Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.41 KB, 15 trang )

1

Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị ở Việt Nam hiện nay
The current income inequality between rural and urban area in Vietnam
NXB H. : TTĐTBDGV, 2012 Số trang 98 tr. +

Nguyễn Trung Kiên


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn: PGS.TS Phí Mạnh Hồng
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Hệ thống hóa một số khía cạnh lý thuyết có liên quan đến vấn đề bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập, đặc biệt là giữa các vùng miền, giữa nông thôn và thành thị.
Phân tích, đánh giá thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt
Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tìm hiểu, lý giải các yếu tố, các
nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập này. Đề xuất các giải pháp để đảm bảo
thu nhập giữa nông thôn và thành thị được công bằng hơn.

Keywords: Thu nhập; Kinh tế chính trị; Nông thôn; Thành thị; Việt Nam

Content
1. Lý do chọn đề tài
Tăng trưởng kinh tế khá toàn diện trong suốt hai thập kỷ đã tạo điều kiện vật chất để đất
nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, thực hiện phúc lợi đối với người có công với đất nước,
thực hiện tốt chiến lược xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế ở
nước ta cũng bộc lộ nhiều bất cập: ô nhiễm môi trường, gia tăng các biểu hiện làm giàu bất chính
như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế - thực hiện


công bằng xã hội. Tỷ lệ đói nghèo tập trung cao ở bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số, miền núi, sự bất bình đẳng xã hội, chênh lệch về mức sống, về y tế, văn hóa, giáo dục, sự
phân hóa thu nhập giữa các vùng miền, các ngành, các lĩnh vực ngày càng “doãng ra”. Trong số
đó, phải kể đến sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Sự bất bình đẳng trong thu
nhập giữa nông thôn và thành thị kéo theo một loạt các vấn đề khó khăn về kinh tế - xã hội cần
phải giải quyết như gây bức xúc trong xã hội, sự di cư lao động từ nông thôn ra thành thị.
Vì vậy, việc phân tích rõ thực trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa nông thôn và
thành thị để từ đó đưa ra các giải pháp thích ứng là một công việc có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Đó chính là lý do mà vấn đề “Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam
hiện nay” được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.


2

2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình thể hiện dưới các sách, bài báo viết về vấn đề công bằng và bất
bình đẳng xã hội nói chung trong nền kinh tế thị trường như đề tài “Quan điểm và giải pháp bảo
đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta” do GS.TS Hoàng
Đức Thân viết, đề cập đến hệ thống lý luận, thực trạng và giải pháp để thực hiện mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta. Đi vào vấn đề công bằng trong phân phối thu
nhập, đặc biệt đi vào nghiên cứu bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng miền, giữa nông thôn và
thành thị nói riêng thì có thể kể đến một số bài viết, cuốn sách như: Cuốn sách Kinh tế hộ gia đình
ở nông thôn Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển của TS Chu Tiến Quang và ThS Lưu
Đức Khải. Hoặc một bài viết khác là: ”Về chênh lệch thu nhập vùng và giữa thành thị - nông thôn
trong kinh tế Việt Nam” của GS TS Nguyễn Mạnh Hùng. Tổng hợp các bài viết, quan điểm trên
có thể thấy được sự bất bình đẳng về thu nhập của người dân nông thôn và thành thị Việt Nam là
rõ nét. Tuy nhiên gần như chưa có một công trình “dài hơi”, nghiên cứu một cách đầy đủ, khoa học và
hệ thống về sự bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nhằm làm rõ thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị để
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách này ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số khía cạnh lý thuyết có liên quan đến vấn đề bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập, đặc biệt là giữa các vùng miền, giữa nông thôn và thành thị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt
Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tìm hiểu, lý giải các yếu tố, các nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập này và
dề xuất các biện pháp giải quyết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa ở nông thôn và
thành thị trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị trong
phạm vi cả nước.
- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình về thu nhập của dân cư chủ yếu trong
thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa khoảng thời gian từ năm 1996 đến nay.



3

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu chủ yếu
- Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam; các Nghị quyết
Trung ương; các chương trình, chính sách và các báo cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước về bất
bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
- Các số liệu thống kê của Tổng cục thống kê đặc biệt là các báo cáo, khảo sát về thu nhập
của hộ gia đình Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong luận văn, tác giải chú trọng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch và áp dụng các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn như khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ bức tranh về bất bình đẳng kinh tế, đặc biệt là về thu nhập giữa nông
thôn và thành thị và các hệ quả kinh tế - xã hội của sự bất bình đẳng đó ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập ở nông thôn và thành
thị trong thời gian tới, từ đó thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị.
Chương 2: Thực trạng về bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị của Việt
Nam trong thời gian qua
Chương 3: Các giải pháp cơ bản để thực hiện giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa nông
thôn và thành thị

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT BẤT BÌNH
ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
1.1. Các khái niệm và thước đo bất bình đẳng
1.1.1. Khái niệm về thu nhập và các hình thức của thu nhập.
Thu nhập của một cá nhân hay hộ gia đình quy ra tiền trong một khoảng thời gian nhất định
là số tiền chi cho tiêu dùng cộng với sự thay đổi giá trị của tài sản tính bằng tiền trong khoảng thời
gian đó:
Thu nhập = Tiêu dùng + Sự thay đổi giá trị của tài sản
Các nhà kinh tế thường chỉ tập trung vào thu nhập bằng tiền:
4


Thu nhập bằng tiền là luồng tiền mà một cá nhân hay gia đình nhận được từ mọi nguồn như
lương, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức từ vốn tài chính như tiền lãi, lãi cổ phần, chuyển giao, vv.
Đơn vị đo lường phân phối thu nhập: là cá nhân, gia đình hay hộ.
1.1.2. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng xã hội trong phân phối thu nhập
1.1.2.1. Khái niệm về công bằng và bất bình đẳng thu nhập nói chung
+ Bình đẳng là được đối xử như nhau về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa…
không phân biệt thành phần và địa vị xã hội.
+ Công bằng là khái niệm về ý thức đạo đức và ý thức pháp quyền, chỉ điều chính đáng,
tương ứng với bản chất và quyền con người. Công bằng đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của
những cá nhân (những giai cấp) với địa vị xã hội của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và
thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ - không có sự tương xứng trong
những quan hệ ấy là bất công.
Bất bình đẳng kinh tế là một ý niệm chuẩn tắc. Nó mô tả sự sai lệch của phân phối thu
nhập thực tế so với một phân phối thu nhập chuẩn nào đó. Nếu sự sai lệch càng ít (nhiều) thì mức
độ bất bình đẳng càng thấp (cao). Phân phối thu nhập chuẩn thường được suy ra từ quan điểm
công bình xã hội mà đa số người trong xã hội chấp nhận. Ý niệm bất bình đẳng kinh tế hàm ý
phán đoán đạo đức, theo nghĩa bất bình đẳng kinh tế ít (nhiều) là điều tốt (xấu). Dưới các tiền đề
về công bình xã hội, một nhà kinh tế chuẩn tắc sẽ tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của bất bình
đẳng kinh tế, đưa ra một vài đề xuất để làm giảm mức độ bất bình đẳng kinh tế với mục đích làm
tăng phúc lợi xã hội.
Bất bình đẳng về thu nhập là để chỉ sự chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân hay nhóm
người trong xã hội.
1.1.2.2. Khái niệm và thước đo bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Bất bình đẳng về thu nhập giữa nông thôn và thành thị là sự chênh lệch về thu nhập (của
các cá nhân hay hộ gia đình) giữa nông thôn và thành thị. Đây có thể là chênh lệch tuyệt đối hay
chênh lệch về tỷ lệ thu nhập giữa thu nhập bình quân đầu người hay hộ gia đình của khu vực
thành thị so với nông thôn.
Các thước đo biểu thị bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
- Hệ số thu nhập bình quân đầu người ở thành thị so với nông thôn:

Thu nhập bình quân đầu người ở thành
thị
Thu nhập bình quân đầu người ở nông
thôn
Hệ số càng cao, có xu hướng gia tăng theo thời gian phản ánh xu hướng bất bình đẳng thu
nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn cao và gia tăng.
- Chênh lệch tuyệt đối về thu nhập bình quân đầu người ở thành thị so với nông thôn: Chênh
lệch này càng lớn phản ánh một sự bất bình đẳng thu nhập nào đó giữa thành thị và nông thôn.
5

Ngoài ra, để bổ sung và phản ánh, làm rõ thêm sự bất bình đẳng thu nhập giữa thành thị và
nông thôn, chúng ta còn sử dụng các thước đo sau:
- So sánh thu nhập giữa thành thị và nông thôn theo các nhóm ngũ vị phân.
- So sánh chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nhóm 5 thành thị và nhóm 1 nông thôn:
- Tỷ lệ hộ nghèo của thành thị so với nông thôn:
- Ngoài ra, để phản ánh sự bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị, chúng ta
còn có thể so sánh chênh lệch về chi tiêu, tài sản giữa cư dân nông thôn và thành thị. So sánh tỷ lệ
đầu tư vào khu vực nông thôn và đầu tư vào khu vực thành thị, so sánh tỷ lệ đầu tư của khu vực
FDI, đầu tư của tư nhân, đầu tư của nhà nước vào từng khu vực nông thôn, thành thị.
1.2. Tầm quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và
thành thị.
Để phát triển bền vững thành quả tăng trưởng phải được san sẻ tương đối đồng đều, trong
đó thu nhập phải được phân phối công bằng. Nếu không chênh lệch thu nhập sẽ làm giảm mức
tăng trưởng kinh tế, và ngược lại, tăng trưởng kinh tế không có tác động tiêu cực lên sự thay đổi
của mức phân hoá giàu nghèo.
Ngoài ra, một số nhà kinh tế liên kết phân hóa giàu nghèo và bất ổn xã hội. Tỉ lệ bất bình
đẳng cao không những tạo ra sự bức xúc trong dân chúng mà còn cản trở sự tích lũy vốn con
người, cản trở quá trình xây dựng một tầng lớp trung lưu to lớn và vững mạnh có khả năng dịch
chuyển xã hội một cách tích cực. Hơn nữa, bất bình đẳng thu nhập là một nguyên nhân quan trọng
đưa đến bất bình đẳng về cơ hội.

1.3. Các yếu tố tác động đến bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
1.3.1. Các lý do gây ra sự bất bình đẳng thu nhập nói chung trong nền kinh tế thị trường.
- Nguyên nhân có nguồn gốc từ tài sản
+ Do vốn góp: ngưởi có nhiều vốn đầu tư khác nhau, khi chia lợi nhuận được hưởng khác
nhau theo phần vốn đóng góp.
+ Hành vi tiêu dùng: mức độ tiêu dùng và tiết kiệm của mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng lớn đến
của cải tích lũy được.
+ Do kết quả kinh doanh: đối với các cá nhân đầu tư kinh doanh chấp nhận rủi ro có kết
quả kinh doanh khác nhau tạo ra sự khác biệt về tài sản của họ.
- Nguyên nhân có nguồn gốc từ lao động. Do khả năng lao động, xu hướng chung của
những người có sức khỏe, có khát vọng, có trí tuệ, có trình độ học vấn cao sẽ nhận được mức thu
nhập cao hơn. Do cường độ làm việc: khi cố định các yếu tố khác nếu cường độ làm việc, mức thu
nhập sẽ tăng và ngược lại. Khác nhau về nghề nghiệp, tính chất công việc dẫn đến sự khác biệt về
tiền lương.
- Hiệu quả kinh tế: bên cạnh việc có nhiều người đạt hiệu quả kinh tế cao, thu được lợi
nhuân lớn do tài giỏi, biết làm kinh tế, thì cũng có mội số người khác do may mắn nên thu được
lợi lớn hoặc gặp rủi ro, kém may mắn mà không có hiệu quả kinh tế, làm ăn thua lỗ.
6

- Khác nhau về những cơ hội trong cuộc sống:.
1.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố chi phối bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Ngoài các các nguyên nhân chung như đã đề cập ở mục trên, bất bình đẳng thu nhập giữa
nông thôn và thành thị còn do các nguyên nhân sau:
- Việc tập trung đầu tư cao vào các khu vực thành thị và không đầu tư nhiều vào khu vực
nông thôn đã gây ra sự bất bình đẳng về thu nhập giữa 2 khu vực này.
- Những nguyên nhân khác như sự phân biệt đối xử trong xã hội do sự khác biệt về vùng
địa lý; ảnh hưởng của rủi ro thiên tai; sự tham nhũng; sự quan tâm khác nhau của nhà nước với
các vùng miền, khu vực…
- Tình trạng lạm phát cao trong những năm gần đây đã gây đặc biệt khó khăn cho tầng lớp
người dân nghèo. Vùng nông thôn đã khốn khó thì việc giải quyết nghèo đói, tăng cao thu nhập

càng khó khăn hơn.
- Ngoài ra phải kể đến tập quán sinh hoạt, sự trì trệ tại các vùng nông thôn góp phần kém
phát triển tại các vùng này. Kèm theo hoạt động nông - ngư - nghiệp năng suất lao động thấp
thường chịu ảnh hưởng nhiều của thiên tai nên hiệu quả kinh tế thấp, thu nhập thấp.
1.4. Vai trò của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa
nông thôn và thành thị.
Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch định, vừa sử dụng các
nguồn lực – trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước – để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân
phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp
tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa… Nhà nước cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi
xã hội, bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là góp phần
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.5. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành
thị trên thế giới.
1.5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc nhận ra rằng “Viện trợ của Chính phủ cũng là vô nghĩa nếu người dân không
nghĩ cách tự giúp chính mình”. Hơn thế nữa, khuyến khích người dân tự hợp tác và giúp đỡ nhau
là điểm mấu chốt để phát triển nông thôn. Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào
xây dựng nông thôn mới của Hàn Quốc.
1.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Kinh nghiệm của Nhật Bản là đi theo hướng tạo ra những sản phẩm mang nét riêng độc
đáo, với giá trị gia tăng cao thì đời sống người nông dân ở các làng quê mới có thể cải thiện.
Người nông dân phải tự xác định đâu là tiềm năng và thế mạnh của địa phương mình để từ đó có
hướng đi cho phù hợp và phải tự chịu rủi ro với những quyết định đó. Chính quyền chỉ khuyến
7

khích và giúp họ bằng việc hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá giới thiệu
bán sản phẩm.


Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG THÔN VÀ
THÀNH THỊ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Thực trạng về khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị trong quá trình
đổi mới qua các chỉ số.
2.1.1. Động thái thu nhập của người dân ở nông thôn và thành thị
Từ năm 2002, thu nhập bình quân của người dân nông thôn đã tăng từ 275.000
đồng/người/tháng lên 378.000 đồng năm 2004, năm 2006 là 506.000 đồng, năm 2008 là 762.000
đồng và năm 2010 là 1070 đồng/người/tháng.
Theo hộ gia đình, năm 2006, thu nhập bình quân một hộ nông thôn đạt 26,1 triệu đồng,
tăng 11,3 triệu đồng (75,8%) so với năm 2002. Tại thời điểm 1-7-2011, tích lũy bình quân một hộ
nông thôn bằng tiền mặt và các khoản khác đạt 17,4 triệu đồng, so với tại thời điểm 1-7-2006 là
6,7 triệu đồng (trung bình tích lũy đạt 1.592.000 đồng/người/năm), tăng gấp 2,6 lần (con số tương
ứng của năm 2006 so với năm 2001 là 3,2 triệu đồng, tăng gấp 2,1 lần).
Với người dân thành thị tại Việt Nam, năm 1999, thu nhập bình quân đầu người đạt
517.000 đồng. Đến năm 2002 là 622.000 đồng, năm 2006 là 1.058.000 đồng, năm 2008 là
1.605.000 đồng, tăng 51,7% so với năm 2006 và năm 2010 tăng lên 2.130.000 đồng, tăng 32,7%
so với năm 2008.
2.1.2. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị qua các số liệu thống kê hiện hành.
Theo tỷ lệ thu nhập, khoảng cách thu nhập giữa người dân nông thôn và thành thị liên tục giảm
qua các năm. Thu nhập bình quân một người một tháng năm 1993 ở khu vực thành thị tương ứng gấp
khu vực nông thôn là 2,34. Đến năm 2010 thu nhập bình quân của người dân thành thị là 2.130.000
đồng/người/tháng, người dân nông thôn là 1.070.000 đồng/người/tháng, gấp sấp sỉ 2 lần.
Theo mức thu nhập tuyệt đối, khoảng cách thu nhập giữa người dân nông thôn và thành thị
liên tục tăng qua các năm. Năm 1999, chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn là 296.000
đồng, năm 2002 là 347.000 đồng, năm 2004 là 437.000 đồng, năm 2006 là 552.000 đồng, năm
2008 là 843.000 đồng và năm 2010 là 1.060.000 đồng
Theo nhóm ngũ vị phân, so sánh tỷ lệ thu nhập của nhóm 1 thành thị và nhóm 1 nông thôn,
tức là các nhóm nghèo nhất tại các khu vực. Năm 2008 là 1,80 lần và năm 2010 là 1,92 lần, như
vậy năm 2010 còn cao hơn cả năm 2002 là 1,92 so với 1,84. Điều đó thể hiện bất bình đẳng của

nhóm 1 nông thôn tăng mạnh một cách tương đối. Trong khi đó, so sánh theo tỷ lệ thu nhập của
nhóm 5 thành thị và nông thôn, tức là các nhóm giầu nhất tại các khu vực, từ năm 2002 đến 2010,
tỷ lệ này giảm liên tục, từ 2,47 lần giảm xuống còn 2,02 lần, thể hiện khoảng cách thu nhập của
các nhóm giầu nhất đã được giảm đáng kể.
8

Theo chênh lệch thu nhập tuyệt đối, tất cả các nhóm từ nhóm 1 đến nhóm 5 của thành thị
so với các nhóm tương ứng ở nông thôn đều tăng theo thời gian, thể hiện khoảng cách chênh lệch
tuyệt đối của các nhóm tương ứng giữa thành thị và nông thôn liên tục tăng.
Về chi tiêu: Năm 2010 tổng mức chi tiêu bình quân đầu người ở khu vực nông thôn đạt
950 nghìn đồng/người/tháng, tăng 53,4% so với năm 2008; khu vực thành thị đạt 1.828 nghìn
đồng/người/tháng, tăng 46,8% so với năm 2008. Nhìn chung, tổng mức chi tiêu ở khu vực thành
thị gấp 1,92 lần ở khu vực nông thôn và có xu hướng hẹp dần khoảng cách.
Xét tỷ trọng chi cho ăn uống trong tổng thu nhập. Trong khoảng thời gian năm 2008 –
2010, chi tiêu cho ăn uống của người dân nông thôn tăng nhanh hơn người dân thành thị (61,3%
so với 55,8%) và chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng chi (ở nông thôn là 52,5% và thành thị là 46,1%).
Điều này phần nào phản ánh sự khác biệt thu nhập ở nông thôn là cao hơn so với thành thị.
Theo tỷ lệ hộ nghèo, năm 2011 trong khi thu nhập giữa thành thị và nông thôn khoảng 2
lần thì tỷ lệ hộ nghèo của nông thôn và thành thị là 3,1 lần. (15,9% so với 5,1%.).
2.1.3. Khoảng cách thực tế về thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Các số liệu thống kê chỉ cho thấy những con số có thể thu thập được. Chúng không phản
ánh những nguồn thu nhập bất chính không được khai báo. Do đó, thực tế bất bình đẳng ở Việt
Nam có thể cao hơn những con số được công bố.
Nhóm người có thu nhập thấp nhất ở nông thôn thu nhập theo giá thực tế tăng 3,3 lần từ
năm 2002 đến 2010 thì nhóm thu nhập cao nhất ở nông thôn tăng 4,1 lần. Trong khi ở thành thị
thu nhập của nhóm người có thu nhập thấp nhất theo giá thực tế tăng 3,44 lần từ năm 2002 đến
2010 và nhóm thu nhập cao nhất tăng 3,36 lần. Ta thấy các nhóm dân cư ở nông thôn và thành thị
thu nhập đều tăng, cuộc sống đều cải thiện nhưng nhóm thu nhập thấp nhất ở nông thôn tăng chậm
nhất và nhóm thu nhập cao nhất ở nông thôn tăng nhanh nhất.
So sánh giữa nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị và nhóm có thu nhập thấp nhất ở nông

thôn ta thấy mặc dù tỷ lệ không thay đổi nhiều qua các năm nhưng lại ở mức rất cao: năm 2002 là
14,9 lần, năm 2006 là 14,5 lần và năm 2010 là 15,1 lần. Điều này cho thấy khoảng cách lớn của
các “cực thu nhập” giữa hai khu vực này.
Về chi tiêu, chi tiêu cho đời sống ở nông thôn năm 2010 là 890.000 đồng, chiếm 93,7%
tổng chi và tăng 62,4% so với năm 2008. Ở khu vực thành thị chi tiêu cho đời sống là 1.726.000
đồng, chiếm 94,4% tổng chi và tăng 54,8% so với năm 2008.
Tỉ lệ nghèo đói ở cả hai khu vực nông thôn và đô thị đều giảm dần trong những năm gần
đây, nhưng ở nông thôn không giảm nhanh bằng đô thị. Điều này đã làm cho sự chênh lệch về tỉ lệ
nghèo giữa nông thôn và thành thị thị ngày càng doãng ra từ 2,4 lần (năm 1996) lên 3,11 lần
(2011). Từ 1996 đến 2011, tỷ lệ hộ nghèo của thành thị giảm 4,36 lần trong khi ở nông thôn chỉ
giảm 3,39. Điều đó cũng có nghĩa rằng sự bất bình đẳng về tỉ lệ nghèo giữa nông thôn và thành thị
ngày càng lớn, tức là nông thôn ngày càng nghèo đi “tương đối” nhiều hơn so với thành thị.
9

Vấn đề khác cũng rất cần lưu ý là thu nhập liên quan đến tài sản. Chênh lệch tài sản ở
Việt Nam trong những năm gần đây còn tăng nhanh hơn chênh lệch thu nhập, với sự tích tụ của
cải hay nguồn lực của xã hội ở quy mô lớn vào tay một số ít người, đồng thời làm cho một số lớn
hơn nhiều bị mất hoặc giảm mạnh tài sản của mình (như nông dân mất đất canh tác). Tham nhũng,
lãng phí lan rộng, với mức độ ngày càng nặng nề cũng góp phần quan trọng tạo nên chênh lệch tài
sản lớn hơn.
Xét về mức độ đầu tư: Đầu tư cho nông nghiệp năm 2009 chỉ bằng 6,26% tổng đầu tư toàn
xã hội (trong khi GDP của ngành này là 20,91%) và hiện đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm chưa
đến 3% tổng GDP. Như vậy, khu vực nông thôn chiếm 70% dân số nhưng chỉ được đầu tư 50% từ
vốn ngân sách nhà nước. .
Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới: Từ năm 2008 đến năm 2010, chi tiêu của
người dân thành thị tăng 1,46 lần thì người dân nông thôn tăng 1,53 lần, trong khi tích lũy bằng
tiền mặt của người dân thành thị nông thôn đều giảm 1,19 lần và người dân nông thôn giảm 1,19.
Về mặt tích lũy, cả thành thị và nông thôn đều nghèo hơn trước và xu thế ở nông thôn nghèo
nhanh hơn do phải chi tiêu nhiều hơn.
2.2. Đánh giá chung bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam

hiện nay.
2.2.1. Mức độ bất bình đẳng và xu hướng của nó.
Theo tỷ lệ thu nhập bình quân đầu người, mức độ bất bình đẳng thu nhập giữa khu vực
thành thị và nông thôn có xu hướng giảm dần. Năm 2004 là 2,15, 2006 và 2008 đều là 2,1 lần và
năm 2010 là 2 lần. Trong thời gian tới dự đoán theo tỷ lệ, khoảng cách thu nhập tiếp tục được cải
thiện nhưng sẽ không giảm nhanh.
Ngược lại, theo mức thu nhập tuyệt đối, chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành
thị có xu hướng tăng liên tục qua các năm. Sau mỗi 2 năm thì chênh lệch tuyệt đối tăng khoảng
30% - 50%, tức là trung bình khoảng 15 – 25% mỗi năm. Dự đoán chênh lệch tuyệt đối về thu
nhập giữa thành thị và nông tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Khoảng cách giữa nhóm có thu nhập cao nhất ở thành thị và thấp nhất ở nông thôn vẫn
duy trì ở mức cao, khoảng 15 lần và vẫn có xu hướng tăng chậm. Ngoài ra, dự đoán chệnh lệch
nói chung giữa thành thị và nông thôn xét trên tổng thể nhiều lĩnh vực như tài sản, giáo dục, y tế,
đầu tư, cơ hội… vẫn rất lớn và tương lai chưa thể thu hẹp ngay khoảng cách này được.
2.2.2. Các hệ quả của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị đã tác động đến sự phân bố dân cư
giữa nông thôn và thành thị. Do mong muốn có một công việc ổn định, lương cao, nhiều người ở
nông thôn đã di cư đến thành thị, dẫn đến dân số tăng cơ học nhanh đẩy các đô thị lớn, đặc biệt là
hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào tình trạng tắc nghẽn giao thông, thiếu điện,
thiếu nước, thiếu nhà ở, gây sức ép nặng nề đối với công tác quản lý an ninh, trật tự xã hội, vệ
sinh an toàn thực phẩm, môi trường đô thị, cung cấp dịch vụ.
10

Nhưng điều đáng ngại nhất là kéo theo mâu thuẫn xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa
tầng lớp giàu có và lớp dân nghèo hình thành từ dân di cư.
2.2.3. Nguyên nhân của bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
* Sự chênh lệch về cơ hội. Người dân nông thôn luôn phải chịu thiệt thòi vì không có điều
kiện tiếp cận thông tin, nắm bắt tình hình và tham gia thị trường, để có việc làm đúng năng lực và
thu nhập cao, được tiếp tục học lên cao.
* Chính sách đất đai cho nông nghiệp còn quá nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, dẫn đến

việc tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp nhiều năm qua vẫn ở mức thấp.
* Đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn giảm dần. Hiện đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm
chưa đến 3% tổng GDP. Trước đó, vào các năm 2008, 2005, và 2000 thì tỷ trọng đầu tư của ngành
này tương ứng từng năm là 6,45%, 7,50%, và 13,85%,
* Chính sách công nghiệp cho nông thôn không được quan tâm đúng mức Đầu tư sản
xuất tập trung vào những ngành thu hút đầu tư nước ngoài mạnh và được bảo hộ cao như ô tô, xe
máy, hàng điện tử tiêu dùng… trong khi thị trường máy móc, vật tư nông nghiệp phục vụ nông
thôn gần như bỏ ngỏ.
* Chính sách, pháp luật về thuế thu nhập chưa được hoàn thiện. Việc ban hành các quy
định về đánh thuế thu nhập với người có thu nhập cao mới được nhà nước ban hành từ năm 2008,
chúng ta mới trong giai đoạn đầu thực hiện và còn nhiều bất cập trong các quy định cũng như tính
thực tiễn không cao.
* Cơ chế xin cho, bao cấp, môi trường kinh doanh nghiệp bình đẳng, thông tin thiếu minh
bạch đã tạo kẽ hở cho một số người giầu lên nhờ đầu cơ (đất đai, chứng khoán…), buôn lậu, tham
nhũng, trốn thuế….

Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI QUYẾT BẤT
BÌNH ĐẲNG THU NHẬP GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
3.1.Bối cảnh kinh tế chung và tác động của nó đến vấn đề bất bình đẳng thu nhập
giữa nông thôn và thành thị.
3.1.1.Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
* Những thách thức: Các quốc gia trợ không được trợ cấp ồ ạt hoặc bảo vệ quá mức cho
nông nghiệp, không cho phép khai thác bừa bãi tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường ngay từ giai
đoạn phát triển đầu. Tự do hóa thương mại tạo môi trường cạnh tranh quyết liệt, không thể bán
nông sản giá rẻ, chất lượng thấp của kinh tế nông thôn ngay cả ở thị trường trong nước. Cạnh
tranh công nghệ đang tiến theo xu hướng thu hút nhiều vốn, giảm lao động. Điều này không tạo
được nhiều thu nhập cho người lao động.



11

* Những cơ hội mới
- Nếu bần cùng hóa nông dân, vắt kiệt tài nguyên nông thôn để tích lũy tư bản cho công
nghiệp và đô thị thì mâu thuẫn quyền lợi sẽ gây bất ổn xã hội và đảo lộn chính trị.
- Vốn đầu tư linh động và dồi dào trên toàn cầu dễ dàng vào nước ta. Thị trường mở rộng
và giá cao đối với nông sản, dịch vụ đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh, có giá trị văn hóa,
không ô nhiễm môi trường.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những thị trường to lớn cho nông sản và dịch vụ
nông nghiệp, sản phẩm truyền thống ở nông thôn, mở ra cơ hội thu hút đầu tư, tiếp thu công nghệ và
kỹ năng quản lý. Nhờ hội nhập kinh tế, chúng ta thu hút được nhiều dự án từ nước ngoài tài trợ cho
khu vực nông thôn, cải thiện chất lượng cuộc sống và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn.
3.1.2. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao
động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của kinh
tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Công nghiệp hóa ở nông thôn Việt Nam
cũng dẫn đến tình trạng mất đất, thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng nghiêm trọng, hiện tượng
ly nông ra các đô thị kiếm sống rất lớn; phân hóa giàu - nghèo bất bình đẳng xã hội gia tăng; môi
trường nông thôn bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng; đời sống văn hóa xã hội có nhiều biểu
hiện xuống cấp.
3.2. Các quan điểm xử lý vấn đề bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
3.2.1. Từng bước bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa nông thôn và thành thị.
Tạo điều kiện cho người dân ở nông thôn và thành thị có xuất phát điểm như nhau, có điều
kiện tiếp cận các dịch cụ xã hội như nhau thì sau này, tùy thuộc sự cố gắng, nỗ lực của mỗi người
mà thu nhập mang lại có thể khác nhau nhưng người thu nhập thấp hơn nhận thấy rằng đó là do
yếu tố của bản thân, không phải do xã hội mang lại.
3.2.2. Tăng trưởng và phát triển bền vững làm cơ sở để giải quyết vấn đề bất bình đẳng.
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ tạo điều kiện về cơ sở vật chất để giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội,
phân phối lại thu nhập và gốc rễ là tạo sinh kế cho người dân. Kết hợp với phát triển nông thôn bền vững

mang tính toàn diện và đa phương, thu hút mọi người dân tham gia vào các chương trình phát triển,
nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn.
3.2.3. Quan điểm hỗ trợ các nhóm xã hội yếu thế, đặc biệt ở nông thôn cũng như dân
nghèo thành thị.
Để hỗ trợ, giúp đỡ những người, nhóm xã hội yếu thế tồn tại và phát triển, hòa nhập cộng
đồng, đồng thời đảm bảo sự phát triển ổn định xã hội, với chính sách nhân đạo thì chính phủ phải
luôn có chế độ, chính sách hỗ trợ họ về mặt tinh thần, vật chất.
12

Ngoài ra, cần chú ý hoàn thiện các thể chế, các quy định đầy đủ, chặt chẽ, có sự kiểm tra,
giám sát để chống tham nhũng tiêu cực và đảm bảo thực hiện phân phối bình đẳng hơn, đồng thời
phát huy đúng đắn vai trò của nhà nước trong việc phân phối thu nhập.
3.3. Các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề bất bình đẳng về thu nhập giữa nông
thôn và thành thị ở nước ta
* Nâng cao năng suất nông nghiệp
Đây là cách trực tiếp nhất nhằm nâng cao đời sống của người nông dân. Cải tổ đất đai và
tự do hóa nông nghiệp thường có những tác động lớn, mặc dù chỉ một lần, và tạo ra những khuyến
khích đối với quy mô sản xuất. Cải tiến nông nghiệp dựa trên những giống cây trồng mới và hệ
thống tưới tiêu -Cuộc cách mạng xanh - đã tạo ra nhiều thành công rực rỡ ở nhiều nước.
* Đầu tư vào con người
Nhà nước nên tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm nhằm thực
hiện mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập của lao
động nông thôn. Ngoài việc được đào tạo những kỹ năng nghề, lao động học nghề còn được trang
bị thêm kỹ năng về khởi sự doanh nghiệp và những kỹ năng “mềm” khác rất hữu ích trong cuộc
sống như: bình đẳng giới, kỹ năng tạo mối quan hệ trong cộng đồng
- Trí thức hóa nông thôn là một biện pháp cơ bản để giải quyết các vấn đề phát triển ở khu
vực này. Nhưng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn đã cản trở việc thu hút trí thức về nông
thôn. Các trường đại học phải có các khoa đào tạo những nghề có thể làm việc và sống tốt với
mức thu nhập ở nông thôn.
* Đa dạng hóa sinh kế cho nông dân, tạo các việc làm để tăng thu nhập cho người dân

nông thôn. Đa dạng hóa sinh kế là tạo việc làm cho nông dân ở những lúc nông nhàn, bằng cách
đa dạng hóa sản xuất, phát triển công nghiệp, dịch
* Thiết lập những cơ chế phân phối lại thu nhập.
- Cần áp dụng các loại thuế, trợ cấp khác nhau, các biện pháp kiểm soát giá và ưu đãi khác.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thích ứng với nền kinh tế thị trường.
- Khơi dậy và phát huy những nét văn hóa và đức tính tốt đẹp tiềm ẩn trong con người Việt
để hỗ trợ cho việc giải quyết bất bình đẳng. Tiếp tục khuyến khích mọi người, chính phủ, tổ chức
nước ngoài tài trợ, giúp đỡ cho những người, khu vực nghèo khó của Việt Nam.
- Có chính sách thu hút kiều hối và tạo điều kiện cho người dân đi xuất khẩu lao động.
- Điều chỉnh sự bất bình đẳng về tài sản. Các chính sách, pháp luật của nhà nước như thuế
thừa kế, thuế tài sản, thuế đầu tư v.v. cần được nghiên cứu và triển khai theo các trình tự hợp lý.
* Tăng đầu tư vào các dự án công và khu vực kém phát triển.
Điều chỉnh lại chiến lược đầu tư công để hiệu quả và phù hợp với thực tế, đẩy mạnh đầu tư
vào khu vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Xây dựng các công trình công cộng, cơ sở hạ
tầng giao thông, và cung cấp cấp điện có thể mang lại lợi ích cho các vùng trọng điểm thông qua
13

hai kênh chính; thứ nhất là tạo công ăn việc làm trong quá trình xây dựng, và thứ hai là cung cấp
dịch vụ sau khi quá trình thi công các công trình hoàn tất.
* Nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công. Giáo dục cơ sở và chăm sóc sức khoẻ
cần phải được cung cấp ở mọi nơi với chi phí phù hợp. Nước sạch và các dịch vụ vệ sinh môi
trường cần được đảm bảo. Cải thiện hệ thống an sinh xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân cũng là nhiệm vụ quan trọng.
* Để nâng cao giá trị của nông sản, cần áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng nông sản
để vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, vừa tăng thu nhập cho nông dân. Để làm được
điều này, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho nông sản.
* Cải thiện môi trường đầu tư ở nông thôn để tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư của các
thành phần kinh tế trong và ngòai nước về địa bàn nông thôn. Hỗ trợ cư dân nông thôn tích lũy
phát triển hộ ngành nghề, phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế trang trại, tạo điều kiện hình
thành liên doanh, liên kết giữa kinh tế đô thị với kinh tế nông thôn

* Tháo gỡ mọi vướng mắc, tạo điều kiện phát triển thị trường tài nguyên (lao động, đất,
vốn, khoa học công nghệ) ở nông thôn để cơ chế thị trường phát huy và nuôi dưỡng nội lực của cư
dân nông thôn, điều tiết có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên hiện có của xã hội vào quá trình phát
triển nông thôn.
* Điều hòa hợp lí sự di dân từ nông thôn ra thành thị.
Chính phủ cần có những chính sách thích hợp để hạn chế những vấn đề không mong muốn
có thể xảy ra và bảo vệ những người di dân khỏi những rủi ro có thể xảy đến, đồng thời điều hòa
hợp lí luồng di dân.
* Về xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm từ các mô
hình thí điếm, cần tiếp tục kế hoạch xây dựng nông thôn mới, kết hợp các giải pháp ở trên vận
dụng vào xây dựng nông thôn mới.

KẾT LUẬN

Tỷ lệ khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn ở Việt Nam hiện nay đã được
cải thiện đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều nội dung phải giải quyết để tiếp tục giảm khoảng cách
chênh lệch này, cải thiện hơn sự bất bình đẳng về thu nhập như tạo công việc làm, tăng thu nhập
cho nhóm người có thu nhập thấp của cả nước nói chung và của nông thôn nói riêng, giảm tỷ lệ
đói nghèo, giảm những cách biệt về cơ hội trong cuộc sống như đầu tư cho giáo dục, y tế, giao
thông ở nông thôn Các biện pháp đề ra mang tính vĩ mô, đòi hỏi phải có các chủ chương lớn,
định hướng cùa nhà nước, sự đầu tư của tư nhân, nhà nước và tranh thủ viện trợ, đầu tư từ nước
ngoài cùng với sự chung sức của toàn dân và đặc biệt là sự chủ động của bản thân người dân nông
thôn để thực hiện.
14

Những kết quả khoa học trong luận văn sẽ có sự đóng góp nhất định về mặt lý luận cho
khoa học Kinh tế chính trị, mà trực tiếp là vấn đề bất bình đẳng trong xã hội. Đồng thời là tài liệu
tham khảo bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách để giải quyết vấn đề giảm khoảng cách về
thu nhập giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam.


References
1. Đỗ Phú Trần Bình (2010), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Lý thuyết và thực
tiển ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hồ Chí Minh.
2. Bộ Lao động, thương binh và xã hội (2007), Kết quả điều tra thực trạng việc làm và
thất nghiệp ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Công, Ngô Mến, Nguyễn Khắc Minh, Trần Đình Toàn, Phạm Thị Kim
San, Hoàn Yến (2009), Giáo trình Nguyên lý kinh tế vi mô, Nxb Lao động, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
= article&sid =184.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/?topic =191
&subtopic=8&leader_topic=989.
8. Đoàn Dũng: Tổng thu nhập một tháng của nông dân, http://
tuanvietnam.vietnamnet.vn/doc-gia-phan-bien-tong-thu-nhap-mot-thang-cua-nong-dan.
9. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Nguyễn Đình Kháng, Nguyễn Văn Luân,
Nguyễn Xuân Khoát, Lê Danh Tốn, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Tiến Hoàng (2006), Giáo trình Kinh
tế chính trị Mác – Lê Nin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Mạnh Hùng: Về chênh lệch thu nhập vùng và giữa thành thị - nông thôn trong
kinh tế Việt Nam, ~tdung/Aix_NMHung.htm.
11. Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung (2009), Giáo trình Kinh tế phát triển, Nxb
Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
12. Phạm Xuân Nam, Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí cộng sản, số 13, tháng 7-2004, trang 22-31.
13. Nguyễn Thị Nga (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
14. Nguyễn Công Nghiệp (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15

15. Chu Tiến Quang (2005), Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế
nông thôn: Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Chu Tiến Quang, Lưu Đức Khải (2009), Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam -
Thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam – Hôm này và mai
sau, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2008), Nhận diện tham nhũng và các giải pháp
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hoàng Đức Thân (2010), Quan điểm và giải pháp bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta, đề tài cấp nhà nước, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
20. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004,
4284.
21. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006,
818219.
22. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008,
9712.
23. Tổng cục thống kê: Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2010,
12428.
24. Tổng cục thống kê, Báo cáo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009,
9784.
25. Tổng cục thống kê, Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thủy sản năm
2011, =4&ItemID=13398.
26. Viện nghiên cứu quản lý Trung ương (2012): Giảm khoảng cách chênh lệch thu nhập
tại Việt Nam, Hà Nội.
27. UNDP(2004), Đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và
chương trình 135.



×