kinh doanh xăng dầu và các sản phẩm
hoá dầu theo các phương thức bán buôn trực tiếp, bán qua đại lý, tổng đại lý, và bán lẻ qua
các cửa hàng ở ba huyện ngoại thành: Đông Anh, Gia Lâm và Sóc Sơn. Ngoài ra, Xí nghiệp
còn có nhiệm vụ tổ chức thi công, lắp đặt, sửa chữa các công trình cơ khí, kinh doanh dịch
vụ cơ khí, các thiết bị chuyên dụng xăng dầu và dịch vụ khác phục vụ nội bộ Công ty, các
đơn vị trong ngành và nhân dân.
1.1.2 Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Vấn đề tổ chức bộ máy quản lý luôn được Xí nghiệp quan tâm thích
đáng nhằm xây dựng một bộ máy tổ chức vững mạnh để đạt được hiệu qủa
kinh doanh và hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. Bộ máy tổ chức của Xí
nghiệp luôn được đánh giá, kiện toàn và hiện nay đang duy trì cơ cấu quản lý
theo sơ đồ sau:
15
15
- 15 -
Chức năng nhiêm vụ cụ thể
Giám đốc Xí nghiệp: Là người lãnh đạo cao nhất đại diện cho mọi quyền
lợi và nhiệm vụ của tập thể cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp. Giám đốc
chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty xăng dầu khu vực I về công tác tổ
chức, quản lý và điều hành các hoạt dộng thuộc chức năng nhiệm vụ của Xí
nghiệp. Các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Chỉ đạo trực tiếp các Phó Giám đốc, Phòng Tổ chức hành chính và Phòng Kế

toán tài chính;
- Chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo xây dựng phương án sản xuất kinh doanh,
mục tiêu kế hoạch của Xí nghiệp trên cơ sở kế hoạch được Công ty giao;
16
Phòng
kinh
doanh
Phòng
tổ chức
hành
chính
Phòng
kỹ
thuật
Phòng
kế toán
Giám đốc
Phó
giám đốc 1
Phó
giám đốc 2
Cửa
hàng
trực
thuộc
CHDV
tổng
hợp
Xưởngc
ơ điện

16
- 16 -
- Tổ chức giao kế hoạch sản xuất kinh doanh cho các đơn vị trực thuộc, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát các đơn vị trực thuộc trong quá trình triển khai thực hiện
nhiệm vụ;
- Căn cứ vào nhiệm vụ và yêu cầu thực tế của Xí nghiệp tổ chức chỉ đạo công tác
đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở vật chất cho các đơn vị nhằm tạo điều kiện
cho các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ;
- Chỉ đạo và triển khai các mặt công tác khác theo yêu cầu thực tế của Xí nghiệp;
Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh có các nhiệm vụ sau:
- Tham mưu giúp việc cho Giám đốc, trực tiếp chỉ đạo Phòng Kinh doanh và hệ
thống các cửa hàng trong việc kinh doanh xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu và
các dịch vụ khác. Thay thế điều hành khi Giám đốc vắng mặt;
- Tham gia xây dựng và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Xí nghiệp;
- Trực tiếp chỉ đạo Phòng Kinh doanh trong việc triển khai công tác bán hàng,
tiếp thị, nghiên cứu thị trường, đảm bảo công nợ hàng hoá và các mặt công tác,
các mối quan hệ liên quan đến hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp.
Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật có các nhiệm vụ:
- Tham mưu giúp việc cho Giám đốc, trực tiếp chỉ đạo Phòng Quản lý Kỹ thuật
và Xưởng cơ điện trong công tác sản xuất dịch vụ cơ khí xăng dầu, công tác
đầu tư, sửa chữa trong thiết bị đảm bảo cho sản xuất cơ khí hiệu quả;
- Căn cứ vào kế hoạch sản xuất cơ khí, xây dựng Công ty giao cho tổ chức chỉ
đạo phòng chức năng lập kế hoạch sản xuất hàng năm;
- Trực tiếp chỉ đạo việc triển khai kế hoạch sản xuất tại các đơn vị, tổ chức chỉ
đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của Phòng Quản lý Kỹ thuật và
Xưởng cơ điện, nghiệm thu tiến độ, chất lượng các công trình cơ khí, thành lập
phương án đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, hệ thống đo lường chất lượng, trang
thiết bị nhập, xuất, tồn kho, bồn bể để giảm thiểu hao hụt.
17
17

- 17 -
- Tìm kiếm ký kết các Hợp đồng kinh tế giải quyết việc làm cho khối sản xuất cơ
khí nhằm phục vụ tốt các các yêu cầu của Công ty, Xí nghiệp và toàn thể xã
hội.
Phòng Kinh doanh: Chức năng nhiệm vụ của phòng này được quy định
chi tiết và cụ thể trong Quyết định 119/XDCK-QĐ ngày 30/08/1997 của Giám
đốc Xí nghiệp có thể tóm tắt như sau:
- Tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu, Gas và các sản phẩm hoá dầu
khác trên địa bàn được phân công;
- Trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ kinh doanh xăng dầu, Gas, dầu mỡ nhờn
và các sản phẩm dầu khác trên địa bàn được phân công;
- Điều tra nghiên cứu thị trường, trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, kế hoạch kinh
doanh tháng, quý, năm;
- Xây dựng, triển khai chiến lược kinh doanh, chính sách xúc tiến bán hàng, cơ
chế hoạt động đối với từng kênh phân phối trong từng giai đoạn cụ thể;
- Xây dựng và tổ chức hướng dẫn thực hiện chế độ thông tin báo cáo, thống kê
thống nhất toàn Xí nghiệp. Tổng hợp báo cáo thống kê theo quy định của Công
ty và Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam;
- Quản lý và giao định mức hao hụt cho các cửa hàng, giám sát, kiểm tra các
đơn vị thực hiện tiết kiệm chi phí, phối hợp cùng các phòng nghiệp vụ xác định
chi phí khoán và bố trí lao động tại các Cửa hàng;
Phòng tổ chức hành chính: Chức năng nhiệm vụ của phòng này được
quy định cụ thể trong Quyết định số 117/XDCK-QĐ ngày 30/08/1997 của
Giám đốc Xí nghiệp:
- Phòng có chức năng tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp, tổ chức thực hiện các
công tác: Tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, bố trí sắp xếp,
quản lý sử dụng lao động, giải quyết các chế độ chính sách đối với người lao
18
18
- 18 -

×